Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm (5)

28 Tháng Tư 201607:05(Xem: 10566)
Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm (5)

Bài Thứ 5 
GÓP NHẶT NHỮNG VIÊN NGỌC CHÁNH NIỆM 

Quán Như Phạm Văn Minh

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm


FAQ: Làm sao để biết ai là người hướng dẫn thực tập có khả năng?

Phong trào MBSR đào tạo được khoảng chừng 9 ngàn người hướng dẫn chánh niệm tốt nghiệp từ cơ quan phụ trách đào tạo Oasis, trung tâm huấn luyện các giáo thọ chuyên nghiệp. Có chừng 18 ngàn bệnh nhân đã theo học các khóa MBSR ở UMass và một số lớp khác tổ chức tại địa phương. Để bảo vệ chất lượng huấn luyện các cơ sở này có giáo chức huấn luyện và chương trình giảng dạy hoàn bị. Ngoài ra còn có các trung tâm nghiên cứu Chánh Niệm như ở đại học California- Los Angeles (UCLA) tổ chức một chương trình 6 tuần lễ dành cho những sinh viên hay nhân viên và giáo chức muốn trở thành giáo thọ Chánh Niệm. Các trung tâm nghiên cứu khác được thành lập rãi rác ở những nơi khác như Penn Program for Mindfulness ở Philadelphia. Phong trào phổ biến rộng rãi cho nên có các khóa huấn luyện cũng lan tràn Online. Các người tốt nghiệp được phát chứng chỉ Certified MBSR Teachers trước khi được nhận vào các bệnh xá hay bệnh viện trên toàn thế giới. Các kho dữ liệu Y tế như EBSCO, CINAHL, PSYCLINE và MEDI-LINE đều công nhận MBSR là một chương trình có chất lượng cao và hiệu quả đồng nhất trong việc chữa trị căng thẳnglo âu. Viện Y Tế Quốc Gia (Mỹ) đã tài trợ cho MBSR để tiếp tục nghiên cứu. Dù số tài trợ còn khiêm tốn nhưng đừng quên là 30 năm trước (1980) chưa ai (ở Mỹ) biết chánh niệm là gì!

Nhưng nghịch lý là mỗi khi thực hành chánh niệm quý vị là người đóng vai chánh, sống ‘đời mình’ không ai có thể thay thế quý vị được. Cho nên quý vị là người ‘Thầy’ giỏi nhất cho mình. Các nhà sư Tây Tạng dù đã bao năm tu tập trong các hang thâm cùng cốc khi được yêu cầu ‘dạy’ Chánh Niệm bao giờ cũng nhũn nhặn nói: “Tôi không biết gì cả! Lẽ ra quý vị nên học với người khác”. Đây không phải là lời khiêm nhượng giả vờ, nhưng các Đại Sư biết rằng mỗi lần thực niệm chánh niệm trong khoảnh khắc này là bắt đầu một cuộc hành trình ‘mới’, không giống hành trình trong khoảnh khắc trước. Các Thiền sư thường tự ví mình như một người bán thức uống gần bờ sông! Cần mà không cần!

Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống. Lúc ban đầu quý vị cần một người và các văn bản hướng dẫn cũng để sử dụng như bảng chỉ đường trí tuệ, để quý vị làm quen với kỹ thuật thực tập và có những tiến bộ sơ khởi. Giống như một đứa trẻ tập đi, phải té lên té xuống nhiều lần mới có ‘kinh nghiệm’ giữ thăng bằng. No pain no gain, nhưng chánh niệm không phải chỉ có pain. Khi quý vị đến mức hỷ xả, có những niềm vui xuất hiện, nhất là khi đạt được kết quả tích cực về thân tâm.

Nói một cách chính xác, không có người nào được gọi là Thiền Sư, ai cũng là thiền sinh, hành giả ‘sơ tâm’. Nhớ lời Phật thách thức đệ tử là, trước khi chấp nhận lời Phật dạy, phải tự tìm hiểu xem lời Phật có phải là vàng ròng hay không, rồi hãy áp dụng. Hay nhớ tới kinh Kalama chỉ chấp nhận giáo lý vì thấy giáo lý đó phục vụ được mục tiêu cứu khổ, không phải chỉ vì đó là giáo lý của Đức Thế Tôn truyền dạy. Lòng tin mù quáng không có chỗ đứng trong Phật giáo! Vì thế trong các bài tập chỉ dẫn các nhà khoa học bao giờ cũng nhấn mạnh tới thái độ uyển chuyển, ứng biến của ‘học viên’.

Các thiền sư dòng Tào Động thì ‘tuyển sinh’ khó hơn. Các hành giả thường là người Tây phương phải qua tận Nhật ‘hành hương’ và trình diện xem Sư phụ có chịu chấp nhận mình làm đệ tử hay không. Sau đó được giáo huấn trong một thời gian trung bình vài năm, khi Sư Phụ cho phép đệ tử trình kiến giải trong các cuộc tham vấn (dokusan) xem đệ tử có thực sự giác ngộ chưa, để tránh trường hợp đệ tử ‘quá’ tự tin, nghĩ là mình đã ‘giác ngộ’ (theo nghĩa satori)

Khi được chấp nhận đệ tử sẽ được ban danh hiệu Roshi và trên nguyên tắc có thể làm giáo thọ ở bất cứ nơi nào. Theo tôi được biết Thầy Phụng Sơnngười Việt duy nhất từ trước đến nay được phong danh hiệu Roshi. Có lẽ thầy Phụng Sơn nên kể lại quá trình Tầm Sư Học Đạo của mình cho quần chúng Phật tử biết.

FAQ: Có thầy, có văn bản hướng dẫn thực tập, nhưng liệu tôi ‘có thể’ thực hành Chánh Niệm được không?

Đây là một câu hỏi thông thường nhất. Người hỏi chưa đủ tự tin và còn hiểu lầm về chánh niệm. Ai có thân thể khỏe mạnh và óc não sáng suốt đều có thể thực hành chánh niệm, dĩ nhiên thực hành chánh niệm không phải dễ, nhưng nếu được hướng dẫn và với tinh tấnkiên trì, ai cũng có thể thực hành được!

Nghĩ mình không thể thực hành Chánh Niệm cũng giống như nghĩ mình không thể thở (thực ra cuống não tự động thở cho quý vị), hay không thể chú ý hay thư giãn. Khi đủ một số điều kiện hay biết cách vun xới, ai cũng có thể chú ý.

Thường người ta hay lẫn lộn giữa chánh niệm và thư giãn, hoặc nghĩ thực hành chánh niệm để đạt tới một tình trạng hay cảm tưởng ‘đặc biệt’ nào đó. Nếu họ thực hành chánh niệm một vài lần, họ cảm thấy không đi đến đâu, và không đạt được tình trạng mong muốn, họ nghĩ họ “không thể” thực hành chánh niệm được. Nhưng chánh niệm không nhằm mục đích nào hết, cũng không làm quý vị có cảm tưởng ‘đặc biệt’ nào. Nó cũng không có mục đích làm quý vị an tĩnh, mặc dù khi thực hành tới mức chín mùi, quý vị có thể có an lạcvui sướng của trạng thái “định” (Samadhi). Chánh niệm cũng không có mục đích làm Tâm rỗng không (vì tâm viên, ý mã, Tề Thiên không lúc nào chịu ngồi yên, lúc nào cũng nhảy nhót , khọt khẹt) quý vị càng đàn áp thì Tề Thiên càng ‘làm tới’. Khi niệm chú Chánh Niệm, Tề Thiên nhức đầu mới chịu thôi. Không tin quý vị có thể hỏi Đường Tăng! Chánh niệm là chú ý theo dõiđể Tâm xuất hiện như là just as it is (như nó là), không can thiệp hay áp đặt trên bất cứ một trãi niệm nào. Nhớ từ ngữ Let Be (giữ nguyên) và Let Go (buông xả), thái độ vô cầu như đã đề cập ở trên. Chánh niệm không nhắm tới đạt đến một chỗ nào như quý vị mong ước mà chỉ giúp quý vị biết mình đang ở đâu. Không hiểu điều này, quý vị sẽ nghĩ mình không thể thực hành chánh niệm! Thực hành chánh niệm dĩ nhiên đòi hỏi cố gắngkiên nhẫn, vì thấy mình không “đi tới đâu”, quý vị dễ bỏ cuộc. Vậy thì thay vì nói tôi “không thể” thực hành chánh niệm, quý vị nên nói là tôi không đủ ý chí kiên trì để thực tập! Khi quý vị cảm thấy “mất tự tin” quý vị nên ngồi xuống hay nằm, hay đi, hay ăn và lần này buông bỏ mong ước ‘đạt tới đâu’của mình! (Jon Kabat Zinn, Wherever You Go, Where you are, P 34).

FAQ: Chánh niệm khác với vô tác, vô vi ở chỗ nào?

Vô tác hay vô vi hoàn toàn khác với “không làm gì cả”. Vô vi nhưng vô bất vi. Vì chuyển qua Sensing Mind khi thực hành chánh niệm, nên quý vị dùng trực quan để mà sống. Khi giác quan còn lành mạnh, thì quý vị “thấy”, nghe thì quý vị thấy và nghe mà không cần cố gắng, ăn thì quý vị cảm thấy hương vị thức ăn, ngữi thì ‘thấy’ mùi thơm, đụng chạm thì thấy cảm giác đụng chạm (xúc), không cần một nổ lực nào miễn là quý vị duy trì chánh niệm. Vô vi có thể dịch là ‘Effortless Effort’ ‘cố gắng mà không cần cố gắng’, kiểu nói nghịch lý của Zen (như Vô Môn Quan, cánh cửa không cửa!). Chỉ có ý thứcý định là quan trọng ở đây. Trong lúc thực tập Formal Practice, quý vị cần ý thức về những gì mình đang làm. Khi quý vị chuyển được chánh niệm qua những sinh hoạt đời thường, lúc đó ăn thì quý vị biết mình đang ăn, khi đi thì biết mình đang đi, khi nằm ngồi, tắm, đọc báo, nói chuyện với người khác.. vân vân, cũng vậy. Quý vị không cần có một lịch trình gì ngoài việc ‘tỉnh thức’ trong khoảnh khắc hiện tại. Ngồi xuống, đừng làm gì cả, chỉ cần an trú trong chánh niệm, quan sát trãi niệm đang hé lộ ra trong Tâm just as it is.

FAQ: Định và Niệm khác nhau ra sao?

Định là một phần nền tảng quan trọng của Chánh Niệm. Không có Định, tấm gương soi giống như mặt nước nhấp nhô và không phản ảnh trung thực thế giới bên trong cũng như bên ngoài. Quý vị có thể thực tập Định và Niệm cùng một lúc hay riêng rẽ. Thực tập định bằng cách chú ý vào một đối tượng duy nhất, như hơi thở, một hình tượng tôn giáo hay niệm một câu thần chú vân vân… Tiếng Phạn Định là Samadhi (onepointedness). Khi tâm đi lạc quý vị chỉ nhẹ nhàng kéo Tâm trở lại hơi thở trong khoảnh khắc này, không phải hơi thở trong khoảnh khắc trước hay sau. Nếu kiên trì quý vị có thể duy trì chú ý trong một thời gian lâu hơn và quý vị có thể đạt tâm cảnh an lành, không có gì có thể quấy phá được. Nhưng cẩn thận, khi đạt tới mức Định, cảm giác an lạc (hỷ, xả) có thể tràn ngập Tâm và quyến rũ quý vị dùng đó làm nơi trú ẩn khỏi những khó khăn, bận rộn của đời thường, và có thể khiến quý vị nghĩ lầm là quý vị đã đạt tới ‘kết quả nào đó’. Quyến luyến với Định cũng giống như bất cứ một tham chấp nào khác, quý vị ôm chặt không chịu bỏ ra và sống trong tình trạng vô minh (delusion). Trong tình trạng Định, quý vị có thể quên cả thế giới bên ngoài, không nghe cả tiếng cửa đóng hay mở, và thế giới bên trong cũng có thể biến mất: ý tưởng, cảm giác, tình cảm ít xuất hiện. Sự an lạc này rất quyến rũ và làm quý vị “say” và quên đi mục đích Chánh niệmtỉnh thức, không phải để say, dù là say An Lạc! Tuy nhiên Định thiếu Niệm không thể đưa đến Tuệ (Giới, Định, Tuệ). An lạc của Định có thể làm quý vị thỏa mãn nhưng thiếu óc tò mò, điều tra, rộng mở của Chánh niệm.

FAQ: Nền tảng Đạo đức của Chánh niệm: Tâm và não là một (Mind cũng là Heart: Mindfulness cũng là Heartfulness)

Phần lớn trong các ngôn ngữ Á Châu, Mind cũng là Heart. Tâm cũng là Ý. Trong tác phẩm Nẻo về Của Ý , Nhất Hạnh có dùng một cụm từ rất thú vị “các cô gái ở Việt Nam được cha mẹ dặn dò là phải có ‘ý về tứ’, tcác các cô mới ‘đẹp trọn vẹn’! Hiện nay ai cũng có thể thực tập Chánh Niệm, bất kể nam hay nữ! Nhắc lại chuyện này để các cô các bà có thêm động cơ thực tập!

Nguyên tắc đạo đức căn bản của Đạo Phật là không làm hại bất cứ một chúng sinh nào, hữu tình hay vô tình. Dù trên thực tế không ai có thể hoàn toàn giữ được điều này, nhưng ít nhất Phật tử chúng ta lúc nào cũng trung thành với lý tưởng Ahimsa (giới sát), cố gắng không gây đau khổ cho người khác. Thực hành chánh niệm không phải là một trào lưu thời thượng của những người không có chuyện gì làm, chỉ ngồi im lặng ‘ngó rốn’,  như một số lời chỉ trích! Huấn luyện Tâm cũng là một cách vun xới một số tình cảm căn bản trong đạo đức Phật giáo như Từ bi, Độ lượng, Buông xả, Không tham chấp…Trước hết là quý vị áp dụng những tình cảm này cho chính mình. Không phải là chúng ta ích kỷ nhưng nếu không từ bi, độ lượng với chính mình là sao quý vị có thể từ bi, độ lượng với người khác? Quý vị phải nói ngược lại “thương thân như thể thương người” mới đúng!! Nhiều lúc quý vị đối xử nghiêm khắc với chính mình, lúc đó nên nhớ Ahimsa. Và buông xả tình cảm đó. Letting it go!

FAQ: Bảy thái độ cần thiết khi thực hành Chánh Niệm

1-  Thái độ căn bản: Không phán đoán (Let Be) Buông xả (Let go) 

Thái độ căn bản nhất là Let Be và Let Go. Let Be, chúng tôi dịch là bàng quan, không phán đoán hay can thiệp. Let Go là buông xả, như bàn tay mở ra để buông bỏ những gì đang nắm. Không phải bàn tay đang nắm mà Tâm quý vị đang nắm, nên còn chặt hơn cả bàn tay. Let Go là không bám chặt bất cứ điều gì, dù đó là một ý tưởng, một vật hay điều gì mà mình thích hay ghét bỏ, một quan điểm, niềm tin, ngay cả chính tín ngưỡng. Đây là một hành động có ý thức buông xả để chấp nhận những gì đang hé lộ chân nguyên (as it is) trong khoảnh khắc hiện tại. Buông xả nghĩa là không bám víu những gì mà quý vị yêu thích hay ghét bỏ. Chúng ta mắc kẹt trong tình cảm thương, ghét, thích & không thích. Chúng ta mang một cặp kính mầu, phân biệt những gì tốt hay xấu cho mình và theo thói quen chúng ta trở thành tù nhân của tình cảm thương ghét này. Nếu chúng giống với niềm tin hay triết lý của mình, thì chúng ta thích. Nếu khác với những gì mình nghĩ, chúng ta ghét. Những tình cảm này chế ngự tâm như là một gánh nặng, giống như quý vị đang mang cát đá trong đầu. Đến lúc quý vị phải bỏ gánh nặng này xuống cho nhẹ! Tưởng tượng Tâm của chúng ta nhẹ biết bao nhiêu khi buông xả được gánh nặng này! Buông bỏ những phán đoán này để trãi nghiệm just as it is tự hé lộ cho chúng ta thấy trong khoảnh khắc hiện tại. An lànhgiải thoát, phải không quý vị?

2 - Kiên nhẫn: Lúc nào chúng ta cũng nôn nóng muốn đến một nơi nào đó, muốn đạt điều gì đó cho mình, sống một khoảng đời khác hạnh phúc hơn ‘bây giờ’. Khi trẻ thì muốn học hành thành tài và lập sự nghiệp, tiết kiệm tiền cho thật nhiều, mới thấy hạnh phúc. Nếu gia đình không hạnh phúc thì đợi khi ly dị xong. Khi sinh con cái thì đợi chúng trưởng thành, ra ở riêng. Đồng cỏ bên kia lúc nào cũng xanh hơn.Tương lai mơ tưởng mới là hạnh phúc hơn là hoàn cảnh hiện tại. Hiện tại không bao giờ làm quý vị thỏa mãn. Giống như một threadmill, cứ chạy mà không có chỗ dừng! Quý vị không còn nhận biết là quý vị đang ở đâu. Quý vị quên là cái gì        cũng có ‘chu kỳ’ riêng, mùa xuân cây cỏ xanh tươi, hoa trái không thể nở trái mùa. Khi chúng ta nói khoảnh khắc hiện tại chúng ta muốn nói bây giờ, nghĩa là ngoài thời gian vật lý (Timeless). Thường chúng ta chỉ chú ý nhận biết hạnh phúc hay đau khổ hiện tại trong những hoàn cảnh hiếm hoi nhất (blue moon) như khi chinh phục được người tình hay khi bị phụ bạc, những lúc ecstasy hay tragedy, thường chúng ta để khoảnh khắc hiện tại qua đi trong thất niệm! Nếu quý vị duy trì được chánh niệm quý vị bước ra khỏi thời gian vật lý và sống trong chánh niệm, có nghĩa là quý vị có thêm nhiều thời gian để sống và sống trọn vẹn.

3-  Sơ tâm thiền (Beginners’s Mind) Thấy mọi sự như mới thấy lần đầu trong từng khoảnh khắc hiện tại. Khi mới gặp người tình, quý vị bị xúc động, để ý từng sợi tóc bay trong gió (có sợi tóc nào bay), nụ cười, lời ăn, tiếng nói. Nhưng khi sống chung trong một thời gian, quý vị nghĩ là mình đã biết kỹ người tình, nên không còn tò mò quan sát như lúc mới quen. Thái độ thấy một lầnthấy hết, sau đó dùng ký ức để ‘thấy’ người tình, không còn nhìn người này hiện giờ như lúc đầu tiên nữa! Sơ tâm Thiền rất cần thiết khi quý vị thực tập vì quý vị quan sát hơi thở vào hay hơi thở ra trong khoảnh khắc này, không phải là hơi thở trước hay hơi thở sau đó. Quý vị có thể cảm nhận khác nhau về từng hơi thở, không hơi thở nào giống hơi thở nào. Nhờ sơ tâm thiền quý vị có thể theo dõi hơi thở dễ dàng hơn.

4-  Vô Cầu (Non Striving) Khi học một kỹ năng trong đời như lái xe chẳng hạn, chúng ta mong muốn tới một lúc nào đó chúng ta có thể sử dụng kỷ năng này một cách tự động mà không cần chú tâm nữa. Tai nạn xe cộ xảy ra nhiều vì khi lái xe chúng ta quên mình đang lái xe, tâm trí để đâu đâu. Nên không có gì đáng ngạc nhiên khi tai nạn giao thông chết người vẫn tiếp tục xảy ra, dù luật lệ thắt chặt và cảnh sát được tăng cường! Khi thực hành chánh niệm, chúng ta thường mong muốn đạt tới một tình trạng nào đó, dù chỉ là một cảm giác khoan khoái, những mong muốn này rất ‘hợp lý’, hay nhiều khi mong muốn được áp suất máu hạ, hệ thống miển nhiễm tăng, trong một thời gian ngắn...Khi mong ước như thế, chánh niệm dễ bị mất. Tề Thiên rất nhanh nhẹn và thông minh. Lo âu này sẽ khiến chánh niệm biến mất và lạc qua thinking mind của Tề Thiên mà quý vị không để ý. Thực hành chánh niệm chỉ có mục đíchtỉnh thức, những kết quả khác chỉ tự nhiên đến. Công việc duy nhất của quý vị cần làmcảm nhận và theo dõi hơi thở! Giản dị nhưng không dễ dàng. Ngồi theo dõi hơi thở quý vị sẽ cảm nhận được những gì chúng tôi đang nói!

5-  Chấp nhận thực trạng (Acceptance)

Chúng ta nên xem bất cứ một ý nghĩ nào xuất hiện trong Tâm như những tâm hành khác, hiện đó, biến đó. Vì chúng ta mang cặp kính mầu, những phán đoán của chúng ta thường không chính xác. Thường chúng là những phản ứng thiếu nền tảng, méo mó do thiên kiến hay bị điều kiện hóa trong quá khứ. Nếu chúng ta bàng quan, không phán đoán, chỉ quan sát và chấp nhận những trãi nghiệm khi chúng xuất hiện, và tùy hoàn cảnh, chúng ta sẽ chọn lựa một phản ứng ý thức. Điều này không có nghĩa là chúng ta không phản ứng với những hành động sai trái hay vô đạo của người khác, mà chỉ có nghĩa là bất cứ một chọn lựa hay phản ứng nào cũng là chọn lựa ý thức dưới ánh sáng của chánh niệm. Nếu chúng ta phủ nhận thực trạng, chúng ta không biết chúng ta đang đứng chỗ nào để chọn lựa. Nếu chúng ta than thân trách phận, oán trời oán đất, chỉ làm tăng nỗi khổ niềm đau vì mũi tên thứ hai tự bắn. Giả sử chúng ta bị chẩn bệnh là mắc bệnh ung thư, chúng ta chấp nhận thực trạng này vì nếu tìm cách phủ nhận, chúng ta sẽ không chọn lựa một giải pháp thích ứng để đối phó, như đi chẩn đoán để xác nhận lại và bước tớitìm cách chữa trị. Khi chấp nhận hiện trạng, bệnh ung thư không tự nhiên thoái hóa hay biến mất, nhưng chúng ta có cái nhìn sáng suốt hơn những chuyện gì cần làm tiếp theo!

6-  Trust: (Tin tưởng)    

Tin tưởng phản ảnh cho lòng tự tin, khi thực hành chánh niệm: chúng ta phải tự tin là mình có thể quan sát, tâm có thể mở rộng và chú ý quán sát những gì đang hé lộ như chúng là just as it is trong khoảnh khắc này. Chỉ có chúng ta mới có thể sống đời mình, và những văn bản hay người hướng dẫn chỉ là những phương tiện đưa chúng ta đến cửa, chúng ta phải quyết định vào cửa Thiền, không ai có thể thay thế mình được.

7-  Generosity:  (Độ lượng)

Độ lượng là một đức tính tốt cũng như kiên nhẫn, buông xả, không phán đoán, tin cậy, là nền tảng thực tập chánh niệm. Và người cần được đối xử độ lượng trước tiên là không ai khác hơn là quý vị. Tự chấp nhận mình là món quà tặng quý giá không điều kiện, làm tăng sinh lực sống, tăng lòng tự tin, tấm lòng thêm rộng mở.

Nhiều khi thấy lòng độ lượng của mình không được đền đáp, quý vị có thể miễn cưỡng không muốn thực hành, nhưng nên nhớ chính quý vị là người đầu tiên hưởng “kết quả”. Độ lượng là một cách nuôi dưỡng lòng từ bi, không phải là một cách để góp nhặt ‘phước báu’ như nhiều người nghĩ. Nếu có phước báu chỉ là bonus thêm vào đó, không phải là động cơ chính của ‘bố thí’. Quý vị cảm thấy vui vẻ hạnh phúc ‘lên tinh thần’ vì đã làm những điều tốt (feel good when doing good!)  không phải vì áp lực bên ngoài (hay bên trên), không có Nam tào Bắc đẩu nào cầm sổ ghi chép những việc làm tốt (hay xấu) của quý vị, một hình thức cho mà không cần đền đáp, hành động một cách vô cầu. Đó chỉ là một ý định muốn chia xẻ với người khác tài nguyên hiện có của vũ trụ

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20433)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22345)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18767)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27028)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18736)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19953)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38074)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20154)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28335)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46339)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15456)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65683)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13737)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18639)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15550)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14580)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18739)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12644)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17662)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25489)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38737)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17715)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11250)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18614)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17417)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13224)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13319)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17549)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24316)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12385)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13805)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12999)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12895)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14172)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14634)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21110)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22635)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29985)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13873)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18251)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17063)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12634)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30733)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14653)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13005)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12744)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12522)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13063)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16311)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15214)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23851)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16188)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29008)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20298)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15570)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37253)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45047)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36911)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant