Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lịch Sử Hành Hoạt Của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

09 Tháng Mười Một 201617:18(Xem: 11606)
Lịch Sử Hành Hoạt Của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
LỊCH SỬ HÀNH HOẠT CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

BÀI THUYẾT TRÌNH
Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10
tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada Ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem thêm thông tin)


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn Trưởng Lão Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức

Tăng Ni,

Kính thưa chư vị Thiện Hữu Tri Thức, quý Đồng Hương Phật tử,

Kính thưa quý liệt vị, HT-Nguyen-Sieu

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập vào ngày 04 tháng 01 năm 1964. Trong Lời Mở Đầu của Hiến Chương đã viết:

“Công bố lý tưởng hòa bình của giáo lý đức Phật, hai tông phái Phật giáo (Bắc tôngNam tông) tại Việt Nam thực hiện nguyện vọng thống nhất, thật sự đã là hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của GHPGVNTN.

GHPGVNTN không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.

Quan niệm thống nhất Phật giáo Việt Nam để thực hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luậtnếp sống của hai tông phái cũng như của hai giới Tăng sĩ và cư sĩ chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợpchỉ đạo. Đó chính là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo Thống Nhất tại Việt Nam.”

Đọc Lời Mở Đầu của Hiến Chương là quá đủ cho chúng ta thấy sự hiện hữu của GHPGVNTN trên quê hương đã mang sứ mạng, trọng trách như thế nào trong công cuộc xiển dương Phật pháp, phụng sự chúng sinh, an bình quốc gia, xã tắc. Từ những mục tiêu, lý tưởng ấy GHPGVNTN luôn dấn thân trong mọi hoàn cảnh để tạo dựng, thiết lập một vũ trụ quan, nhân sinh quan Phật giáo, ngõ hầu lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy Từ Bi làm lẽ sống cho nhân quần, xã hội. Những mục tiêu, lý tưởng, hành động ấy sẽ được trình bày trong những tiết mục sau:

I.   DẪN NHẬP: Hai Nghìn Năm Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

Trong bài “Bằng Đôi Chân Của Mình Mời Người Hãy Đi Lên” của Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, vào đề Hòa Thượng viết:

“Là người Việt Nam thì dù ở nơi đâu, sống trong hoàn cảnh nào cũng đều mong muốn góp phần mình vào việc làm tốt đẹp cho quê hương. Là người Phật tử Việt Nam thì dù ở nơi đâu, sống trong hoàn cảnh nào cũng chẳng thể nào quên được mình là một thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.”

Một minh thị trong ý thức lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã có mặt trong dòng lịch sử đó, đã thăng trầm thành bại, nổi trôi theo vận nước ngót 2000 năm qua. Nước nhà được hưng thịnh, dân sinh được ấm no thì Phật giáo cũng được an bình hành hoạt; bằng ngược lại Phật giáo cũng không tránh khỏi cảnh đầu rơi, máu đổ. Từ những thực trạng ấy cho đến hôm nay, những thức giả, những nhà nghiên cứu hai dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã nói: “Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành với dân tộc Việt Nam.” Để chứng minh điều này, chúng ta cần có cái nhìn thấu suốt dòng lịch sử 2000 năm trước khi GHPGVNTN ra đời. Sự ra đời của GHPGVNTN là điều tất yếu phải có vì tinh thần truyền đăng tục diệm, vì tiếp nối con đường hoằng pháp của chư vị Lịch Đại Tổ Sư, vì yếu tính thích nghi với thời đại, để Phật giáo không bị tụt hậu, luôn đồng hành với nền văn minh tiến bộ của nhân loại, luôn tranh đấu để phát huy mọi đức tính tự tồn làm phương châm dẫn khởi trong quê hương, dân tộc.

Trong Bạch Thư về quá trình xây dựng Giáo Hội và Đòi Tự Do Dân Chủ của GHPGVNTN, Hòa Thượng Huyền Quang, Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đã viết:

“Đạo Phật đã hiện hữu trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam gần 2000 năm, biết bao nhiêu thăng trầm cùng vận nước. Thời kỳ Lý, Trần vẻ vang giữ nước, dựng đạo, rồi suy vi nối liền ba thế kỷ nhiễu nhương thời Trịnh Nguyễn phân tranh và lệ thuộc Tây Phương, nhất là thời kỳ đất nước lâm vào cảnh chiến tranh ý thức hệ quốc gia và cộng sản của hai miền Nam Bắc đã làm suy nhược sinh thể của dân tộc và Phật giáo không ít. Nhưng, nhờ vào tinh thần khai phóng, khoan dung, với khả năng chuyển hóa phi thường, Phật giáo Việt Nam vẫn trường tồn và phát triển vững vàng.”

(Ưu Đàm Lướt Bão, Tr. 505 – Viện Triết Lý Việt Nam Triết Học Thế Giới, xuất bản 1998 – Nguyên Siêu)

a.   Phật giáo đồng hành trong công cuộc dựng nước và giữ nước:

Khi triều đại nhà Lê mới lập nghiệp, Vua Lê Đại Hành hỏi vận nước như thế nào. Thiền Sư Pháp Thuận trả lời:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiênthái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh

                                           (Thiền Uyển Tập Anh)

Dịch:

Vận nước như giây quấn

Trời Nam mở thái bình

Đạo đức ngự cung điện

Xứ xứ hết đao binh

 

(Việt Nam Phật giáo Sử Luận, Lá Bối xuất bản, 1974, tr. 146 – Nguyễn Lang)

b.   Phật giáo đồng hành qua thi ca văn học:

Nói lên sự gắn bó, bất phân ly giữa Phật giáo và dân tộc Việt Nam trên suốt dòng lịch sử, bài thơ Tình Sông Nghĩa Biển của Trụ Vũ đã viết:

“Việt Nam và Phật giáo

Phật giáoViệt Nam

Ngàn năm xương thịt kết liền

Tình sông nghĩa biển, mối duyên mặn nồng…

Trang sử Việt Nam yêu dấu

Thơm ướp hương trầm

Nghe trong tim Lý, Lê, Trần

Có năm cánh đạo nở bừng nguy nga…”

 

Một thi hào Nguyễn Du với Truyện Kiều. Ôn Như Hầu với Cung Oán Ngâm Khúc… đều mang sắc thái văn học Phật giáo, nội hàm một tinh thần giáo lý Phật pháp.

b.   Phật giáo đồng hành qua nền văn hóa hiếu thảo trong tục ngữ ca dao:

“Ngó lên trời cao thấy cặp cu đang đá

Nhìn ra ngoài biển thấy cặp cá đang đua

Anh về lập miếu thờ vua

Lập trang thờ Mẹ, lập chùa thờ Cha.”

 

“Lên non mới biết non cao

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”

Hay:

“Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi

Giã gạo cho trắng để nuôi Mẹ già

Mẹ già ở túp lều tranh

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”

 

Phật giáo đã đồng hành trong nhiều lãnh vực giáo dục, văn hóa học thuật, kể cả tinh thần tu chứng trở thành các bậc Tổ đức Thiền Sư, được ghi lại trong Thiền Uyển Tập Anh.

Một đôi nét tiêu biểu qua lịch sử, qua đời sống sinh hoạt trung thực của Phật giáo Việt Nam trong dòng sinh mệnh dân tộc. Từ đó, chúng ta có một cái nhìn thấu suốt sự ra đời của GHPGVNTN trên dòng lịch sử 2000 năm qua.

 

II.   BỐI CẢNH LỊCH SỬ 1963

Nguyên nhân khởi đầu từ bức Công Điện của Đổng Lý Văn Phòng phủ Tổng Thống ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo quốc tế nhân ngày Đại lễ Phật Đản năm 1963. Từ đó tạo thành pháp nạn cho Phật giáo Việt Nam. Dù phải hy sinh đến thân mạng, Phật giáo Việt Nam vẫn biểu tỏ tinh thần đại hùng để bảo vệ lá cờ Phật giáo trong mọi hoàn cảnh. Sự triệt hạ cờ Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm là biểu hiện không tôn trọng tinh thần tự do tín ngưỡngbình đẳng tôn giáo, mà Phật giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam ngót 2000 năm.

Máu đã đổ nơi đài phát thanh Huế, cuộc đàn áp Phật giáo được dàn dựng quy mô của chính quyền đã đẩy Phật giáo vào thế phải tự vệ. Một bản Tuyên Ngôn của Tăng Tín Đồ Phật Giáo Việt Nam và năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo được gởi đến phủ Tổng Thống. Năm nguyện vọng như sau:

  1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn Công Điện triệt hạ giáo kỳ của Phật giáo.
  2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ công bằng đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên chúa đã được ghi trong Dụ số 10.
  3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ khủng bố Tăng Tín đồ Phật giáo.
  4. Yêu cầu Tăng Tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạohành đạo.
  5. Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng, cho những người bị giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.

 

Đại diện ký tên, Phật lịch 2507, Huế

Ngày 10 tháng 05 năm 1963

Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam

Ký Tên, Hòa Thượng Tường Vân

Ban Tổng Trị Sự Giáo Hội T.G.T.P

Ký Tên, Thích Mật Nguyện

Ban Trị Sự Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Trung Phần

Ký Tên, Thích Trí Quang

Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên

Ký Tên, Thích Mật Hiển

Ban Trị Sự Tổng Hội Phật Giáo Thừa Thiên

Ký Tên, Thích Thiện Siêu

 

(Phật Giáo Tranh Đấu, in lần thứ Năm, nhà xuất bản Hưng Đạo, USA, tr. 30. Quốc Oai biên soạn)

 

 

Phật giáo Việt Nam thời nào cũng có Bồ Tát Thánh Tăng, phát nguyện vào đời để hộ quốc an dân. Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật giáo được thỉnh cử để điều hành công việc giải trừ pháp nạn. Bồ Tát Thích Quảng Đức đã vị pháp thiêu thân, đốt lên ngọn lửa Từ Bi và lưu lại trái tim bất diệt cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn. Chư vị Tăng Ni Phật tử đã hy hiến thân mạng cho đại cuộc, như là một ý thức minh nhiên, một trách nhiệm phải hoàn tất từ dòng máu của bản thể Tăng già Việt Nam linh thiêng, mầu nhiệm.

Bối cảnh lịch sử 1963, kể từ lúc 15:00 giờ ngày 06 tháng 05 đến ngày 01 tháng 11 năm 1963, đã diễn ra không biết bao nhiêu thế lực trù dập trên thân người, chết chóc, đọa đầy, đau thương, tủi nhục. Những nhân chứng sống  của lịch sử đã kể lại nỗi kinh hoàng hứng chịu mà lịch sử Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ bị đàn áp khốc liệt như pháp nạn 1963. Chùa chiền nhuộm màu tang tóc, Tăng Ni bị thảm sát, Phật tử mất tích… Tất cả những sự kiện thực đó là chứng tích lịch sử, bài học sống cho dân tộc và nhân loại. Bài học khoan dung, tha thứ. Bài học xả kỷ, vị tha. Bài học hy sinh thân mạng để bảo vệ chính nghĩa cao thượng. Bài học tôi luyện tâm tư thanh lương, trong sáng, tươi mát mà ngồi trong lửa vẫn không thấy nóng. Học tất cả những tinh túy của loài người. Học tinh thần hy sinh bản thân để cho người được sống… Tất cả những bài học đó đã tiềm ẩn trong dòng máu của Việt tộc, của buổi bình minh Phật giáo Việt Namtinh thần Từ Bi – ban vui cứu khổ được trân quý như một bảo vật đem kính dâng, hiến tặng cho người. Lòng Từ Bi đó không có nhân ngã, bỉ thử mà thân thù bình đẳng. Chúng ta phải mở rộng tấm lòng để học hạnh vô úy, đức khiêm cung, tâm tự nguyện hy hiến thân mạng để bảo vệ cho đạo pháp trường tồn, cho dân sinh được tự do hạnh phúc. Và học cái tinh thần tu chứng như ngọn lửa Từ Bi, trái tim bất diệt của Bồ Tát Thích Quảng Đức. Chúng ta hãy lắng đọng tâm tư, giữ lòng thanh tịnh mà nghe tâm huyết của Bồ Tát Quảng Đức viết gửi lại cho Tăng Tín đồ Phật giáo Việt Nam, cho nhân loại trên thế giới, cho dân tộc Việt Nam, cho chính quyền Ngô Đình Diệm:

“Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau:

  1. Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận 5 nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản Tuyên Ngôn.
  2. Nhờ ơn Phật Từ Bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt…
  3. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc. Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái, từ bi đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở…”

 

Đọc lời nguyện Tâm Huyết của Bồ Tát, chúng ta chỉ thấy lòng Từ Bi được trang trải đến cho tất cả, lòng Từ Bi đó không những chỉ cầu mong Phật pháp được trường tồn, nhân dân được an lạc, mà chẳng có khinh trọng bên nào, dù người đó là nguyên nhân, là động cơ đưa mình đến cái chết. Đây chính là chất liệu, tiềm năng để un đúc cho GHPGVNTN ra đời. Vì sự hiện thân của GHPGVNTN là tiếp nối con đường của Bồ Tát đã hành hoạt, là kết tinh của ngọn lửa Từ Bi và trái tim bất diệt để dệt thành dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam tươi sáng muôn đời.

 

III.   ĐẦU NĂM 1964, GHPGVNTN RA ĐỜI

“Hiến Chương của GHPGVNTN:

- Chương thứ I, Điều 1:  Tổ chức thống nhất của hai tông phái tại Việt Nam, lấy danh hiệu là “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” viết tắt là “GHPGVNTN”.

- Chương thứ II, Điều 4:  GHPGVNTN điều hợp hai tông phái Phật giáo tại Việt Nam để phục vụ nhân loại và dân tộc bằng cách hoằng dương chánh pháp.

- Chương thứ III, Điều 5:  Thành lập của GHPGVNTN gồm hết thảy Tăng sĩ và cư sĩ thuộc Bắc và Nam tông, chấp thuận bản Hiến Chương này.”

 

Sứ mạng của GHPGVNTN là công bố lý tưởng hòa bình, mang nếp sống hòa bình đến cho con người. Cuộc sống có hòa bình thì con người mới có được giá trị sống ý nghĩa và cao quý, bằng ngược lại chỉ có khổ đau. Do vậy, GHPGVNTN là hiện thân của hòa bình qua những nội dung Thông Điệp Phật Đản, Đức Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết luôn kêu gọi các phe lâm chiến trên toàn lãnh thổ Việt Nam hãy chấm dứt bom đạn để bớt đi máu và nước mắt của dân tộc, hãy tiết kiệm xương thịt của dân tộc này, vì trải qua bao nhiêu thời cuộc, chúng ta đã chứng kiến bao nhiêu cuộc di tản. Con dân bồng bế nhau đi. Trải qua những cuộc chiến ấy GHPGVNTN đã hòa mình cùng dân tộc, luôn đi đầu để khởi xướng con đường hòa bình, chống lại các thế lực chủ xướng chiến tranh. Do vậy mà Giáo Hội luôn bị kết án và trù dập dù ở bất cứ chế độ nào. Chính vì không đồng tình với các thế lực gây hấn chiến tranh mà Hòa Thượng Thiện Minh trong thời đệ nhị Cộng Hòa đã suýt chết trong cuộc ám sát bằng lựu đạn. Đến chế độ cộng sản, cũng vì tinh thần khí khái, không khuất phục trước bạo lực, cường quyền của chế độ để giữ vững lập trường của GHPGVNTN bằng khả năng bản thân để biểu hiện khả tính công lý hòa bình cho quê hương, dân tộc. Với tinh thần bất khuất ấy, Hòa Thượng đã chấp nhận cái chết trong ngục tù cộng sản. Đó chính là ý thức Thiện Minh, người khai phóng cho công lý, hòa bình, dân chủ.

Hóa thân GHPGVNTN trong thập niên 60 là để tiếp nối và phát huy nền văn hóa Phật giáo Luy Lâu. Con đường cách mạng nhân bản của triều đại nhà Lý, cũng như các triều đại khác, chống quân Nguyên, đuổi quân Mông, thắng quân, xua quân Thanh ra khỏi đất nước để giành lại nền tự chủ độc lập nước nhà.

GHPGVNTN tiếp tục thắp sáng ngọn đèn nhà Thiền qua tinh thần tu chứng của Bồ Tát Thích Quảng Đức, cùng chư Thánh tử đạo vị pháp thiêu thân để xiển dương nền đạo học của Vạn Hạnh Thiền Sư, Khuông Việt Thiền Sư, Hương Hải Thiền Sư hay Huyền Quang, Pháp Loa Tôn giả…

Các triều đại vàng son của Phật giáo đã xuất hiện bao nhiêu bậc kỳ túc, Tổ Sư nhà Thiền, Quốc sư danh Tăng thạc đức, tạo dựng một hành trạng độ sinh lẫy lừng trên dòng lịch sử 2000 năm qua. Kể từ thời Thiền Tổ Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác thì đến nay, GHPGVNTN đã có 4 đời Tăng Thống:

-         Đức Đệ Nhất Tăng Thống, Trưởng Lão HT Thích Tịnh Khiết

-         Đức Đệ Nhị Tăng Thống, Trưởng Lão HT Thích Giác Nhiên

-         Đức Đệ Tam Tăng Thống, Trưởng Lão HT Thích Đôn Hậu

-         Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Trưởng Lão HT Thích Huyền Quang

 

Bốn đời Tăng Thống của GHPGVNTN đã mang đức tính Đại Hùng, Đại Lực để vào đời phá đổ mọi thế lực vô minh, manh động của thời đại, san bằng những thành trì ngăn cách, bất công, chủ nghĩa để xây dựng cho Đạo cho Đời một nếp sống thuần hậu, nhân bản theo truyền thống Phật Việt và Tộc Việt.

Bốn đời Tăng Thống đã xây dựng cho con người một đời sống đạo hạnh, đức độ, lễ nghĩa mà phần đông con dân Việt đã hướng thân lập mệnh trên đời sống Đạo đó. Nhờ vậy, mà người dân đã giữ gìn được giềng mối đạo đức, luân thường, phong tục tập quán của Tổ Tiên, Ông Bà, nòi giống.

GHPGVNTN công bố lý tưởng hòa bình trong giáo lý của đức Phật để cho nhân loại và dân tộc thấy được khả tính Từ Bi, tôn trọng sự sống, quý chuộng tình thương để thăng hoa đời sống bình an, hạnh phúc. Đồng thời GHPGVNTN luôn mang hoài bão để phục vụ nhân loại và dân tộc qua các lãnh vực: xây dựng đời sống tinh thần qua giáo pháp Tam Vô lậu học: Giới, Định, Tuệ để tạo cho con ngườiphương châm thánh thiện. Mục đích rõ ràng mà không bị lầm đường lạc hướng.

Xây dựng đời sống vật chất của cái thành thật, biết tôn trọng của tư hữu, không xâm lấn bất cứ của ai theo tinh thần giới pháp đã thọ. Quả thật đây là tinh thần phục vụ đúng ý nghĩa giáo pháp của đức Phật giảng dạy.

GHPGVNTN phục vụ cho xã hội người qua các lãnh vực:

1- Giáo Dục:

- Mở Đại học Vạn Hạnh cho sinh viên, các vị thức giả học đời cũng như học đạo để nghiên cứu hai nền văn học thế gianxuất thế gianphổ thôngnội điển. Hệ thống giáo dục này đã tạo nên bao lớp người tri thức thời ấy. Một dân tộc có trình độ dân trí cao thì nước nhà sẽ được phồn vinh, giàu đẹp.

- Mở hệ thống trường Trung Tiểu Học Bồ Đề xây dựng thế hệ người từ khi còn non trẻ để thế hệ này thấy được, học được tình tự quê hương dân tộc một cách khách quan, lành mạnh. Học và thấy đúng nghĩa hai chữ Việt Nam.

- Mở Viện Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học Huệ Nghiêm ở Sài Gòn, Hải Đức ở Nha Trang để đào tạo tăng tài hoằng dương Phật pháp, phiên dịch Đại Tạng, giảng dạy giáo lý đức Phật.

- Mở hệ thống Phật Học Viện từ Sơ Đẳng đến Trung Đẳng cho Tăng Ni sinh theo học Phật pháp, ngõ hầu làm rường cột nơi chốn nhà Thiền, làm các bậc Thầy mô phạm cho hàng cư sĩ Phật tử, để Phật pháp được xiển dương, xã hội được an hòa, lợi lạc.

2- Từ Thiện Xã Hội:

- Thành lập các Cô Nhi Viện nuôi dưỡng trẻ mồ côi, khuyết tật mang yêu thương đến các em thiếu may mắn để các em được trưởng thành trong yêu thương đùm bọc như phong tục tập quán Việt Nam:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Hay:

“Thấy người tàn tật thì thương

Thấy người hoạn nạn lại càng thương hơn”

 

3- Kinh Tế Tài Chánh:

- Mở hãng xì dầu lá Bồ Đề, dấm Con Mèo, Hương Giải Thoát… để có phương tiện nuôi dưỡng Tăng Ni sinh theo đuổi lý tưởng xuất trần, ngõ hầu giảm bớt gánh nặng cho hàng Phật tử hộ trì Tam Bảo. Đồng thời cũng biểu tỏ cho tinh thần tự túc, tự cường – tay làm hàm nhai bởi chính mình.

- Mở tiệm phát hành kinh sách, Phật cụ v.v… phục vụ nhu cầu hoằng pháp, kiến thiết… GHPGVNTN luôn hiện hữu trên nhiều lãnh vực nhằm phụng sự tha nhân trong lý tưởng, hoài bão, lập trường… như trong Lời Mở Đầu của Hiến Chương đã viết.

Tóm lại GHPGVNTN đã hành hoạt qua các phạm trù:

-         Lý Tưởngxây dựng nền hòa bình để đem lại phúc lợi phụng sự nhân loại và dân tộc.

-         Mục Tiêu:   thăng hoa đời sống tinh thần và an sinh xã hội.

-         Hành Động:  dẫn đạo qua các lãnh vực hoằng pháp, văn hóa giáo dục, từ thiện xã hội, kinh tế tài chánh.

-         Kêu gọi tinh thần bình đẳng tôn giáo để cùng có một niềm tin thánh thiện làm điểm tựa tâm linh thuần khiết và góp phần xây dựng nền hòa bình cho quê hương Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.

 

IV.   ĐẤU TRANH CHO ĐỘC LẬP TỰ CHỦ

GHPGVNTN ra đời từ ngày 04 tháng 01, 1964 đến nay 2016, trải qua bao nhiêu thể chế, thăng trầm, thành bại, cho dù trải qua nhiều nỗi gian truân, bá quyền, tham vọng, độc tài… GHPGVNTN vẫn giữ bản thể của một tôn giáo dân tộc có tuổi thọ 2000 năm, đứng về phía dân tộc quê hương, để nói tiếng nói của quê hương dân tộc. Nhìn rõ vị trí của mình vững vàng trên con đường Trung Đạo, không thái quá cũng không bất cập của buổi giao thời giữa hai thế kỷ 20 – 21, thấy rõ vị trí của mình trong mọi tình huống. Chính vì vậy mà sau biến cố 1975, khi đất nước rơi vào cảnh trạng đau thương, tan tác, từ thôn quê đến thị thành, từ người già đến thế hệ trẻ bị đánh bật ra khỏi nếp sống an bình, bị mất tất cả mọi quyền tự do căn bản, nhân phẩm. GHPGVNTN đã đại diện cho các tầng lớp người dân, đấu tranh đòi hỏi quyền làm người, đòi hỏi quyền tự chủ, độc lập nước nhà. Do đó, nhân sự của GHPGVNTN đã bị áp bức tù đày, lao lý, đày ải từ trại giam này đến trại giam khác, cùng chịu chung số phận với mọi thành phần quần chúng bị giam giữ, đói khát, bệnh hoạn trong cơ thể ốm yếu gầy mòn chỉ còn da bọc xương, những chết chóc được chôn vùi hời hợt trong những nấm mộ hoang sơ, hiu hắt, hương tàn nhang lạnh.

GHPGVNTN đã ý thức được bổn phận, trách nhiệm của người con dân nước Việt, cùng góp phần giữ gìn đất nước của tiền nhân đã dày công xây dựng, bao công sức của các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần… đã nằm xuống bảo vệ quê hương, cho dù đó là một hải đảo nhỏ, một nhánh sông, một ngọn đồi, một dãy núi. Tất cả là của dân tộc Việt Nam, không ai có quyền làm mất đi tấc đất tấc vàng mồ hôi nước mắt của Cha Ông.

GHPGVNTN luôn đồng hành với dân tộc, đấu tranh, cảnh tỉnh những thế lực tham vọng, bá quyền nhằm đáp ứng nguyện vọng chung của quê hương đất nước thái hòa, dân tộc phồn vinh thịnh trị. Chính vì những đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc, mà thời nào các nhân sự của GHPGVNTN cũng bị đàn áp, vào tù ra khám, bị khảo tra bức hại, phải hy sinh thân mạng. Vậy mà vẫn có những người phê bình, đặt vấn đề sao Giáo Hội không lo tu hành, yên phận tụng kinh gõ mõ. Thưa rằng, GHPGVNTN mang lý tưởng hòa bình, mang hoài bão phụng sự nhân loại và dân tộc, đòi hỏi bình đẳng tôn giáo, xây dựng nền hòa bình công chính cho tất cả và trong tất cả những yếu tính trên: “GHPGVNTN không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.” Vì sự sống còn của con dân nước Việt, vì sự sinh tồn của Giáo Hội, đạo giáo mà có những Thánh tử đạo như Bồ Tát Thích Quảng Đức, của chư Tôn Đức Tăng Ni, của Phật tử GĐPT, của nữ sinh Phật tử Quách Thị Trang trong pháp nạn 1963, của Hòa Thượng Thiện Minh, Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Thanh Trí, Hòa Thượng Thiện Giải… của 12 Tăng Ni chùa Dược Sư Cần Thơ và nhiều Phật tử khác nữa sau năm 1975. Họ là những chiến sĩ vô danh góp phần viết nên dòng lịch sử dân tộc hào hùng.

V.   KẾT LUẬN

Nói đến lịch sử hành hoạt của GHPGVNTN là nói đến sứ mạng thừa tiếp dòng lịch sử 2000 năm qua của chư vị Lịch Đại Tổ Sư truyền nhiệm. Thừa tiếp để hành hoạt thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh trong tinh thần phụng sự tuy có lúc thành công, nhưng cũng có lúc nội bộ bị khủng hoảng. Cụ thể như sự ban hành Giáo Chỉ số 9, phủ nhận 4 Giáo Hội Thống Nhất ở Hải Ngoại. Đây là một quyết định sai lầm của người lãnh đạo, sự sai lầm này đã làm suy yếu tiềm năng của Giáo Hội trong nước. Tuy nhiên, chính nghĩa tồn tại nên bốn GHPGVNTN Hoa Kỳ, GHPGVNTN Âu Châu, GHPGVNTN Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan và GHPGVNTN Gia Nã Đại đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách để ngày càng lớn mạnh trong tinh thần tương kính, tương thuận để tiến tới sự thành lập Văn phòng Điều Hợp Liên Châu, cùng tổ chức các Phật sự hàng năm: An Cư Kiết Hạ, Đại Lễ Phật Đản chung, các Khóa Tu Học Phật Pháp của các Châu Lục, ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư đã được hanh thông, thành tựu viên mãn. Sự thành tựu này là nhờ khả tính thương yêu, tôn trọng, hiểu biết để cùng chia sẻ Phật sự của các Giáo Hội với nhau. Về mặt từ thiện xã hội, GHPGVNTN đã tích cực cứu trợ những nạn nhân thiên tai bão lụt, sóng thần, động đất ở các quốc gia Nam Dương, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Ấn Độ, Việt Nam… trong tinh thần tục ngữ ca dao Việt Nam: “Miếng khi đói bằng gói khi no” hay “Lá lành đùm lá rách”. Tuy vào lúc đó các Giáo Hội cũng đang gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn không quên bổn phận, trách nhiệm cứu khổ của mình.

Nhìn chung, lịch sử hành hoạt của GHPGVNTN có lúc trong sáng, tốt đẹp, có lúc nhạt nhòa khốn khó, nhưng rồi cũng qua đi như lời của nhà thơ Vũ Hoàng Chương:

“Trang sử Việt cũng là trang sử Phật

Trải bao độ hưng suy có nguy mà chẳng mất.”

 

GHPGVNTN sinh ra trên lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, một quê hương khiêm tốn trên bản đồ thế giới, nhưng cho đến hôm nay GHPGVNTN không những có mặt trên quê hương nơi chôn nhau cắt rốn mà đã hóa thân hiện hữu khắp năm châu bốn biển. Đây là điều kỳ diệu, Phật pháp nhiệm mầu.

Kính bạch chư Đại Tăng,

Kính thưa hội chúng,

Sơ lược vài nét lịch sử hành hoạt của GHPGVNTN nhân ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ 10 này, như là một cảm niệm để nhớ ơn và đền ơn trong muôn một kính dâng lên các bậc kỳ túc, thánh Tăng đã vì con đường hoằng dương Phật pháp, an sinh xã hộivui lòng phụng hiến thân mình cho đạo pháp trường tồn, nhân dân an lạc.

Thành kính đảnh lễ Đại Tăngtrân trọng kính cám ơn toàn thể quý Phật tử.

Ottawa, ngày 08 tháng 10 năm 2016

Tu Viện Phổ Đà Sơn

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10372)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9651)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23564)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11808)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10702)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10046)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28632)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21540)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29358)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11370)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12346)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26261)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30972)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25280)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22767)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13023)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21875)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12197)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14097)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12386)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11209)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10668)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 37990)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13650)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13431)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12315)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12556)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12029)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10707)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11181)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23329)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33137)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12765)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7373)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12158)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12562)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11978)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12819)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11910)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10645)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11325)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11607)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10824)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10755)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10338)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10429)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10675)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10602)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11878)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10659)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12715)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10782)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11360)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11068)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11600)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10481)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11223)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12270)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11109)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12468)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11396)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11488)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11269)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11552)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12965)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14138)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10976)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11833)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13131)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11520)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11385)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10900)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11254)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10788)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11030)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10856)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10223)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17071)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10981)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10842)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10387)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10727)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11354)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11037)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10536)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11339)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10316)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10604)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12727)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19203)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19629)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21215)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20259)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19703)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18985)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20408)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21018)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17877)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21759)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11339)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant