Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Tu thiền không phải là

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7538)
Chương 2: Tu thiền không phải là

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 2: Tu thiền không phải là

Thiền định chỉ là một từ ngữ. Bạn đã từng nghe qua từ ngữ này, nếu chưa thì bạn đã không nhặt lấy quyển sách này để đọc làm gì. Quá trình hoạt động của tư duytính cách liên kết, và không biết được đã có bao nhiêu hệ tư tưởng, trường phái triết học, và tôn giáo đã sử dụng đến từ ngữ “thiền định” này. Một số trong những quan niệm này thì có phần nào đúng và phần còn lại thì không dính dáng chút nào đến “thiền định” cả. Một vài phương pháp của các tôn giáo khác thì không có liên hệ hay đồng dạng gì đến tu tập “thiền quán”. Trước khi đi xa hơn, chúng ta cần phải làm sáng tỏ một vài vấn đề trong phạm vi này, để cho những người còn mới đối với tu thiền có thể hiểu mà không bị trở ngại hay bị lầm lẫn. Hãy bắt đầu với những vấn đề rõ ràng nhất.

Chúng tôi sẽ không dạy bạn xem xét trong bụng mình có những gì hay là tụng những mật ngữ khó hiểu nào cả. Bạn cũng không phải chế ngự những loài yêu quái hay khai thác những năng lượng vô hình nào cả. Không có những đảnh màu sẽ trao tặng để biểu dương cho thành tích của bạn, và thiền sinh không cần phải cạo nhẵn đầu mình hay đội những chiếc khăn kiểu Hồi giáo. Bạn cũng không cần phải cho đi tất cả những gì mình đang sở hữudọn vào cư trú trong tu viện. Sự thật, ngoại trừ khi cuộc đời của bạn thật là vô đạo đức và là một đống hỗn loạn, thì bạn có thể bắt đầu ngay bây giờ và có được một chút tiến bộ ngay. Nghe qua có vẻ thuyết phục lắm phải không?

Có rất nhiều sách được viết về đề tài Thiền định. Phần lớn những cuốn sách này, đã được viết theo quan điểm của một tôn giáo hay trường phái triết học nào đó; và nhiều tác giả không bận lòng nói rõ ràng lập trường quan điểm của họ trong khi viết. Họ trình bày về thiền định giống như là những quy luật chung, nhưng trên thật sự, người viết đang muốn đưa ra một đường lối tu tập dành riêng cho hệ thống tôn giáo của mình. Kết quả là mọi thứ trở nên xáo trộn. Tệ hại hơn thế nữa, toàn bộ hệ tư tưởng phức tạp và sự diễn dịch đang tồn tại, không còn ăn khớp với nhau. Giờ thì tất cả trở nên một mớ hỗn độn to lớn do những ý tưởng mâu thuẫn, cộng thêm vào đó rất nhiều tài liệu rãi rác khắp nơi. Quyển sách này thì có tính đặc thù riêng. Chúng ta đang áp dụng duy nhất pháp môn Thiền quán hay Minh Sát Tuệ. Chúng tôi sẽ dẫn giải tới bạn cách xem xét sự vận hành tâm của mình trong những trạng thái khác nhau, lúc nó yên tĩnh, lúc nó buông xả, để bạn có thể nhận biết xuyên suốt vào đường lối vận hành của cái thực chất hiện thật bên trong. 

Có một số quan niệm sai lầm chung về thiền định. Những sai lầm này xuất hiện ra lần này sang lần khác đối với những thiền sinh mới, những câu hỏi giống nhau tiếp tục khởi lên. Tốt nhất là chúng ta đối diện với những vấn đề này lập tức, bởi vì chúng là những thành kiến che lấp sự tiến bộ ngay từ lúc ban đầu. Chúng ta giải quyết từng thành kiến một để phá vỡ chúng. 

Quan niệm sai lầm #1: 
Thiền định chỉ là một phương pháp thư giãn

Vấn đề ở đây là từ ngữ “chỉ là.” Sự thư giãn là một bộ phận của thiền định. Nhưng Thiền quán nhắm vào mục tiêu cao cả hơn. Dù cho là như thế, mệnh đề ở trên lại rất chính xác cho pháp tu thiền của những tôn giáo khác hơn. Tất cả những phương pháp thiền đặt nặng về tập trung tâm trí, đem tâm áp đặt vào một đề mục hay một lãnh vực tư tưởng. Khi thực hiện được việc này một cách vững chãithuần thục, hành giả sẽ đạt đến một trạng thái nới lỏng thâm sâu và yên tĩnh được gọi là Thiền Na. Đó là một trạng thái vô cùng tĩnh lặng trong đó có mức hạnh phúc cao độ. Trạng thái hạnh phúc này ở một cấp độ cao, vượt xa hẳn những kinh nghiệm sung sướng trong tầm hoạt động của Ý thức. Phần lớn các phương pháp tu tập này dừng lại ở đây. Đó là mục tiêu tối hậu của pháp tu này. Và khi đã đạt được, thì bạn sẽ tiếp tục tái thiết lập cái kinh nghiệm này nhiều lần cho đến cuối cuộc đời. Thiền quán thì không phải là như thế. Nó có mục tiêu khác hơn — Sự tỉnh giác. Sự tập trung và thư giãn là những yếu tố cần thiết để phát huy sự tỉnh giác. Chúng là những hiện tượng báo trước, một phương tiện tốt, một loại sản phẩm phụ có ích lợi. Nhưng chúng không phải là mục đích cứu cánh. Mục tiêu tối hậu của thiền quán là “kinh nghiệm tự chứng”. Thiền quán là một pháp tu uyên thâm không ngoài mục đích thanh lọc và chuyển biến cuộc đời của người hành thiền. Chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết về sự khác biệt giữa khả năng tập trung và “trí tuệ tự chứng” trong Chương 14.

Quan niệm sai lầm #2: 
Thiền định có nghĩa là đi vào trạng thái hôn mê

Một lần nữa, mệnh đề này chỉ đúng cho vài hệ thống tu tập khác, chứ không đúng cho Thiền quán. “Trí tuệ trực quán” thì không tạo nên một dạng thôi miên nào cả. Không phải là bạn đang cố gắng làm cho tâm của mình trống rỗng để rơi vào trạng thái vô thức, hay là cố gắng biến mình thành một loài thực vật vô tri. Nếu theo ý nghĩa này, thì trái ngược lại sẽ đúng cho Thiền quán. Thiền sinh sẽ trở nên thích nghi hơn với những thay đổi cảm xúc của mình. Bạn sẽ học biết bản thân ở tầng mức chính xácrõ ràng hơn. Trong quá trình tu tập pháp môn này, vài cảnh giới có thể xảy ra gần như hôn trầm cho thiền sinh, nhưng thật ra thì không phải thế; trong những lúc buồn ngủ, đề mục thường dễ bị lạc mất và tâm đi lang thang. Còn trong khi có được sự tập trung cao độ, thiền giả rất ư là tỉnh táo. Bề ngoài trông qua, hai tình huống thì giống nhau, nhưng bên trong thì hoàn toàn khác hẳn, và những hiện tượng này cũng không phải là điểm quan yếu của Thiền quán. Như chúng tôi đã nhắc qua, trạng thái tập trung cao độ của Thiền Na chỉ là dụng cụ hay là những nấc thang trên con đường tu tập đi đến Tuệ giác. Thiền quán được định nghĩa là vun trồng Chánh niệm hay Tỉnh giác. Nếu bạn thấy ra rằng, mình đang bị lạc vào vô thức trong lúc công phu, thì bạn không phải là đang hành thiền. Đó là dựa theo định nghĩa của từ ngữ được dùng trong thiền quán. Đơn giản thế thôi.

Quan niệm sai lầm #3: 
Thiền định là một pháp tu huyền bí không thể nào hiểu được

Điều này chỉ gần đúng mà thôi. Thiền định dùng để đối diện với Ý thức nằm sâu trong Tư tưởng. Do đó, ngôn ngữ không thể nào diễn đạt hết được những gì trong phạm vi này. Tuy nói thế, nó không có nghĩa là chúng ta vĩnh viễn không thể nào hiểu thấu. Có nhiều cách để hiểu biết vấn đề một cách thâm sâu hơn là ngôn ngữ. Chúng ta hiểu cách đi, đứng. Bạn có lẽ không thể nào diễn tả tuần tự chính xác những cảm giác và những cơ bắp co rút trong tiến trình bước đi. Nhưng bạn vẫn có thể làm được tốt. Thiền định cần phải được thông hiểu theo cùng lề lối này, bằng cách thực dụng nó. Nó không phải là những gì mà bạn có thể học được theo khóa học trừu tượng. Nó phải được học qua kinh nghiệm. Thiền định không phải là những công thức vô tư duy, có thể cho ra những kết quả theo dự đoán một cách tự động khi cho vào những ẩn số. Bạn không thể nào đoán ra được những gì sẽ xảy ra trong một buổi tọa thiền nào cả. Mỗi buổi tọa thiền là một khoảng thời gian phiêu lưu để khảo cứu, kinh nghiệm. Thật ra, điều này là sự thật, khi bạn đạt được khả năng phán xét và tương quan trong sự tu tập của mình, từ đó bạn có thể dùng nó như là một kim chỉ nam. Điều này chỉ ra rằng, bạn thường hay bị lạc hướng trong khi tu tập sẽ tạo nên những giai đoạn trì trệ. Hãy học nhìn vào mỗi giây phút như là: nó chỉ là một giây phút duy nhất tồn tại trong vũ trụ này, đây chính là điều tối quan yếu trong Thiền quán.

Quan niệm sai lầm #4: 
Thiền định để thành người có công năng đặc dị

Không phải thế! Mục đích của thiền định là phát triển Tỉnh giác. Học cách đọc tâm mình không phải là điều tối hậu. Mục tiêu rốt ráo không phải là khả năng bay bổng, đằng vân, mà là “sự giải thoát.” Có mối liên quan giữa hiện tượng tâm linhthiền định, nhưng sự tương quan này rất ư là phức tạp. Trong giai đoạn đầu của tu thiền, những hiện tượng này có thể phát sinh. Vài thiền giả có thể có được một số kinh nghiệm trực giác hay hiểu biết về ký ức tiền kiếp mà những người khác thì không có thể. Trong trường hợp này, chúng ta không thể xem đó là một tiến bộ tâm linh hay là công năng cảm ứng. Không nên tặng cho những hiện tượng này cái tầm nhìn quan trọng quá mức. Những hiện tượng như thế, thật ra thì có hại đối với những hành giả sơ cơ, bởi vì chúng rất ư là quyến rũ. Đây là những cạm bẫy có thể lôi cuốn hành giả đi lệch hướng. Sự khuyến cáo tốt nhất cho thiền sinh là đừng chấp chặt nhiều vào những hiện tượng này. Nếu chúng khởi sinh, thì ghi nhận từng hiện tượng một, chỉ thế thôi. Còn bằng không thì cũng không sao cả. Thường thì chúng sẽ không xảy ra. Ở vào giai đoạn nào đó trong quá trình tu tập, hành giả có thể thực hành vài đề tài đặc biệt để có năng lực tâm linh. Nhưng điều này chỉ xảy ra ở giai đoạn sau này. Sau khi thiền giả đạt được những lãnh vực sâu sắc của Thiền Na, người ấy mới có thể có khả năng để xử dụng năng lực này mà không bị nó điều khiển và huỷ diệt cuộc đời của mình. Hành giả sẽ phát triển năng lực này chỉ vỏn vẹn dùng để phục vụ người khác mà thôi. Giai đoạn này chỉ xảy ra sau rất nhiều năm tu tập, đừng nên quá lo lắng về nó. Chỉ nên tận lực tập trung phát triển khả năng tỉnh giác mà thôi. Nếu có những giọng nói và hình ảnh phát sinh, chỉ cần ghi nhận chúng rồi để cho chúng tự phân hủy, đừng bận lòng chấp chặt hay theo đuổi chúng.

Quan niệm sai lầm #5: 
Thiền định thì nguy hiểm, người thận trọng nên tránh xa

Bất cứ việc gì cũng có nguy hiểm tiềm ẩn trong đó. Băng ngang qua một con đường, bạn có thể bị một xe buýt đụng phải. Khi đang tắm bạn vẫn có thể bị trẹo cổ. Khi tu thiền, bạn có thể nạo vét đi nhiều ý tưởng xấu xa trong quá khứ. Những biến cố đã bị đè nén, vùi lấp trong tận cùng sâu thẵm của tâm thức trong thời gian thật dài, có thể trở nên rất đáng sợ, hoặc cũng có thể có nhiều lợi ích. Không có một sinh hoạt nào hoàn toàn không có mầm móng hiểm họa. Nhưng điều đó không có nghĩa là, chúng ta nên gói cuộn thân mình trong một cái tổ an toàn nào đó. Đó không phải là đời sống mà là trạng thái chờ chết. Phương thức tốt nhất để đối diện với hiểm họa, là biết được một chừng mức nào đó về nó: bao nhiêu, ở đâu, và xử thế ra sao khi nó phát sinh. Đó cũng là một trong những mục đích của quyển sách này. Thiền quáncông trình xây dựng Tỉnh giác. Thực chất của quá trình thì không có gì là nguy hiểm, mà còn có thể nói còn trái ngược lại nữa. Tăng trưởng Tỉnh giácbiện pháp phòng vệ đối với hiểm họa. Nếu hoàn tất đúng đắn, thì tu thiền là một quá trình rất nhẹ nhàng và chậm rãi. Thực hành thật chậm, từ từ, và phát triển sự tu tập của mình bằng cách để cho nó xảy ra một cách tự nhiên. Không có gì là nên gượng ép cả. Sau này, khi có được sự chỉ dẫn và khảo sát của một vị thầy tốt, bạn có thể đi nhanh hơn để trải qua những khóa thiền thâm sâu. Ở giai đoạn đầu, chỉ nên thong thả. Thực hành một cách bình thản và mọi sự việc sẽ đâu vào đó.

Quan niệm sai lầm #6: 
Thiền định chỉ dành cho tu sĩ, không phải cho người thế gian

Bạn sẽ thấy lối suy nghĩ này rất phổ biến ở Á châu, nơi mà những tu sĩ và những người hành đạo rất được mọi người trong xã hội tôn kính. Tình trạng này có tính tương đồng với thái độ của người phương Tây dành cho những tài tử điện ảnh và các nhà chơi thể thao nổi tiếng. Những hạng người như thế đã được tạo dựng lên theo những khuôn mẩu, đã được thổi phồng lên xa hơn so với giá trị đời sống của chính bản thân họ, và đã được áp đặt với mọi thứ đặc tính mà không có mấy người có thể thực sự có được. Ngay cả trong thế giới Tây phương, chúng ta cũng có lối suy nghĩ như thế đối với thiền định. Chúng ta luôn kỳ vọng người hành thiền phải là những hình tượng đặc biệt tôn kính đến mức độ, khi để miếng bơ vào miệng thì miếng bơ kia cũng không dám tan ra. Chỉ cần gần những vị này thôi là tất cả mọi ảo tưởng sẽ được xua tan đi.

Những thiền giả luôn luôn phải chứng thực nguồn năng lượng to lớn và cảm hứng cao độ; họ sống bằng cuộc đời với lời nói đầy sức mạnh. Dĩ nhiên, điều này thì có thể đúng cho nhiều thiền sư, nhưng họ không phải tu thiền vì bởi họ là tu sĩ. Mà là trái ngược lại, họ là tu sĩ vì bởi họ tu thiền. Thiền định là quá trình đưa họ đến đó (làm tu sĩ.) Và họ bắt đầu tu tập trước khi họ trở nên thánh thiện. Đây là một điểm quan trọng. Một số lớn thiền sinh chừng như nhận ra rằng, một người phải trở nên hoàn toàn đạo đức rồi mới có thể bắt đầu tu thiền. Sự hoạch định này không mang đến kết quả cho sự tu tập được. Nền tảng đạo đức đòi hỏi một mức độ tự chế tâm lý. Đó là một điều kiện tiên quyết. Khi bạn không có sự tự chế nào cả, thì bạn không thể thực hiện bất kỳ lời răn nào, và nếu tâm của bạn luôn bị hổn loạn quay cuồng như trục quay của máy xoay sinh tố, thì sự tự chế làm sao hiện hữu. Cho nên, thái độ tâm lý bắt buộc phải có trước. 

Có ba bộ phận cấu thành phương pháp tu thiền Phật giáo — Giới, Định, và Tuệ. Ba bộ phận này phát triển cùng nhau trong quá trình tu tập của thiền sinh. Mỗi phần ảnh hưởng hai phần kia, cho nên thiền sinh phải vun trồng cả ba cùng một lúc, chớ không phải từng phần. Khi có được Trí tuệ để hiểu một cách chân thật những hoàn cảnh, thì bạn sẽ có lòng thương cảm hướng đến mọi loài một cách tự phát. Lòng thương cảm có nghĩa là, thiền sinh tự động thu thúc mình không để cho phát sinh ý tưởng, hành động và lời nói, vì có thể thương tổn đến bản thân hay người khác. Từ đó, phong cách cư xử của thiền sinh tự nhiên có tính đạo đức cao. Chỉ khi nào không thể hiểu thấu sự việc, thì bạn mới tạo ra vấn đề. Nếu bạn không thể thấy ra cái hậu quả được cấu tạo ra từ hành động của mình, thì bạn sẽ dễ bị lầm lẫn. Những ai muốn đợi mãi cho đến lúc hoàn toàn thánh thiện thì mới tu thiền, thì việc ấy sẽ không bao giờ xảy đến. Giống như câu nói của một nhà thông thái cổ là: người này đang đợi cho mặt nước đại dương phẵng lặng để cho hắn tắm. Để hiểu sự liên hệ này rõ ràng hơn, hãy hình dung một hệ thống đo lường nguyên tắc đạo đức. Mức thấp nhất là tuân thủ những nguyên tắc và luật lệ đã được đặt ra bởi một số người. Có thể là do những nhà tiên tri mà bạn ưa thích. Hoặc là nhà lãnh đạo, người linh hướng hay là cha mẹ của bạn. Không cần biết ai là người lập ra những qui tắc, ở giai đoạn này, bạn chỉ cần biết chúng và thi hành theo. Một người máy có thể làm được điều này. Thậm chí một con tinh tinh Phi châu cũng có thể làm được nếu những qui tắc kia đủ đơn giản và nó sẽ bị đánh một roi mỗi khi nó phạm qui. Ở tầng mức này không cần phải tu thiền gì cả. Chỉ cần một bảng qui tắc và một người cầm cây roi.

Tầng mức nguyên tắc đạo đức kế tiếp bao gồm: tuân thủ những qui tắc nhưng không có một người cầm cây roi canh chừng. Bạn tuân theo bởi vì đã bị những luật lệ này thấm nhập vào tâm. Bạn sẽ tự khiển trách mình mỗi lần vi phạm. Cấp bậc này thì đòi hỏi một ít tâm tự chủ. Nếu mô hình tư duy của bạn lộn xộn thì phương cách cư xử cũng sẽ lộn xộn theo. Trình độ văn hóa tâm lý sẽ làm giảm bớt tráo trộn tâm lý.

Mức độ thứ ba của nguyên tắc đạo đức thì nên gọi là “nền tảng Đạo đức.” Ở mức độ này là tất cả số lượng cần có trong toàn bộ đo lường nguyên tắc mà chúng ta đang nói, đây là một hệ thống biến từ thật sự để đo lường. Ở tầng mức cao nhất (Đạo đức), cá nhân đó không phải tuân theo những qui tắc do một thẩm quyền nào đặt ra cả. Người ấy chọn lấy phong cách hành xử cho chính mình, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cần thiết. Cấp bực đạo đức này đòi hỏi sự thông tuệ thật sự và khả năng phán xét về tất cả mọi mặt của vấn đề, để có thể có một giải pháp xử thế năng động, thích nghi cho từng hoàn cảnh. Hơn nữa, mỗi cá nhân tự quyết định lấy những gì cần thiết để thoát khỏi những tư kiến giới hạn của mình. Người ấy phải nhìn thấy toàn bộ hoàn cảnh, từ quan điểm khách quan, nhận xét vô tư đối với nhu cầu cá nhân và người chung quanh. Nói cách khác, người ấy không bị ràng buộc bởi tham lam, hờn ghét, ghen tỵ, và tất cả những ích kỷthường hay che khuất cái tầm nhìn của mình so với quan điểm của người khác. Chỉ khi đó, người đó mới chọn ra những hành động rõ ràngphù hợp nhất cho hoàn cảnh lúc ấy. Mức độ đạo đức này nhất định đòi hỏi công phu tu thiền, ngoại trừ bạn bẩm sinh ra là một thánh nhân. Không có một phương cách nào khác để có được kỷ năng này. Hơn thế nữa, quá trình huấn luyện như thế này rất ư là gian nan. Nếu bạn cố gắng xào nấu những khía cạnh của vấn đề trong tâm thức, thì bạn chỉ làm cho bản thân mình kiệt quệ mà thôi. Trí thông minh không thể nào giữ cho nhiều trái banh trên không trung cùng một lúc. Nó sẽ bị quá tải. May mắn là tầng sâu của Ý thức có thể thực hiện quá trình này dễ dàng. Tu thiền có thể hoàn thành giai đoạn này cho bạn. Nó là một cảm giác kỳ bí.

Một ngày kia, bạn gặp phải vấn đềthí dụ như đối diện với vụ ly dị của chú Herman. Rõ là không có một giải pháp nào tốt và mớ lộn xộn to lớn của những “rút mắc” tạo cho bạn những cảm giác bồn chồn. Ngày hôm sau, trong khi bạn rữa chén, đồng thời đang nghĩ về một vấn đề khác, nhưng bất chợt một giải pháp tốt phát sinh. Nó nhảy ra từ trong tiềm thức và bạn nói “À há!”, và một vấn đề đã được giải quyết thông suốt. Loại trực giác này chỉ có thể xảy ra khi bạn vượt thoát vòng lẫn quẫn của lý luận ra khỏi vấn đề, và để cho tiềm thức một cơ hội để trù tính một giải pháp. Tâm nhận biết chỉ đứng chắn trên lối đi làm sự kiện trở nên trì trệ và khó khăn hơn. Tu thiền dạy bạn cách nào thoát khỏi vòng vận hành của tư tưởng. Nó là một nghệ thuật tâm linh dùng để giải quyết vấn đề, cũng là một kỷ năng hữu ích trong đời sống hàng ngày. Tu thiền không nhất thiết là phải dành riêng cho những người tu khổ hạnh và các ẩn sĩ. Nó là một kỷ năng thực dụng có thể dùng trong những sự kiện mỗi ngày và áp dụng tức thời trong đời sống của mọi người. Thiền định không phải là của thế giới khác. 

Thật không may, sự thật này cấu thành vấn đề cho vài loại thiền sinh. Họ tu tập để kỳ vọng nhận thức ra lập tức cái thế giới phạm thiên. Những gì họ thường có được là phương cách quét sạch phiền nãogiải quyết khó khăn trong cuộc sống. Họ thất vọng một cách không cần thiết. Những cù cặn thì phải đến trước. Tiếng nói của thiên thần thì phải mất rất nhiều thời gian.

Quan niệm sai lầm #7: 
Thiền địnhtrốn tránh sự thật

Không đúng! Tu thiềnthể nhập vào sự thật. Nó không cách ly bạn ra khỏi khổ đau của đời sống, mà là giúp bạn nghiên cứu sâu vào cuộc đời, cũng như mọi khía cạnh khác, để bạn có thể xuyên thủng bức tường khổ đau, vượt thoát niềm thống khổ. Thiền quán là pháp tu được thực hiện theo lối quyết định rõ ràng để đối diện với sự thật, kinh nghiệm đời sống như-nó-là, và đương đầu với những gì bạn tìm thấy ra. Nó giúp bạn tống khứ đi những ảo tưởng và vượt thoát tất cả sự tự lừa dối phù phiếm đối với chính mình trong mọi thời. Những gì ở đó thì ở đó. Bạn chính là bạn trong lúc hiện tại. Sự tự dối lừa bản thân về những khuyết điểm, tự khích lệ và bào chữa, chỉ càng tạo thêm bó buộc mình vào vòng ảo tưởng mà thôi. Thiền quán thì không có ý định làm quên đi bản thân hay che dấu những khó khăn của thiền sinh. Nó chỉ dạy cho bạn thế nào để nhìn tự thân như-nó-là của mình. Nhìn ra những gì hiện hữuchấp nhận chúng một cách toàn diện. Chỉ khi ấy bạn mới có thể thay đổi được chúng. 

Quan niệm sai lầm #8: 
Thiền định là phương thức tốt để đi lên

A! Đúng mà cũng không đúng. Tu thiền đôi khi có thể thâm nhập vào trạng thái hạnh phúc tuyệt vời. Nhưng đó không phải là mục đích rốt ráo và không luôn luôn xảy ra. Hơn nữa, nếu bạn tu thiền với mục đích ấy trong đầu, thì cơ hội cho những trạng thái này xảy ra lại càng thấp hơn, nếu so với khi bạn tu thiền với mục tiêu đúng đắn, nghĩa là phát triển Tỉnh giác. Trạng thái hạnh phúc là cái quả của sự thư giãn; còn sự thư giản là cái quả của sự buông bỏ căng thẳng. Tìm hạnh phúc từ tu thiền là đưa sự căng thẳng vào quá trình, sẽ làm cho tất cả mọi điều kiện liên quan đến nó cùng bị ảnh hưởng theo. Đó là một vấn đề tiến thoái lưỡng nan. Bạn có thể có hạnh phúc chỉ khi nào bạn không theo đuổi nó. So sánh với trạng thái lâng lâng và cảm thấy tuyệt vời là những trạng thái mà bạn muốn theo đuổi, thì có nhiều cách dễ dàng hơn để có được. Chúng được cung cấp ở các lữ quán hay những góc nhá nhem tối cuối con đường, khắp nơi trong phố. Trạng thái lâng lâng thì không phải là mục đích của tu thiền. Nó là sản phẩm phụ có thể xảy ra, một loại hiệu ứng phụ mê li và trở nên kéo dài hơn khi bạn tu thiền lâu dài. Bạn sẽ không nghe bất kỳ sự phủ nhận nào về vấn đề này từ những thiền giả tu tập lâu năm.

Quan niệm sai lầm #9: 
Thiền định là ích kỹ

Nhìn bề ngoài thì có vẻ là như thế. Hành giả ngồi bất động trên chiếc tọa cụ trong góc phòng kia như một tượng gỗ. Người ấy đâu có đi hiến tặng máu? Không có! Người ấy đang bận rộn để giúp đỡ những nạn nhân bị thiên tai? Cũng không! Nhưng hãy xem xét về động lực của người đó. Tại sao người ấy làm như thế? Ý định của người ấy là thanh lọc cái tâm sân hận, thành kiến, và tàn ác của chính mình. Người ấy tham gia một cách tích cực trong quá trình loại bỏ tham lam, căng thẳnglãnh đạm. Những trạng thái tâm lý này đã và đang làm trở ngại lòng thương cảm của bản thân hành giả đối với người khác. Ngoại trừ khi nào những trạng thái này mất đi, bằng không, tất cả những điều tốt gì hành giả đã, đang và sẽ làm, chỉ là hình thức để vun bồi cho cái bản Ngã của mình mà thôi. Vì tư kỷ, với danh nghĩa “giúp đỡ” là một danh phù phổ biến nhất từ xưa cho đến nay. Người có quyền lực tối cao chính là người lớn tiếng nhất về những hành vi cao thượng. Những phiên tòa Hồi giáo đều được điều khiển để mang lại phúc lợi cho đa số quần chúng. Khám xét đời sống cá nhân của những thiền giả chân chính, thì bạn sẽ thấy ra rằng, họ thường tham dự vào những hoạt động từ thiện. Bạn sẽ ít thấy được họ hành động như những người tham gia chiến dịch truyền giáo, sẵn sàng hy sinh bất kỳ cá nhân nào cho mục đích sùng tín tôn giáo. Thật ra, chính chúng ta mới đích thật là những kẻ ích kỷ hơn là chúng ta đang nghĩ. Cái “Ta” có cách biến đổi những hành động cao thượng trở thành bẩn thỉu nếu chúng ta tạo cơ hội cho nó. Xuyên qua quá trình tu tập thiền, chúng ta trở nên có chú tâm hơn về bản thân mình, đúng như là con người thật của chính mình, bằng cách nhận diện ra mọi khía cạnh tiềm ẩnchúng ta biểu lộ tính ích kỷ của mình ra ngoài. Để rồi, chúng ta thật sự bắt đầu trở nên vô ngã một cách thành thật. Thanh lọc sự ích kỷ của bản thân thì không phải là hành động ích kỷ.

Quan niệm sai lầm #10: 
Khi bạn tu thiền, bạn ngồi đó để suy nghĩ những tư tưởng cao thượng

Không đúng! Có một vài hệ thống nghiệm xét để làm công việc này, nhưng không phải là thiền quán. Thiền quántu tập Tỉnh giác. Tỉnh giác về những gì ở đây, dù cho nó là sự thật cao thượng hay là những cặn bả tồi tệ nhất. Bất cứ những gì đang ở đây trong hiện tại. Dĩ nhiên, những tư tưởng tốt đẹp, cao thượng có thể phát sinh trong khoảng thời gian đang tu tập. Chắc chắn là không thể tránh và không cần phải tìm kiếm chúng. Chúng chỉ là những cảm giác thiện phụ thuộc. Thiền quán là sự tu tập đơn giản; nó bao gồm những kinh nghiệm trực giác về điều kiện của đời sống mình, mà không có sự thiên vị hay những cảnh giới áp đặt lên chúng. Tu Thiền quán là bạn đang nhìn cuộc đời mình trôi qua trong từng phút giây mà không phê phán. Những gì xuất hiện thì sẽ phơi bày như-nó-là. Nó rất ư là đơn giản.

Quan niệm sai lầm #11: 
Chỉ vài tuần lễ tu thiền thì tất cả vấn đề của tôi sẽ biến mất

Thật là đáng tiếc, thiền tập thì không phải là loại thần dược trị bá bệnh. Bạn sẽ thấy thay đổi ngay, nhưng thật sự cái hiệu quả thì phải mất rất nhiều năm mới có thể thấy ra. Đó là lối vận hành của vũ trụ. Không có gì quí giá mà có thể đạt được sau một đêm. Tu thiền thì càng khó hơn trên vài phương diện. Nó đòi hỏi một quá trình kỷ luật dài hạn và đôi khi rất ư là gian khổ. Trong mỗi buổi tọa thiền bạn sẽ có được một chút, nhưng những thành quả này thường là rất vi tế. Chúng xảy ra ở tầng mức sâu thẵm trong tâm, và sẽ biểu lộ ra ở sau này. Nếu bạn tọa thiền bền bỉ để tìm kiếm những thay đổi cấp tốc, thì bạn sẽ bỏ qua cơ hội để thấy những biến đổi nhỏ này. Bạn sẽ chán nản, bỏ cuộc và kết luận là những thay đổi này sẽ không bao giờ xảy ra. Kiên nhẫn là chìa khóa. Kiên nhẫn. Nếu bạn không học được gì từ tu thiền, thì bạn sẽ học được lòng kiên nhẫn. Và đó là một bài học quí giá nhất luôn luôn hiện hữu.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9787)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9955)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20507)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9951)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10338)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34405)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20440)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19190)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8750)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12107)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8994)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10613)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9334)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9191)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22240)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10184)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9449)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8624)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8611)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8353)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8464)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10177)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23617)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9390)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8337)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8521)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7970)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8793)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8618)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30052)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24161)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9630)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9510)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28203)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23697)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12244)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8881)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9638)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30888)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27116)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32704)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27754)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58666)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10651)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14206)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28146)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant