Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ba Bài Kệ Của Lục Tổ Huệ Năng

24 Tháng Ba 201616:39(Xem: 19878)
Ba Bài Kệ Của Lục Tổ Huệ Năng
BA BÀI KỆ CỦA LỤC TỔ HUỆ NĂNG

Quảng Trí Nguyễn Bỉnh Quân

Ba Bài Kệ Của Lục Tổ Huệ Năng.

Bài này viết về ba bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng: bài kệ Kiến Tánh, bài kệ Vô Tướng trong Phẩm thứ ba của Kinh Pháp Bảo Đàn, và bài kệ thị tịch (kệ làm trước giờ lâm chung gọi là kệ thị tịch).

Lục Tổ Huệ Năng (638-713) là vị tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc. Một ngày nọ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở chùa Đông Thiền huyện Hoàng Mai xứ Kỳ Châu bảo các đệ tử làm một bài kệ kiến giải chân tâm để chọn người truyền pháptruyền y bát cho làm tổ đời thứ sáu. Nhân dịp này Thượng Tọa Thần Tú là vị giáo thọ dạy giáo pháp cho môn đồ trong chùa làm bài kệ sau đây:

   Thân thị Bồ đề thọ,
   Tâm như minh cảnh đài,
   Thời thời cần phất thức,
   Vật sử nhá trần ai.

Bản dịch của Tô Quế:

   Thân thiệt Bồ đề thọ,
   Lòng như minh cảnh đài,
   Hằng hằng lau phủi sạch,
   Chớ để vướng trần ai.

Bồ đề thọcây Bồ đề. Bồ đề còn chỉ tánh giác ngộ.

Minh cảnh đài là đài gương sáng. Minh cảnh còn chỉ tâm.

Khi ấy ngoài Ngũ Tổ ra chỉ có ngài Huệ Năng (lúc đó còn là một cư sĩ làm công việc giã gạo ở nhà bếp sau chùa) hiểu rằng bài kệ ấy chưa thấy Bổn Tánh. Lành thay chính bài kệ ấy lại làm xúc tác cho Huệ Năng ứng khẩu đọc bài kệ Kiến Tánh, nhờ quan Biệt Giá Trương Nhật Dụng viết giùm lên tường như sau:

   Kệ Kiến Tánh
   Bồ đề bổn vô thọ,
   Minh cảnh diệc phi đài,
   Bổn lai vô nhất vật,
   Hà xứ nhá trần ai?

Bản dịch của Tô Quế:

   Bồ đề đâu phải thọ,
   Minh cảnh có chi đài,
   Xưa nay không một vật,
   Nào chỗ vướng trần ai?

Nhờ bài kệ Kiến tánh này mà Huệ Năng được Ngũ Tổ truyền y bát cho làm Lục Tổ.

Thế giới đa đoan của vật chấttư tưởng thì sanh diệt biến đổi vô thường làm cho cõi đời vất vả gian truân. Trần ai là cõi đời vất vả gian truân. Tâm dính cảnh (tâm nhiễm ô vì vướng trần ai) thì gọi là còn ở bờ sanh diệt bên này. Tâm lìa cảnh (tâm thanh tịnh chẳng bợn trần ai) thì gọi là qua bờ bên kia. Tâm có thanh tịnh thì Trí Huệ mới phát sinh ra nhiều diệu dụng được.

Lục Tổ Huệ Năng giảng là để qua bờ bên kia cần dùng pháp "Đại Trí Huệ đáo bỉ ngạn" (người Tàu dịch từ tiếng Phạn "Ma ha Bát nhã Ba la mật đa"). Ma ha là lớn, diễn tả tâm lượng trống không thanh tịnh như hư không bao la (tâm thể trong sạch không có phiền não). Bát nhãtrí huệ niệm niệm chẳng mê, lui tới tự do, tâm thể trong sạch không chỗ nào trở ngại (trí huệ sáng suốt không mê muội không nhiễm ô). Trí Bát nhã là do Bổn Tánh mình sinh ra. Ba la mật đa là qua bờ bên kia thành Phật đạo (giác ngộ, an lạc). Bờ bên kia (bỉ ngạn) còn gọi  là Niết Bàn ( Niết Bàn diệu tâm). Nói Phật tại tâm vì Bổn tánh là Phật (1).

Xem bài kệ của Thần Tú thì hai câu đầu chấp thân như cây Bồ đề, chấp tâm như đài gương sáng tức là còn trước tướng không phải là  ý chỉ Ma ha. Hai câu sau cho thấy Thần Tú còn tốn nhiều công phu để dẹp dục dứt tình, thân căn chưa thanh tịnh nên Ngũ Tổ nói là chưa thấy Bổn tánh, chưa vào đặng cửa Đạo và không truyền y bát cho Thần Tú (theo Kinh Pháp Bảo Đàn).

Xem bài kệ của Huệ Năng,  lúc đó ngài đã minh tâm kiến tánhthân căn thanh tịnh không còn trước tướng nên không cầu cho thân như cây Bồ đề tâm như đài gương sáng giống Thần Tú. Vô trước nên tâm không bị ô nhiễm, không sanh vọng tâm.  Bổn lai tự tánh (còn gọi là Bổn lai Diệu giác Chơn tâm) vốn trong sạch, trống không. Bổn lai tự tánh không phải là một vật nên không thể đem ra lau chùi. Câu "Bổn lai vô nhất vật"  hay "xưa nay không một vật" là chỉ tâm lượng bao la không bị giới hạn, không bị mắc kẹt trong thế giới nhị nguyên của lành, dữ, thiện, ác, yêu, ghét, có, không... Còn "Hà xứ nhá trần ai" là chỉ tâm thể thanh tịnh không vướng trần ai.

Khi nghe Ngũ Tổ đọc tới câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" từ Phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong kinh Kim Cang chợt Huệ Năng ngộ được rằng tánh người vốn sẵn thanh tịnh, miễn là đừng sanh tâm chấp trước vào đâu cả (không chấp vào không, không chấp vào có, không chấp vào pháp) thì tâm hằng hằng thanh tịnh (2).

Theo Lục Tổ người học Tọa Thiền trước tiên phải thấy gốc tánh thanh tịnh, không bàn chuyện thị phi. Ngài còn chỉ rõ tập trụ tâm quán tịnh ngồi mãi không nằm để mong cầu đạo giác ngộsai lầm (3).

Ngài dạy đệ tử khi kiến tánh rồi thì phải khởi tu theo hạnh Bát Nhã. Vì nhất thời chưa thể trừ hết tập khí phiền não ô nhiễm lâu ngày nên người mới đốn ngộ (sơ cơ) cần tu theo hạnh Bát nhã chẳng ngừng trừ đi những lòng cố chấp để được thông suốt không ngăn ngại (triệt ngộ) (4).

Trên đường tu nếu tự tâm mình thường sanh trí huệ chẳng lìa tự tánh và khi gặp mọi cảnh giới tự mình có thể nhìn thấu để hóa độ tâm chúng sanh (tức là bỏ thói hư tật xấu và tâm bất thiện) nhà Thiền gọi là tự tánh tự độ (5).

Thiền phái Huệ Năng gọi là đốn ngộ do minh tâm kiến tánhnhập đạo để phân biệt với đường lối tiệm tu của Thần Tú vốn câu nệ nhiều về hình thức mà chưa minh tâm kiến tánh

Lục Tổ nói: 
" Phàm phu tức là Phật;
 Phiền não tức là Bồ đề.
niệm trước còn MÊ, tức là phàm phu, niệm sau được NGỘ, tức là Phật; niệm trước nương cảnh, tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh, tức là Bồ đề."
(Theo phẩm Bát Nhã trong Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Tô Quế.)

Người trong thế giới Ta Bà thường bị phiền não, khó lìa sanh tử (sanh tử là chỉ khổ đau). Nếu chìm đắm trong tham, sân, si và không bỏ được những thói quen xấu thì ắt là nhiều phiền não. Then chốt của đốn ngộ chính là phải nắm bắt được thiền cơ chớp nhoáng để chuyển mê khải ngộ.  Người trí biết dùng phương tiện thiện xảo chuyển hoá được những khó khăn của mình làm hết phiền não hết khổ đau nên có câu: " Phiền não tức Bồ đề, Sanh tử tức Niết bàn."

Ghi chú: phương tiện thiện xảo là những phương pháp lành và khéo dựa theo chánh pháp để độ chúng sanh tùy theo căn cơhoàn cảnh của mỗi người.

Lục Tổ dạy đừng nghĩ đến cả thảy lành dữ tự nhiên tâm thể thanh tịnh, rồi diệu dụng vô cùng. "Cả thảy lành dữ đừng nghĩ đến" tức là tâm lượng bao la không mắc kẹt trong tư tưởng nhị nguyên chứ không phải là không biết gì cả.  Người tu tâm khi thấy tâm vừa khởi phân biệt thiện ác, thị phi, tham, sân, si mà biết buông bỏ (không theo) tâm phân biệt nghĩ lường này thì tự nhiên vào được tâm thể thanh tịnh, sanh ra trí huệ Bát nhã đầy diệu dụng (6).

Lục Tổ còn dạy muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Người tu tại gia cũng có thể theo lời dạy của Lục Tổ dùng tánh mình mà độ lấy mình. Sau đây là kệ Vô Tướng ngài làm để đại chúng y theo đó mà tu tại gia trong Phẩm Quyết Nghi (Phẩm thứ ba) của Kinh Pháp Bảo Đàn theo dịch giả Tô Quế:

   Kệ Vô Tướng
   Lòng thẳng lo chi giữ giới,
   Nết ngay nào dụng tu thiền.
   Ơn kia khá nuôi cha mẹ,
   Nghĩa ấy hãy thương dưới trên
   Nhường thì lớn nhỏ hoà thuận,
   Nhịn lại các dữ dẹp yên.
   Bằng biết cưa cây lấy lửa,
   Bùn lầytrổ bông sen.
   Đắng miệng mới là lương dược,
   Trái tai hẳn thiệt trung nghiên.
   Chừa lỗi sanh ra trí huệ,
   Che chở lòng dạ đâu hiền.
   Hằng ngày mở lòng rộng lượng,
   Nên đạo đâu phải thí tiền.
   Bồ đề tự lòng tìm thấy,
   Nhọc chi ngoài tánh cầu huyền. (*)
   Nghe giảng tu hành theo đó,
   Thiên đường mắt thấy hiện tiền.

Đại ý: Nếu ai bền chí tu hành như biết cưa cây lấy lửa thì tu tại gia cũng giác ngộ được. Lòng thẳng là tâm bình đẳng không có tham sân si cũng giống như là trì giới rồi đó; nết ngay là tâm ngay thẳng không có vọng tưởng phiền não tức là thiền rồi đó. Phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính trên nhường dưới, nhẫn nhịn xử thế. Người tại gia vẫn tu tâm dưỡng tánh được. Nếu biết sửa đổi các lỗi lầm của mình ắt sanh trí huệ. Người tu hành hằng ngày nên mở lòng rộng lượng độ tất cả chúng sanh chứ không phải cứ bố thí tiền là thành đạo. Muốn giác ngộ phải nhờ tự tánh tự độ mới minh tâm kiến tánh được chứ đừng hướng ngoại cầu huyền, đừng mê tín dị đoan. (Sách "Tu Tâm Dưỡng Tánh" giảng: Hàng Phật tử phải dẹp trừ "tà kiến"; như thế mới gọi là "Tu Tâm.") Biết y theo lời giảng này mà tu hành thì thiên đường (ý nói cõi an lạc, tự tánh thanh tịnh) sẽ hiện tiền.

Thật là Phật pháp bất ly thế gian giác!  Đạo Phật là đạo của Từ BiTrí Tuệ. Nếu người tại gia biết lấy tự tánh tự độ, bền chí tu hành theo bài kệ Vô Tướng này thì ví như bông sen mọc ở chốn bùn lầy.

Ghi chú: (*) Xem lời Huệ Năng chỉ giáo cho Huệ Minh trong Phẩm Hành Do trong sách Pháp Bửu Đàn Kinh của Minh Trực Thiền Sư: "Nếu ông trở soi vào trong (hồi quang nội chiếu), thì thấy chỗ mật nhiệm ấy ở bên ông." 

Đây là chủ trương tu tâm dưỡng tánh để giác ngộ chứ không mê tín không cuồng tín. Hồi quang nội chiếu để phá những vọng căn vọng trần thì thấy chỗ mật nhiệm ấy là Niết Bàn diệu tâm.

Tiếp theo đây xin bàn tới bài kệ thị tịch Lục Tổ làm khi về thăm chùa Quốc Ân ở Tân Châu là quê hương của ngài trước khi viên tịch ở đó. 

   Kệ Thị Tịch
   Ngột ngột bất tu thiện
   Đằng đằng bất tạo ác
   Tịch tịch đoạn kiến văn
   Đảng đảng tâm vô trước (7).

Có thể dịch "bất tu thiện" là "không chấp thiện" theo tinh thần phá chấp ở phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong kinh Kim Cang. Tôi tham khảo Từ Điển Thiều Chửu và xin tạm dịch lại bài kệ này như sau:

   Kệ Thị Tịch
   Ngơ ngơ không chấp thiện
   Lâng lâng không tạo ác
   Lặng lặng xả thấy nghe
   Thênh thênh chẳng bận lòng.

Ngơ ngơ không chấp thiện nghĩa là tu hànhkhông chấp bề ngoài, dùng tâm thanh tịnh mà tu các pháp lành (8).

Lâng lâng không tạo ác nghĩa là thản nhiên thư thái, thân khẩu ý trong sạch không nghĩ không làm chuyện tà ác (9).

Hai câu trên là chỉ phép vô niệm.

Không chấp thiện không tạo ác là tánh không hai là Phật tánh, nghĩa là tánh mình chẳng động nơi các cảnh giới lành, dữ; chẳng nghĩ lành chẳng nghĩ dữ, tự tại, thư thái không có gì phải lo nghĩ, phiền não. Mình thấy cả thảy các pháp thiện ác mà lòng chẳng nhiễm tới, không động tâm cũng chẳng còn tạp niệm thì giống như thiền định (10).

Lặng lặng xả thấy nghe: buông xả các căn, trần, thức thì được thanh tịnh (phép vô tướng). Ví dụ: dù thấy cảnh ăn chơi sa đọa cũng không hùa theo, không bắt chước, dù nghe ngoại đạo chỉ trích hay chê bai cũng không để tâm, không tranh luận hơn thua. Người tu hành lẳng lặng xả hết tà kiến tà văn nên dù ở đâu thân tâm cũng thường an lạc.

Ghi chú: Sáu căn gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đối tượng tiếp xúc của sáu căn là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn làm cơ sở tiếp xúc với sáu trần để sinh ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức là nói chung cho ý niệmtư tưởng

Theo âm thanh sắc tướng là theo tướng bên ngoài. Dùng phép vô tướng không phóng tâm theo âm thanh sắc tướng bên ngoài thì tự nhiên giữ được giới thanh tịnh. "Đoạn" là buông bỏ không bám víu, không phân biệt, không tranh luận, không tranh giành tức là "Xả" trong Tứ vô lượng tâm. (Tứ vô lượng tâm gồm có: Từ, Bi, Hỷ, Xả nhằm đem lại hạnh phúc cho chúng sanh.)

Sách "Tu Tâm Dưỡng Tánh" của Thích Thiện Hoa giảng thêm: "Cái xả ở đây không phải chỉ là sự tha thứ, khoan dung đối với những ai đã làm ta đau khổ, không phải chỉ là sự vứt bỏ ra khỏi lòng ta những bực bội, xót đau mà người khác đã gieo vào lòng ta; không phải chỉ là bỏ qua những gì trái tai gai mắt đối với ta. Xả ở đây có tánh cách tuyệt đối, nghĩa là bỏ ra ngoài tất cả, không chấp trước một cái gì, dù là vật chất hay tinh thần, dù là xấu xa hay tốt đẹp, dù là ở địa vị phàm phu hay đã chứng được quả thánh. Nếu còn chấp trước nắm giữ một cái gì là còn cái ngã, mà còn cái ngã là còn tất cả, nghĩa là còn chưa giải thoát.

Nói như thế không có nghĩa là người tu hành phải nhắm mắt bịt tai để không thấy, không nghe gì cả; không phải là dửng dưng trước mọi sự mọi vật như đá, như gỗ, không phải là không làm gì cả, đứng khoanh tay như tượng đá. Không! Người theo hạnh Xả vẫn thấy, vẫn nghe, nhưng không đắm sắc, mê thanh, không để cho lòng mình vương vấn vào cái thấy cái nghe ấy; người theo hạnh Xả vẫn làm việc, làm việc nhiều hơn ai cả, nhưng vẫn không thấy mình có làm gì cả, nhất là khi làm được những việc có kết quả tốt đẹp."

Thênh thênh chẳng bận lòng: tâm lượng rộng lớn, không vọng tưởng chấp trước, đến khi không còn  phiền não chướngsở tri chướng là có được trí huệ Bát Nhã (phép vô trụ). 

Phiền não chướng bao gồm: tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến làm che lấp Chơn Tánh.
Sở tri chướng là những sự hiểu biết không chân thật làm che lấp trí huệ Bát Nhã. Ví dụ: tà thuyết, tà kiến, lòng cố chấp đều thuộc về sở tri chướng.
Không sanh tâm trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thênh thênh chẳng bận lòng.

Muốn qua được bờ bên kia  không phải chỉ nghĩ tới bàn tới là đủ mà còn phải biết nhờ vào tự tánh tự độ. Trong bài kệ cuối cùng này Lục Tổ nhắc nhở đệ tử nhờ vào tự tánh tự độ mà tiếp tục tu hành theo hạnh Bát Nhã. Không chấp thiện và không tạo ác: Tự tánh không hai tướng thiện ác, không lòng các việc trần lao ấy là vô niệm; dù thấy cả thảy pháp thiện ác mà lòng chẳng nhiễm tới bởi thế Chơn Tánh bao giờ cũng tự tại. Thường buông xả thấy nghe, ngoài lìa cả thảy tướng ấy là vô tướng; lấy vô tướng làm thể thì cái thể của các pháp tự nhiên thanh tịnh. Tâm thường thanh tịnh không tranh giành không thù hận ấy là vô trụ; lấy vô trụ làm gốc thì khỏi bị phiền não buộc ràng, lúc đó trí tuệ Bát Nhã hiện ra (11).

Lục Tổ nhờ nghe giảng Kinh Kim Cangngộ đạo nên dạy đệ tử phải trì tụng Kinh Kim Cang (12). Tinh hoa của Kinh Pháp Bảo Đàn không tách rời nội dung Kinh Kim Cang. Trong phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong Kinh Kim Cang có câu "Ưng Vô Sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" tức là Vô Trụ. Còn " Lặng lặng xả thấy nghe" (Vô Tướng) tức là ý giống như bài kệ phá chấp trong phẩm "Pháp Thân Phi Tướng" trong Kinh Kim Cang:

   Nếu thấy ta bằng sắc tướng 
   Nghe ta bằng âm thanh
   Người này đi đường tà
   Không thấy được Như Lai.

Ngoài ra có thể xem thêm phẩm " Pháp Nầy Bình Đẳng Không Có Cao Thấp" (tức là: "Tịnh Tâm Hành Thiện") trong sách "Kinh Kim Cang Dịch & Giảng của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa" để hiểu ý Lục Tổ nói "Ngơ ngơ không chấp thiện" là dạy phải dùng trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá trừ các chấp ngã chấp pháp mà tu các pháp lành. ("Pháp Nầy" chỉ Bổn Tánh.)

Sau khi Lục Tổ được giao phó y pháp chính ngài cũng nhờ vào tự tánh tự độ, dùng Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa tức là Đại Trí Huệ qua được bờ bên kia vào cõi Phật thanh tịnh quang minh. Người đầu tiên được ngài truyền pháp đốn ngộHuệ Minh; ngài dạy Huệ Minh không để niệm thiện ác nhị nguyên làm khởi phiền não để thấy tự tánh thanh tịnhbước đầu kiến tánh, sau đó lại dạy Huệ Minh hồi quang nội chiếu tức là lấy tự tánh tự độ, tức là sau khi kiến tánh thì phải khởi tu, tự mình tu tâm dưỡng tánh mà không để ý đến chuyện thị phi ở đời nữa. Thuở sinh tiền Lục Tổ từng nhiều lần thí pháp cho đủ mọi hạng người và làm nhiều bài kệ dạy đệ tử tu hành còn lưu lại trong Đàn Kinh được giải thích trong các bản dịch của HòaThượng Tuyên HóaHòa Thượng Minh Trực Thiền Sư. Tu tâm dưỡng tánh theo Đàn Kinhphù hợp với tinh thần phá chấp của kinh Kim Cang.

Chú thích:
(1) Xem Phẩm Bát Nhã trong Lục Tổ Đàn Kinh của Hòa Thượng Tuyên Hóa:
"Chư Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã Ba la mật là tiếng Phạn, có nghĩa là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi tâm làm, chớ chẳng phải do niệm nơi miệng. Miệng niệm và tâm không làm theo, tức như huyễn hóa, sương chớp; nếu miệng niệm, tâm hành theo thì tâm và miệng hiệp nhau. Bổn tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

...Tự tánh có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh mỗi người. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của người, mà chẳng chấp chẳng bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm như hư không, ấy gọi là lớn, cho nên gọi là Ma ha.

...Tâm lượng quảng đại, châu biến pháp giới, có công dụng hiểu biết rõ ràng. Tâm lượng khi ứng dụng ra, tức biết hết tất cả sự vật. Tất cả tức quy về một, một tức gồm tất cả, tới lui tự tại, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy.

...Sao gọi là Ba la mật? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc, nhà Đường gọi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là ra khỏi sự sanh diệt. Tâm dính cảnh, sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, tức là thử ngạn (bờ bên này). Còn tâm lìa cảnh, không có sự sanh diệt, như nước thường lưu thông, tức gọi là bỉ ngạn (bờ bên kia). Cho nên gọi là Ba la mật.

...Các ngươi phải dùng đại trí huệ để phá tan năm uẩn và các sự phiền não trần lao. Tu hành như thế ấy, chắc thành Phật đạo. Phải biến ba độc thành Giới, Định, Huệ."

(2) Xem Phẩm Tự Tự (phẩm thứ nhứt) trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Tô Quế:
"Huệ Năng nầy liền hội được ý Tổ, nên khi trống trở canh ba bèn vào thất. Tổ lấy áo cà sa choàng đắp cho Huệ Năng nầy, không cho người thấy , lại vì Huệ Năng mà nói kinh Kim Cang. Vừa tới câu "Ưng Vô Sở trụ, nhi sanh kỳ tâm", nghĩa là: Ưng không chỗ trụ, mà sanh thửa lòng.
Huệ Năng nghe qua câu đó liền ngộ, cả thảy muôn pháp chẳng lìa nơi tánh mình , bèn bạch với Tổ rằng :
Chẳng dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh;
Chẳng dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt;
Chẳng dè tánh mình vốn sẵn đủ cả;
Chẳng dè tánh mình vốn không động lay;
Chẳng dè tánh mình hay sanh muôn pháp."

(3 Xem các Phẩm Tọa Thiền, Đốn TiệmĐịnh Huệ trong Pháp Bửu Đàn Kinh của Minh Trực Thiền Sư:
Phẩm Tọa Thiền:
"Pháp môn Tọa Thiền nầy nguyên là chẳng trước tâm (dính níu theo tâm), cũng chẳng trước tịnh (dính níu theo cảnh tịnh), cũng chẳng phải chẳng động."
"Chỉ bởi vọng niệm nên Thể Chơn như mới bị lấp che. Nếu khôngvọng tưởng thì tánh tự nhiên thanh tịnh (trong sạch)."
"Chư Thiện trí thức, người mê muội, thân tuy chẳng động mà khi mở miệng ra, thì nói chỗ phải quấy, hay dở, tốt xấu của người, thế làm trái nghịch với Đạo. Bằng trước tâm chấp tịnh, tức là làm ngăn lấp cái Đạo vậy."
Phẩm Đốn Tiệm:
"Sư nói: "Trụ tâm quán tịnh, ấy là bịnh, chẳng phải Thiền. Thường ngồi là câu thúc cái thân, đối với Đạo lý có ích chi đâu!"
Phẩm Định Huệ:
"Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động, thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng, mà bị Duy Ma Cật quở vậy.
Chư Thiện trí thức, lại có người dạy ngồi xem cái tâm, quán tưởng tâm cảnh vắng lặng, ngồi yên chẳng dậy, bảo y theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo, rồi thành điên dại. Số người lầm như thế chẳng phải là ít. Truyền dạy nhau như vậy, thiệt là lầm to!"

(4) Xem trong Phẩm Bát Nhã bản dịch của Tô Quế: 
"Miệng chớ trọn ngày luống nói KHÔNG, mà trong lòng chẳng tu theo hạnh BÁT NHÃ ấy, giống như một kẻ phàm nhơn kia, tự xưng mình là vị Quốc vương, mà trót chẳng làm đặng: ấy chẳng phải đệ tử của ta.
...Bằng tỏ ngộ được PHÉP ĐỐN GIÁO này, thì không chấp giữ sự tu theo bề ngoài, chỉ nơi lòng mình hằng dấy chỗ thấy chánh; những điều phiền não, trần lao thường không nhiễm được, mới gọi là KIẾN TÁNH.
Thiện tri thức! Trong ngoài chẳng ngừng, lui tới thong thả, hay trừ những lòng cố chấp, thông suốt không ngăn ngại. Tu được hạnh này thì theo kinh BÁT NHÃ, vốn không sai khác."

(5) Xem Phẩm Hành Do  và Phẩm Sám Hối trong Lục Tổ Đàn Kinh của Hòa Thượng Tuyên Hóa.
Phẩm Hành Do:
Tổ đưa ta thẳng đến trạm Cửu Giang, bảo ta lên thuyền, rồi Ngũ Tổ tự cầm chèo mà đưa. 
Huệ Năng nầy nói: “Thỉnh Hòa Thượng ngồi, để cho đệ tử chèo mới đúng.” 
Ngũ Tổ nói: “Ta độ ngươi mới phải.” 
Huệ Năng nầy nói: “Lúc mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ.” “Độ” tuy tên là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng nầy sanh nơi biên địa, giọng nói không đúng, nhờ Thầy truyền pháp, nay đã được tỏ ngộ, thì chỉ nên ngay tánh mình mà độ mình mới phải.” 
Phẩm Sám Hối:

"Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải tự tánh tự độ, mới gọi là thiệt độ.
Sao gọi dùng tánh mình mà độ lấy mình (tự tánh tự độ)? Nghĩa là các chúng sanh trong tâm là tà kiến, phiền não, ngu si, nên phải đem chánh kiếnhóa độ các tánh xấu ấy. Đã có sẵn chánh kiến thì phải dùng trí Bát nhã để đánh dẹp các chúng sanh ngu si, mê vọng. Mỗi mỗi mình phải độ lấy mình: Tà đến lấy chánh độ; mê lại, dùng ngộ mà độ; ngu đến, lấy trí mà độ; dữ lại dùng lành mà độ. Độ như thế, mới gọi là thiệt độ.

Lại nữa, phiền não vô tận thệ nguyền đoạn, nghĩa là đem Trí Bát nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt độ.
Lại còn, pháp môn vô lượng thệ nguyền học, nghĩa là tự mình phải thấy tánh, thường thực hành chánh pháp. Thế mới gọi là thiệt học.
Phật Đạo vô thượng thệ nguyền thành, tức thường hay hạ tâm (khiêm cung), làm việc chơn chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo. Thường thường tưởng đến việc tu hành tạo nên pháp nguyện lực vậy."

(6) Xem Phẩm Hộ Pháp trong Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Tô Quế nói về tánh Bổn lai: " ...Ngươi bằng muốn biết chỗ tâm yếu, thì cả thảy lành, dữ đều chớ nghĩ đến, tự nhiên vào được cái tâm thể thanh tịnh, trong trẻo bằng lặng , rồi diệu dụng nhiều như cát sông Hằng." 

(7) Tô Quế dịch như sau:
   Trơ trơ không tu lành;
   Hằm hằm chẳng làm ác;
   Lặng lặng dứt thấy nghe;
   Thinh thinh lòng không chác.
Tôi tra cứu Từ Điển Thiều Chửu để tạm dịch lại bài kệ thị tịch. Đằng đằng tôi dịch là lâng lâng, giống ý chữ dùng trong câu thơ " Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba " của Nguyễn Trãi nghĩa là giấc mộng thanh lâng lâng xoay vần trên khói sóng.
Tinh thần vô trước hay phá chấp: Tinh thần không câu chấp, không nô lệ vào các hình thức, ngôn ngữ

(8) Xem Phẩm Bát Nhã trong Pháp Bửu Đàn Kinh của Minh Trực Thiền Sư:
"Chư Thiện trí thức, cả thảy trí Bát Nhã đều do trong tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà vào. Chớ lầm dùng cái ý thức. Ấy gọi là Chơn tánh tự dụng ...
...Cái Trí Bát Nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi.  Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn Tánh của mình, tức là người tiểu căn.  Hiểu rõ pháp Đốn Giáo tu hànhkhông chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là người thấy tánh."

(9) Xem lời giảng của Hòa Thượng Tuyên Hóa ở Phẩm Nghi Vấn trong Lục Tổ Đàn Kinh:
"Thập ác gồm ba điều ác của thân (sát sanh, trộm cắp, tà dâm), ba điều ác của ý (tham, sân, si 'tà kiến') và bốn điều ác của khẩu, là những điều tệ ác nhất tức ỷ ngữ (nói lời ô trọc không thanh tịnh, chuyên nói về vấn đề nam nữ); vọng ngôn: nói láo, đặt điều; ác khẩu: tức chửi mắng người; lưỡng thiệt: chuyên bới móc, ly gián, nói chuyện thị phi."

(10) Xem Phẩm Tự Tự, Phẩm Bát Nhã, Phẩm Diệu Hạnh và Phẩm Sám Hối trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Tô Quế:
Phẩm Tự Tự:
" cái tánh không hai tức là Phật tánh."
Phẩm Bát Nhã:
" Dẹp bỏ lòng tà quấy,
 Đánh phá phiền não ấy.
 Ghét thương chẳng bận lòng,
 Giuỗi cẳng nằm an nghỉ. "
(Có thương ghét thì có phiền não, vọng niệm tức là chưa giải thoát sanh tử; điều này sẽ làm đạo tâm suy sụt.)
Phẩm Diệu Hạnh:
"Sư tỏ cùng chúng rằng: cácThiện tri thức! Sao gọi là TOẠ THIỀN? Trong pháp môn ấy, không lấp không ngăn, ngoài nơi cả thảy cảnh giới lành, dữ mà chỗ TÂM NIỆM chẳng dấy tưởng, ấy gọi là TOẠ. Trong thấy tánh mình chẳng động, ấy gọi THIỀN.
Thiện tri thức! Sao gọi là THIỀN ĐỊNH? Ngoài lìa tướng là THIỀN, trong chẳng loạn là ĐỊNH. Bằng ngoài còn trước tướng, thì trong lòng ắt loạn; bằng ngoài lìa tướng thì trong lòng ắt chẳng loạn. Gốc tánh mình TỰ TỊNH TỰ ĐỊNH; chỉ vì thấy cảnh, tưởng cảnh mà phải rối loạn. Ví bằng thấy các cảnh mà lòng chẳng rối loạn ấy mới thiệt là CHƠN ĐỊNH vậy.
Thiện tri thức! Ngoài lìa TƯỚNG tức là THIỀN, trong chẳng loạn tức là ĐỊNH; ngoài THIỀN trong ĐỊNH, ấy là THIỀN ĐỊNH. Trong kinh BỒ TÁT GIỚI có câu rằng: " Gốc tánh ta vốn sẵn thanh tịnh".
Thiện tri thức! Trong niệm niệm mình, mình thấy gốc tánh thanh tịnh, mình tu, mình hành, mình thành PHẬT ĐẠO."
PHẨM SÁM HỐI:
"...nơi lòng mình không theo chỗ leo chuyền, chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ dữ, tự tại không chỗ ngăn trở, danh là GIẢI THOÁT HƯƠNG."

(11)  Xem bản dịch của Tô Quế.
Phẩm Bát Nhã: "Sao gọi là VÔ NIỆM? Bằng thấy cả thảy phép, mà lòng chẳng nhiễm tới, ấy là VÔ NIỆM; dùng tới thì khắp cả thảy chỗ, cũng chẳng chấp cả thảy chỗ. Nhưng sạch lòng mình, khiến SÁU THỨC ra SÁU CỬA, ở trong SÁU TRẦN không nhiễm không xen, thì tới lui thong thả, thông dùng không ngăn trở, tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI vậy; tại mình GIẢI THOÁT gọi là HẠNH VÔ NIỆM. Bằng trăm việc chẳng nghĩ đến, hằng khiến dứt niệm, tức là PHÁP PHƯỢC (Phép trói) gọi là BIÊN KIẾN (thấy một bên)."
Phẩm Định Huệ: "...VÔ TRỤ ấy: là bổn tánh của người thế gian, lành, dữ, tốt, xấu, cho đến kẻ thù, người thân, cùng  khi lời nói xúc phạm, dối giành, đều coi như không có, chẳng lo trả oán hại người. Trong lúc niệm niệm chẳng nhớ cảnh trước. Ví bằng trước niệm, nay niệm, sau niệm; niệm niệm nối nhau chẳng dứt, gọi là trói buộc. Nơi trên các pháp, niệm niệm chẳng trụ, tức là không trói buộc vậy. Ấy thiệt lấy VÔ TRỤ làm gốc.
Thiện tri thức! Ngoài lìa cả thảy TƯỚNG gọi là KHÔNG TƯỚNG. Hễ lìa được tướng thời pháp thể thanh tịnh, ấy thiệt lấy VÔ TƯỚNG làm vóc.
Thiện tri thức! Gồm cả các cảnh, lòng chẳng nhiễm tới mới rằng VÔ NIỆM...
...Thiện tri thức! Sao gọi lập VÔ NIỆM làm chủ? Chỉ vì người mê, miệng nói thấy tánh theo TRÊN cảnh mà có niệm, trên chỗ niệm mà dấy lên thấy tà, cả thảy trần lao vọng tưởng theo đó mà sanh ra; tánh mình vốn không một pháp khá đặng. Nếu có chỗ đặng, thì chạ nói điều phước họa, tức là trần lao tà kiến, cho nên PHÁP MÔN này lập KHÔNG NIỆM làm chủ.
Thiện tri thức!
KHÔNG ấy, KHÔNG việc gì?
NIỆM ấy, NIỆM vật gì?
KHÔNG ấy : là KHÔNG HAI TƯỚNG, KHÔNG LÒNG các việc trần lao.
NIỆM ấy: là NIỆM BỔN TÁNH CHƠN NHƯ, tánh chơn như tức là cái vóc của sự niệm, mà niệm tức là chỗ dụng của tánh chơn như. Chơn như tự tánh mình dấy niệm, chẳng phải mắt, tai, mũi, lưỡi hay niệm được; chơn như có tánh, để dùng dấy niệm...
... Thiện tri thức! Chơn như tự tánh mình khởi niệm, sáu căn tuy có thấy, nghe, rõ, biết, muôn cảnh chẳng nhiễm, mà tánh chơn thường tự tại."
Tra Từ điển Thiều Chửu chữ Chơn như:
如 - như: Nguyên như thế, trong kinh Phật cho rằng vẫn còn nguyên chân tính không nhiễm trần ai là như.
Chơn như là chỉ cái đạo thật đời đời không đổi. 

(12) Xem Phẩm Bát Nhã trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Tô Quế:
"...niệm niệm chẳng MÊ, hằng theo TRÍ HUỆ, tức là HẠNH BÁT NHÃ.
...muốn vào đến PHÁP GIỚI rất sâu thâm cùng TRÍ BÁT NHÃ chánh định, phải tu theo HẠNH BÁT NHÃ trì tụng kinh Kim cang Bát nhã, bèn đặng thấy tánh."

Tài liệu tham khảo:
1) Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Diên Sanh Cư Sĩ Tô Quế. Ấn tống ở Hoa Kỳ.
2) Lục Tổ Đàn Kinh Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng. Bản Việt Ngữ in lần thứ nhất 2004.
3) Pháp Bửu Đàn Kinh Huệ-Năng Lục-Tổ của Hòa Thượng Minh Trực Thiền Sư. Phật Giáo Hòa Hảo San Jose ấn tống 1987.
4) Từ Điển Thiều Chửu. Nguồn từ Internet.
5) Kinh Kim Cang Dịch & Giảng của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Chùa Khánh Anh ở Pháp ấn tống.
6) Tu Tâm Dưỡng Tánh của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Trung Tâm Phật Giáo Hayward ấn hành 2001.

Quảng Trí Nguyễn Bỉnh Quân.
27/12/2015.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9950)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10337)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34404)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9177)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20440)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8749)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12107)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9971)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10613)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9333)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9189)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22239)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10182)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9448)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8352)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10176)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9390)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8337)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8521)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7969)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8618)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9629)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9508)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23696)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9638)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30886)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27115)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32701)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27751)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9389)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14205)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28144)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23270)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant