Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Nhà Văn Hóa Lớn Của Nhân Loại

18 Tháng Năm 201612:06(Xem: 11245)
Đức Phật Nhà Văn Hóa Lớn Của Nhân Loại

ĐỨC PHẬT NHÀ VĂN HÓA LỚN CỦA NHÂN LOẠI

HT Thích Chơn Thiện

 
Đức Phật Nhà Văn Hóa Lớn Của Nhân Loại


Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là cuộc đời hoằng hóa và hệ thống giáo lý của Ngài đã cống hiến cho nhân loại nhiều đóng góp quan trọng và ý nghĩa.

Nhà Phật học H.W. Schumann đã phát biểu về Đức Phật trong tác phẩm thời danh của Ông, nhan đề Đức Phật lịch sử (The Historical Buddha) rằng: “Rất hiếm nhân vật trong lịch sử tư tưởng nhân loạiảnh hưởng rất lớn và lâu dài như Đức Phật Gotama (Sakya Muni), và cũng không có ai từng để lại ảnh hưởng sâu đậm trên toàn cõi châu Á như Ngài. Tôn giáo do Ngài sáng lập không chỉ đem lại nguồn an ủi vô lượng mà còn cung cấp nền tảng cho học thuyết nhân bản cao quý và một di sản văn hóa vô cùng tinh tế. Bài pháp đầu tiên do Ngài thuyết giảng ở Sarnàth gần Baranàsi (Ba-la-nại: Benares)vào năm 528 trước Tây lịch là một sự kiện lớn mang lại kết quả đầy lợi lạc liên tục cho đến ngày nay.”
(H.W. Schuman, The Historical Buddha, tr IX)
Có rất nhiều, nhiều lắm, các đóng góp văn hóa cho thời đại từ Tam tạng giáo điển kết tập dưới thời đại đế Asoka (thế kỷ thứ III trước Tây lịch) và các tục tạng, tục tục tạng phát triển về sau. Ở đây, chúng tôi chỉ rất giới hạn đề cập một số nét cương yếu về giáo lý xây dựng hòa bình lâu dài, giáo lý về bảo vệ môi sinh, giáo lý giáo dục cá nhân, xây dựng các mối tương hệ gia đình, xã hội, và đặc biệtgiáo lý vô ngãtrí tuệ vô ngã có đóng góp tối quan trọng vào giải quyết các khủng hoảng xã hội, tâm lý, giải thoát con người khỏi các ách trói buộc, khổ đau.

Những lời đức Phật dạy và Hòa bình

Có thể nói rằng các lời dạy của đức Phật vì hòa bình được bao hàm trong lời dạy sau đây từ kinh tạng Pàli:

Này các Tỷ kheo, có một người xuất hiện ở đời vì an lạc của số đông: xuất hiện vì lòng thương tưởng đời, vì lợi ích an lạc, hạnh phúc cho chư thiênloài người. Người ấy là ai? Đó là đức Như Lai, bậc A-la-hán , Chánh Đẳng Giác”.
(Tăng chi Bộ kinh I, PTS, London, 1989, tr. 14-15)
Lời dạy trên nói lên sứ mệnh lịch sử của đức Phật, và xác định sứ mệnh lịch sử của các Giáo hội Phật giáo trên thế giới nhằm dập tắt khổ đau, xây dựng an lạc, hòa bình, hạnh phúc cho đời.
Hướng đi lịch sử ngược lại với hòa bình là chiến tranh, bạo động, tạo nên sự hủy diệt văn hóagiá trị con người gây ra do các động cơ tâm lý tham lam, sân hận, si mê (tà kiến) như đức Phật đã tuyên bố:
Này các Tỷ kheo, có ba căn bản của sai lầm. Thế nào là ba? – tham, sân, si.
Tham là sai lầm. Bất cứ việc gì kẻ tham lam thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...
Sân, này các Tỷ kheo, là sai lầm. Bất cứ gì người sân hận thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...
Si, này các Tỷ kheo, là sai lầm. Bất cứ việc gì người si thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...”

(Tăng chi Bộ kinh I, PTS, London,1989, tr. 182)
Ba căn bản bất thiện ấy dấy khởi từ vô minh, từ nhận thức cho rằng mọi hiện hữu đều có tự ngã riêng và thường hằng, bất biến, khởi lên từ duy ngã tính (nhị nguyên: dualism) bị ám ảnh bởi ý niệm “tôi hiện hữu”, “tôi đã hiện hữu”, “tôi phải hiện hữu”, “mong rằng tôi sẽ hiện hữu” nuôi dưỡng tham áichấp thủ như những gì đức Phật đã dạy:
Có 18 tư duy bị ám ảnh bởi Ái, liên hệ với nội tâm, và 18 tư duy bị ám ảnh bởi Ái liên hệ với ngoại cảnh. Những gì là 18 tư duy liên hệ với nội tâm? Này các Tỷ kheo, khi có tư tưởng: Tôi có mặt, thì cũng có tư tưởng: Tôi có mặt trong đời này: Tôi có mặt như vậy: Tôi có mặt khác như vậy: Tôi là không thường hằng: Tôi là thường hằng: Tôi phải có mặt không?..: Mong rằng tôi có mặt...: Tôi sẽ có mặt...”.
(Tăng chi Bộ kinh II, PTS, London, 1992, tr.225)
Tại đây, tư duy ngã tính từng được thay thế bằng tư duy duyên sinh vô ngã để loại bỏ tham áichấp thủan lạchạnh phúc cho người đời. Tư duy duyên sinh vô ngã ấy là chánh tư duy, như thế nên tuệ uẩn (hay chánh kiếnchánh tư duy) là nhân tố quyết định hòa bình, an lạc. Đi theo tuệ uẩn, giới luậtthiền định đều có tác dụng rửa sạch các tâm lý tiêu cực, cấu uếxây dựng an lạc cho tâm hồn và hòa bình cho xã hội. Năm giới rất cơ bản cho một Phật tử sống đời sống gia đình là: 1) Không sát sinh; 2) Không trộm, cắp; 3) Không tà hạnh; 4) Không nói dối; 5) Không uống các thứ rượu, các chất men say. Các giới đều bảo vệ đời sống, bất hại, giữ gìn và phát triển tâm lý hiền thiện, nhân tố của ổn định đời sống xã hội.
Thiền định thì có chức năng chế ngự 5 thứ ngăn che trí tuệ, 5 thứ là suối nguồn của các tâm hại, tâm ác, tâm bất thiện: Trạo cử, hôn trầm, dục, sân và nghi. Thiền định rất thiết thực đem lại thanh bình cho từng tâm thứcxã hội. Kinh Từ-bi (Mettàsuttam), thuộc kinh Tập (Suttanipàta), Tiểu Bộ kinh giảng dạy rằng:
“... Tất cả chúng sinh: Loài yếu, loài mạnh, cao, to hay trung bình, thấp nhỏ hay lớn, không trừ loài nào, hữu hình hay vô hình, sống ở gần hay xa, loài đã sinh hay sẽ sinh, mong rằng tất cả chúng sinh ấy được hạnh phúc! Mong rằng không có ai lừa dối ai! Không có ai khinh khi ai bởi bất cứ nơi đâu.
Mong rằng không vì giận hờn hay sân hận mà mong muốn gây tổn hại nhau. Như một người mẹ che chở cho người con duy nhất của mình thoát hiểm khó, cũng vậy, con người tu tập, thể hiện từ tâm vô hạn đối với mọi người, mọi chúng sanh”.
Nếu lời dạy ấy được văn hóa đời tiếp nhận, số đông ở đời thực hiện, thì đấy là tài sản văn hóa của tình thương yêu cuộc đời thiết tha, của mối tương hệ hòa hợp tốt đẹp, của phẩm giá cao thượng của con người, và của sự cộng sinh cộng tồn trong hòa bình, an lạc. Nếp sống ấy sẽ khép chặt lại mọi cánh cửa chiến tranh, bạo động, ác hại.


Những lời đức Phật dạy và Môi sinh, Đạo đức môi sinh

Vấn đề môi sinh và ô nhiễm môi sinh ngày nay đã rất phổ biến đối với quần chúng của các quốc gia, phổ biến đến mức mọi người có thể gặp gỡ vấn đề môi sinh hàng ngày qua các phương tiện truyền thông. Các chất thải, khí thải từ các nhà máy, các chất thải của các cá nhân, gia đình thường nhật, đặc biệt ô nhiễm nhất và nguy hiểm nhất là các phân hạch hạt nhân với quy mô lớn, các bức xạ hạt nhân (dù là trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử phục vụ hòa bình) đã và đang trở nên một nhân tố nghiêm trọng nhất cho vấn đề ô nhiễm môi sinh và là sự đe dọa lớn nhất cho sự tồn tại của loài người trên Trái đất.

Về mối liên hệ giữa môi sinh và con người, P.D.Karma, trong tập “sinh thái học và môi trường sống” (Ecology and Environment)- Rastogy Publications, 6th Ed., 1992, p.2 – đã viết: “…Môi sinh thật sự giữ một vai trò quan trọng trong vấn đề an sinh của con người”. Vấn đề đặt ra ở đây, như có các nhà môi sinh học từng đề cập, là Phật giáo có thể có những đóng góp gì cho việc bảo vệ môi sinh, giải quyết khủng hoảng môi sinh hiện tại?
Về sự thật của con người 5 uẩn này, đức Phật dạy:
Này các Tỷ kheo, ta sẽ dạy cho các thầy 5 uẩn và 5 thủ uẩn. Hãy lắng nghe. Này các Tỷ kheo, thế nào là 5 uẩn? Tất cả sắc, này các Tỷ kheo, thuộc quá khứ hiện tại, hay vị lai, thuộc trong hay ngoài, thô hay tế, thấp hèn hay cao sang, xa hay gần, đều gọi là sắc uẩn. Tất cả Thọ, Tưởng, Hành; tất cả Thức quá khứ, hiện tại hay vị lai… đều gọi là Thức uẩn”.
(Tương Ưng Bộ Kinh, tập III, PTS, Oxford, London, 1985, tr.16)
Như vậy Sắc uẩn của mỗi cá nhân bao gồm cả các tha nhânthế giới vật lý, môi trường sống: Môi trường sống là phần liên hệ, gắn chặt mật thiết với các thân sắc, bất khả phân ly, như sự thật Duyên Khởi của thế giớiĐức Phật đã giác ngộtuyên thuyết: Vạn hữu trùng trùng liên hệ mật thiết với nhau: Cái một nhiếp vào thế giới, và thế giới nhiếp vào cái một. Điều này thức tỉnh con người rằng: Cần bảo vệ môi sinh thoát khỏi ô nhiễm như bảo vệ thân sắc mình. Đây là sự thật như thật của thế giới hiện hữu và là nhận thức nền tảng của giải đáp khủng hoảng môi sinh hiện tại. Nhận thức ấy được biểu hiện rất rõ ràng qua nếp sống Từ bi đối với muôn loài mà Đức Phật chỉ dạy hàng đệ tử qua Kinh Từ Bi (Mettàsutta) như vừa được giới thiệu ở phần trước, xây dựng hòa bình bền vững cho thế giới. Nhận thức ấy được phát sinh từ một trí tuệ toàn giác, đỉnh cao của nguồn văn hóa tâm linh, tinh thần, đỉnh cao của văn hóa, tư tưởng phương Đông, của đại lục châu Á mà mãi đến cuối năm 1999 Tây lịch – 2.500 năm ngày Đức Phật nhập Niết Bàn – tổ chức Liên Hiệp Quốc mới công khai ghi nhận Phật giáovăn hóa tinh thần, tâm linh của toàn thế giới.

Những lời đức Phật dạy và vấn đề giai cấp xã hội

- Dưới thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ chủ trương phân biệt bốn giai cấp: Bàlamôn, Sát-Đế-Lợi, Phệ-Xá và Thủ-Đà-La, và vẫn còn giữ gìn nghiêm mật cho đến ngày nay. Đức Phật thì chủ trương bình đẳng bốn giai cấp ấy, bình đẳng giữa con ngườicon người, như là một tư tưởng cách mạng văn hóa đương thời. Ngài dạy:
“Không phải do sinh ra mà thành Bà-la-môn,
Không phải do sinh ra mà thành tiện nhân.
Trở thành một tiện nhân là do hành vi của mình
Trở thành một Bàlamôn là do hành vi của mình
”.

(Kệ 136, kinh Tập – Suttanipàta)
Kinh Assalàyana, Trung bộ kinh II, ghi rằng: Một lần giáo chủ Bàlamôn đã cử thanh niên Bàlamôn Assalàyana thông tuệ bậc nhất đến vấn nạn, tranh biện với đức Phật Gotama về chủ trương bình đẳng giai cấp của Ngài, Đức Phật hỏi Assalàyana:
“…Nếu một người là kẻ sát nhân, trộm cướp, ngoại tình, hoặc phạm các tội trọng khác, thì sau khi chết người ấy sẽ đọa sinh nếu người ấy là Sát-đế-lợi, Phệ-xá, Thủ-đà-la, nhưng nếu người ấy là Bàlamôn thì sẽ không đọa sinh, phải thế không?
Assalàyana bạch: “Bạch đức Gotama, không ạ! Trong những trường hợp như thế dù người ta thuộc đẳng cấp gì đi nữa, số phận dành cho mỗi người đều như nhau”.
- “Còn nếu người ấy tránh được các trọng tội thì người ấy sẽ thác sinh về cõi trời nếu người ấy là Bàlamôn, còn người các đẳng cấp thấp hơn thì sẽ không được như thế?
- Bạch đức Gotama không ạ! Dù thuộc đẳng cấp nào, trong trường hợp đó mọi người đều hưởng thiện quả”.
- “Có phải một Bàlamôn tuyên bố rằng họ có thể phát triển lòng từ ái, không sân, không hận, không ác độc, còn những người thuộc đẳng cấp khác thì không được như thế?”
- Bạch đức Gotama không! Cả bốn đẳng cấp đều có thể được như thế”.
- “Có phải chỉ có Bàlamôn mới có thể nhờ nước mà rửa sạch các bụi bẩn, còn những người thuộc đẳng cấp khác thì không được như thế?”
- Bạch đức Gotama không! Cả bốn đẳng cấp đều được như thế”.
- “Lại nữa, ví dụ một ông vua tập hợp một số người thuộc bốn đẳng cấp trên và ra lệnh cho họ nhóm lửa bằng cùng loại gỗ sài, gỗ thông, sen hay trầm, ông nghĩ rằng điều gì sẽ xảy ra? Lửa do người thuộc đẳng cấp cao dúm sẽ cháy sáng, còn lửa do các người thuộc giai cấp thấp dúm sẽ không cháy sáng?
- Bạch Đức Gotama, không! Dù người dúm lửa thuộc giai cấp nào , lửa cũng cháy sáng như nhau”…

Cuộc đối thoại tiêu biểu vừa nêu nói lên chủ trương bình đẳng giai cấp, phái tính màu da, tuổi tác của Đức Phật, vừa nêu rõ bản sắc giáo lý của Ngài rất thực tại, rất thực tế, rất tự nhiên, khách quan và đầy tính nhân văn cao thượng. 

Những lời đức Phật dạy về một nhà lãnh đạo tốt của đất nước

Dưới thời Phật, các vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra), AXàThế (Ajatasattu), Ba Tư Nặc (Pasenadi), MaĐôLa (Madhura) và vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thường đến yết kiến Đức Phật và xin lời cố vấn về pháp trị nước, đạo đức, triết học, xã hội… Trước khi Đản sinh, thành Phật, Đức Phật tiền thân đã có 6 kiếp liên tục làm Vua Chuyển Luân (Cakkavattiràja) -Theo Kinh Chuyển Luân Thánh Vương, Trường Bộ III; Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành, Trường A Hàm, số 6 - Vua Chuyển Luân là nhà Lãnh đạo lý tưởng của đất nước, đủ tài năng, đức độ, trị nước đúng theo Chánh Pháp (Phật Pháp), đem lại hạnh phúc cho toàn dân. Dưới quyền vua bao giờ cũng có mặt bảy thứ báu:

- Thiên luân báu (cổ máy bay liệng giữa hư không, tốc độ rất cao, đi từ xứ này đến xứ khác theo ý muốn của nhà vua).
- Voi báu (cỗ voi báu nhiều ngà, rất khỏe chuyên chở, phi rất nhanh, xông pha giữa các binh chủng theo sự điều động của nhà vua).
- Ngựa báu (tương tự voi báu)
- Thần châu báu (các viên ngọc lớn tỏa sáng khắp một vùng đất rộng lớn về đêm)
- Chủ binh báu (có tướng tài cầm quân, thông rõ các chiến lược, chiến thuật).
- Cư sỹ báu (có phúc báo, mỗi lần cần thiết đặt tay vào sông nước là nhặt được liền các vàng ròng, châu báu; thường phụ trách ngân khố quốc gia).
- Ngọc nữ báu (vị hoàng hậu tuyệt sắc, trí, hạnh kiêm toàn).
Đấy là các biểu tượng, điều kiện xây dựng, phát triển mạnh về quốc phòng, an ninh, tài chính, kinh tế, quản trị, văn hóaxã hội.
Các bản kinh Bổn Sinh (Jàtaka I, II, III và IV) Nikàya ghi lại lời Đức Phật dạy về 10 đức tính của một minh quân như:
1/ Quảng đại, từ ái.
2/ Giữ gìn giới đức: Không giết hại, không bóc lột, không lấy của không cho, không tà hạnh, không dối trá, không say sưa.
3/ Vì hạnh phúc nhân dân, sẵn sàng hy sinh lợi lạc, danh vọng vì dân.
4/ Liêm chính, thành thực, thể hiện nhiệm vụ nghiêm túc.
5/ Hòa ái.
6/ Nghiêm chỉnh, giản dị, đứng đắn.
7/ Không thù ghét.
8/ Không sử dụng bạo lực.
9/ Vị tha, nhẫn nại, thông cảm.
10/ Không khắt khe; hòa hợp với nhân dân.
Kinh Tăng Nhất A-Hàm quyển 42 thì ghi:
1/ Thanh liêm, quảng đại.
2/ Nghe lời can gián.
3/ Thi ân cho nhân dân.
4/ Thu thuế theo pháp định.
5/ Phòng the nghiêm túc.
6/ Không say sưa với các chất say.
7/ Cần mẫn, nghiêm chỉnh.
8/ Xét xử công bằng.
9/ Hòa hợp với quần thần.
10/ Giữ gìn sức khỏe bản thân.
Một lần, Đức Phật dạy đại thần Vassaka, xứ Magadha về bảy điều giúp một xứ sở không bị suy giảm, sẽ lớn mạnh như sau:
1/ Nhân dân thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau.
2/ Nhân dân tụ họp trong niệm đoàn kết, làm việc và giải tán trong niệm đoàn kết.
3/ Không ban hành các luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ các luật lệ đã được thích đáng ban hành, sống giữ truyền thống.
4/ Tôn trọng và biết lắng nghe các bậc trưởng lão.
5/ Không bắt cóc và cưỡng ép phụ nữ, thiếu nữ.
6/ Kính trọng, đảnh lễ các tự miếu đúng quy pháp.
7/ Ủng hộ, che chở các bậc hiền đức, chân tu đạo giải thoát tham ái, chấp trước.
(Kinh Tăng Chi Bộ III)
Kinh Thiện Sinh (Singàla), Trường Bộ II, ghi lời dạy của Đức Phật về sáu mối tương hệ xã hộihạnh phúc gia đình rằng: (Trường Bộ Kinh II, số 31)
1. Mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái:
a/ Cha mẹ: Giáo dục tốt con cái, chỉ dẫn con cái sống lương thiện, giúp con cái có hôn nhân tốt.

b/ Con cái: Săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ lớn tuổi, giữ gìn danh dự, truyền thống gia đình, giúp việc khi cha mẹ cần, giữ gìn tài sản của cha mẹ.
2. Thầy – Trò:
a/ Thầy giáo: Dạy tốt, hướng dẫn tốt học trò, dạy nghề cho học trò, giúp học trò có bạn tốt.

b/ Trò: Vâng lờikính trọng thầy, học hành chăm chỉ, giúp đỡ thầy khi cần.
3. Chồng – Vợ:
a/ Thương và kính trọng vợ, người chồng phải là người chồng, vừa là người bạn, người yêu của vợ, thường tặng quà thuộc nữ giới cho vợ.

b/ Thương và kính trọng chồng, người vợ phải là người vợ, người bạn, và người yêu của chồng, quán xuyến việc quản lý gia đình, tôn trọng bố mẹ chồng và bạn bè, thân thuộc của chồng.
4. Cá nhân và láng giềng:
- Thành thật và chung thủy với nhau; thường giúp nhau khi khó khăn, không bỏ nhau khi lâm vào cảnh khó khăn; giúp nhau có bạn tốt: người có tín, thí, giới, tuệ.

5. Chủ nhân và Cộng sự:
a/ Chủ nhân: Trả lương tương xứng với khả năng làm việc; thường có khen thưởng; chăm sóc thuốc men khi các cộng sự lâm bệnh.
b/ Cộng sự: Trung thành; làm việc siêng năng, cần mẫn; làm tròn trách nhiệm được giao phó.
6. Người tu và người đời:
a/ Tu sỹ: thương mến người đời; thường giới thiệu đạo chân chính (và dạy nghề , nếu có thể); dẫn dắt người đời hành thiện; thường an ủi, khích lệ.

b/ Người đời: Giúp đỡ các thứ nhu yếu vật chất cho các tu sĩ; biết học hỏi chánh pháp.
Về cư sỹ tại gia, Kinh Tăng Chi Bộ IV, Kinh Tương Ưng I, và Trường II ghi thêm: tiền kiếm được qua lao động chỉ chi 1/4 cho khoản thường chi, 1/4 cho khoản bất thường chi, 2/4 còn lại sử dụng vào đầu tư; cần giữ gìn sức khoẻ, sống quân bình giữa tâm lý - sinh lý - vật lý; sống có tín, thí, giới, tuệ.
Các mối liên hệtính cách tương giao xã hội trên biểu hiện đầy tình người, công bằng, nhân ái và rất thiết thực, đủ để tạo dựng một xã hội ổn định, thanh bình và phát triển tốt đẹp.

Lời dạy của Đức Phật giúp ngăn trừ tội ác xã hội, phát triển kinh tế

Khắp các bản kinh Phật được kiết tập, bao gồm các bản luận, các tâm , lý tham, sân, si và “ngũ triền cái” (trạo cử, hôn trầm, dục, sân, nghi) được đề cập đến như là gốc của các tội ác trong xã hội. Việc thực hành giáo lý để kiểm soát các tâm lý xấu ấy đồng nghĩa với việc ngăn ngừa từ gốc các tội ác xã hội.

Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (Trường Bộ II, Sôæ 26) còn đề cập đến một nguyên nhân làm suy thoái đạo đức do suy thoái kinh tế. Đức Phật dạy:
Này các Tỷ Kheo, như vậy vì không cho những người nghèo tiền của nên nghèo đói tăng thịnh, vì nghèo đói tăng thịnh nên trộm cắp tăng thịnh, vì trộm cắp tăng thịnh nên đao kiếm tăng thịnh... sát sanh tăng thịnh... nói dối tăng thịnh... nói xấu tăng thịnh... tà hạnh tăng thịnh... ác khẩulời nói phù phiếm tăng thịnh... tham, sân, si, tăng thịnh... phi pháp dục, phi lý tham, và tà kiến tăng thịnh, vì ba pháp này tăng thịnh nên các điều sau đây tăng thịnh: thiếu hiếu kính đối với mẹ cha, thiếu sự kính trọng đối với vị cầm đầu trong gia đình...”
(TR. 373 – 374)
Để cải thiện tình trạng xấu trên của xã hội, kinh Kùtadatta (Trường Bộ III) bảo rằng hình phạt không hữu hiệu, không lợi ích, và không thành công bằng sự cải thiện kinh tế, cấp thời thực hiện các việc:
1. Cung cấp các thứ hạt giốngphương tiện canh tác cho các nhà nông:
2. Cung cấp vốn cho những người kinh doanh, đầu tư, trả lương thích đáng cho công nhân.
3. Đại bố thí cho nhân dân thay thế các lễ cúng tế, tế đàn.
Khi mà nhân dân thu hoạch đầy đủ lợi tức sẽ vừa lòng, sẽ không lo sợ, không sợ hãi, kết quả là xã hội sẽ ổn định, yên bình đi ra khỏi các tội ác.

Đức Phật, một nhà đại giáo dục

Giáo dục làm nên văn hoá và văn minh, là đầu nguồn của văn hoá. Đức Phật, qua phần vừa trưng dẫn, và qua sự tôn vinh của Liên Hiệp Quốc - Đức Phật là nhà văn hoá lớn của nhân loại; Phật giáo trở thành tinh thần, tâm linh của nhân loại - Đức Phật hẳn là một nhà giáo dục, tư tưởng lớn của nhân loại, và hệ thống giáo lý của Phật giáo như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diệntiên tiến.
Giáo dục, theo nghĩa rộng, là con đường hai chiều của dạy và học kéo dài từ khi sinh ra cho đến khi chết, và có mặt ở ba môi trường sinh hoạt: gia đình, xã hội, học đường.
Lời dạy của Đức Phật về “nghiệp cũ” và “nghiệp mới” hình thành qua các hành động có chủ ý của thân, miệng, ý, và về thai giáo, là con đường giáo dục con người đủ hai mặt nhận thức và hành động ở khắp môi trường hiện hữu từ thai nhi cho đến chết. Đấy là điểm gặp gỡ tổng quát mà cho đến thế kỷ XX Tây lịch, khi giáo dục phát triển cao điểm, giáo dục mới bắt gặp Phật giáo.
Hẳn là cần có một công trình biên khảo công phu mới nêu dẫn đầy đủ các mặt nội dung giáo dục, tinh thần giáo dục, phương pháp kỹ thuật giáo dục, và tâm lý giáo dục, triết lý giáo dục của Phật giáo và nền giáo dục cấp tiến hiện đại. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến tên gọi của các tinh thần giáo dục nhân văn và cấp tiến mà nền giáo dục của xã hội thế Kỷ XXI có thể tham khảo. Đấy là các tinh thần và nội dung của một đường hướng giáo dục toàn diệntiên tiến như:
1. Niềm tin giáo dục: Niềm tin vào một khả năng vô hạn bên trong mỗi cá nhân có thể phát huy...
2. Mục tiêu của giáo dục: Đầy đủ hai mặt cá nhân, xã hộithế giới tự nhiên: hạnh phúc là tiêu điểm hướng đến.
3. Tinh thần trách nhiệm cá nhân...
4. Tinh thần khách quan thực tiễnthực tại...
5. Tinh thần tự tri, tự chủ, tự tín...
6. Tinh thần phê phán, phân tích...
7. Tinh thần hướng dẫn, chỉ đường...
8. Tinh thần khích lệ, kỷ luật...
9. Tinh thần độc lập, giải trừ nô lệ...
10. Tinh thần trùng trùng tương quan của vạn hữu...
11. Con người toàn diện, dẫn đầutrí tuệ thấy rõ sự thật như thật...
12. Giáo dục đánh thức...
13. Giáo dục thiền định: Tự chủ, ổn định và an lạc...
14. Tinh thần trung đạo, vô ngã, vị tha...
15. Tinh thần không dính mắc: tuỳ duyên nhi bất biến...
16. Tinh thần xã hội: lục hoà và tứ nhiếp...
17. Tinh thần hiện thực: giáo dục, giảng dạy, sử dụng các ví dụ cụ thể, kiểm chứng, kiểm nghiệm...
18. Trí tuệlinh hồn của văn hoá, giáo dục...
Chính con đường giảng dạy đó của Đức Phật làm nên một nền văn hoá của Phật giáo bao hàm đủ các cấp độ phát triển văn hoá từ xưa đến nay của nhân loại: công bằng (đạo đức xã hội) như các hệ thống pháp luật, quản trị; nhân ái, vị tha, khoan dung (đạo đức cao hơn mức văn hoá công bằng); khách quan, theo các quy luật khách quan của cuộc sống (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học vật lý, thuần tuý); và vượt lên cao và xa hơn nữa là cấp độ văn hoá rất nhân văn, rất tinh thần, gọi là văn hoá tinh thần, tâm linhLiên Hiệp Quốc tôn vinh năm 1999. Phật giáo, qua lời dạy của Đức Phật, giới thiệu đến đỉnh cao của nền văn hoá giải thoát toàn triệt các khổ đau vật lý, tâm lý gọi là văn hóa giải thoát (tâm giải thoáttuệ giải thoát: nếp sống bàng bạc hạnh phúc nội tâm, phát triển sung mãn các năng lượng tâm lý, và với trí tuệ thấy rõ tường tận sự thật của mọi hiện hữu).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9950)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10337)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34404)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20440)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19189)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8749)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12107)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9971)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10613)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9333)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9189)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22239)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10182)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9449)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8353)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10176)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9390)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8337)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8521)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7969)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8618)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9629)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9508)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23696)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9638)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30886)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27115)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32702)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27752)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9389)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14206)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28144)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23270)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant