Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chánh Niệm - Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức

11 Tháng Mười 201705:07(Xem: 8899)
Chánh Niệm - Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức
CHÁNH NIỆM -
NGHỆ THUẬT SỐNG TỈNH THỨC 

Liên Trí


Chánh niệm - nghệ thuật sống tỉnh thức


Ngày nay, với xu hướng sống nhanh, sống vội và hầu hết chúng ta bị cuốn vào vòng xoáy xã hội, nhiều người kịp nhận ra sự mất cân bằng trầm trọng nơi con người mình và kịp thời trở về với việc chăm sóc đời sống tinh thầntâm linh
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người. Thiền chánh niệm được nhiều người tiếp nhậnthực hành vì tính phổ quát của phương pháp luyện tâm này. Không luận là xuất gia hay tại gia, chẳng kể là người theo Phật giáo hay tôn giáo khác, thậm chí không theo tôn giáo nào, ai cũng có thể thực hành thiền chánh niệm

Thế nhưng, trước khi bàn đến vấn đề thực hành thiền chánh niệm, chúng ta cần nhìn lại những hoạt động thường ngày của mình và chấp nhận rằng, nếu không được rèn luyện kỹ năng sống chánh niệm, trong hầu hết thời gian, ta sống trong thất niệm.

Thất niệm: bệnh của số đông

Đi đến chùa trong những ngày lễ hội, để dép bên ngoài chánh điện, vào lễ Phật, khi đi ra, mang lộn dép người khác về nhà. Điều này không ai muốn, cho dù đôi dép mình mất đi có thể cũ hơn, xấu hơn, nhưng ta không bằng lòng với mình và tự trách, sao mà chểnh mảng thế. Thường thì đồ vật nào gắn bó với mình lâu dài thì ta gắn vào đó cái tình và không muốn xa rời nó. 

Trường hợp đôi dép này cũng vậy; từ thất niệm, ta đi đến bất an, thậm chí bất an nhiều ngày sau đó. Để lạc chìa khóa và đỏ mắt đi tìm vẫn không thấy đâu, khi mệt quá, muốn hoa mắt thì thấy nó ở ngay trên bàn, mà do dọn dẹp, ta xới tung lên, từ chỗ tương đối ngăn nắp giờ trở nên bề bộn, che lấp xâu chìa khóa là vật chúng ta cần tìm. 

Có khi tệ hơn là kêu thợ mở khóa đến hoặc tự mình đập phá một vài ổ khóa rồi mới tìm thấy xâu chìa khóa. Lòng bắt đầu bực bội, ta không hài lòng, bất an với chính mình vì thất niệm. Có khi tay đang nắm cây viết mà cứ loay hoay tìm cây viết. Có người kéo gọng kính, gác công cụ hỗ trợ đôi mắt lên đầu, gọng kính vẫn an tọa ở vành tai, mà cứ đi tìm đôi kính ở đâu. Tìm hoài không ra, bí quá, hỏi người nhà có thấy đôi kính đâu thì họ cười chỉ ngay trên đầu mình. Ta cười chữa ngượng nhưng trong lòng thật bực, tự trách mình sao mà thân một nơi, tâm một ngả như thế!

câu chuyện này có vẻ tiếu lâm mà có thật, chính tôi được nghe. Một cô nọ kể rằng, chuyện xảy ra trên một chuyến máy bay nội địa và cô nhớ suốt đến giờ. Hôm đó, cô đi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Trên chuyến bay, cô tiếp viên phục vụ mỗi hành khách một hộp chứa ba chiếc bánh mì tròn. Phần mình, cô ta nhanh tay cất vào giỏ, trong khi người đàn ông ngồi bên cạnh thì đặt hộp bánh trên bàn ăn trước mặt ông ta. 

Ngồi một lát, cô ta bất giác đưa tay lấy hộp bánh của ông hành khách ngồi bên cạnh và mở ra ăn tỉnh bơ trước sự chứng kiến đến ngạc nhiên của ông này. Ông trố mắt nhìn cô cứ xé từng mẩu bánh mì bỏ vào miệng. Cô nghĩ thầm, cái ông này sao mất lịch sự quá đi, người ta ăn mà cứ dòm miệng. Thích ăn thì lấy phần mình ăn, sao cứ vô duyên dòm mình ăn khó chịu quá. Lại là người khác phái nữa chứ… Nghĩ thì nghĩ, ăn vẫn cứ ăn, cô ta lần lượt ăn hết ba chiếc bánh mì. Đến khi tiếp viên thông báo máy bay sắp hạ cánh, cô sửa soạn hành lý để chuẩn bị xuống máy bay. Đưa tay vào chiếc giỏ mang theo bên mình để sắp xếp lại vài vật dụng cá nhân, cô giật thót mình khi phát hiện hộp đựng bánh mì nằm gọn ghẽ trong giỏ của mình. Tâm trạng lẫn lộn nhiều cảm xúc đan xen: lúng túng, xấu hổ và tự trách. Giờ cô mới hiểu được ánh mắt mở to ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào cô lúc nãy. 

Thì ra, do thất niệm, cô đã ăn phần bánh của ông hành khách ngồi bên cạnh. Cô cúi đầu xấu hổ, nhưng đành quẳng cục “lơ” chứ không thể mở lời xin lỗi. Quá mắc cỡ, khi đi ra cửa máy bay, ông khách ngồi bên bước ra trước, cô cố tình nán lại nhường nhiều người bước tiếp để lảng tránh ánh nhìn của ông ấy. Thật là một bài học nhớ đời về sự thất niệm.

Thất niệmgiao phó sự bình anhoàn cảnh sống của mình cho người khác để rồi bất an, bực bội, xấu hổ... Điều này không ai muốn, nhưng mấy ai trong chúng ta không có những trải nghiệm về sự thất niệm của mình mà vài ví dụ vừa nêu là những điển hình.

Chánh niệm có khó không?

Chánh niệm là sự tỉnh giác, là sự chú tâm đến những gì đang xảy ra nơi ta trong giây phút hiện tại, một cách vô tư không phê phán hoặc so sánh. Chánh niệm là không bị mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cố gắng lẩn tránh những trạng thái tâm không tốt, cũng không đeo bám theo sự dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó chịu. 

Chánh niệm nhắc cho chúng ta cần chú tâm đến những hoạt động đang làm và ghi nhận phản ứng của tâm mình trong thời điểm đó. Trong tu thiền, bạn đặt sự chú tâm của mình vào một đối tượng nào đó, thiết thân nhất là chọn hơi thở làm đề mục chú tâm. Chú tâm đơn thuần là đang nhận biết luồng hơi đi vào cơ thể, luồng hơi đi ra khỏi cơ thế. 

Thế nhưng chú tâm một cách trọn vẹn vào đối tượng không hề dễ dàng đối với người mới thực hành, vì tâm ưa duyên theo các ý tưởng khác đi lang bạt kỳ hồ trong thế giới tâm tưởng. Khi tâm bị trôi giạt khỏi điểm tựa này, thì người tu chánh niệm cần nhắc nhở rằng, tâm của bạn đang lang thang và những gì bạn cần nên làm vào lúc này là đem tâm của bạn về lại với đề mục

Chánh niệm, sự chú tâm đơn thuần trên đối tượng và khi không duy trì được sự chú tâm trên đối tượng thì cũng phải nhận biết tâm đã vắng mặt và đi rong.Ngay lúc mất chú tâm, hành giả phải kịp thời phát huy chức năng nhắc nhở rằng chúng ta đang bị mất tập trung vào đối tượng và nhờ chánh niệm tái lập chính nó. Ngay khi bạn nhận biết mình không còn có sự chú tâm, thì sự chú tâm trở lại với bạn ngay lập tức.

Sự chú tâm trên đối tượng trong quá trình thực hành thiền rất khó, nhất là người mới bắt đầu. Thứ nhất, việc này khó vì bình thường, con người quen sống với tâm lăng xăng trong các mối quan hệ xã hội, lăng xăng với các công việc thường ngày, nếu không tập luyện, không thể nào có khả năng chú tâm trong một thời gian lâu vào một đối tượng thiền quán. Thứ hai, trong cảnh động, tâm bận rộn lăng xăng, ta không có cơ hội ngồi “nhìn” tâm mình để thấy nó lăng xăng cỡ nào. Trong không gian yên tĩnh, trong tư thế ngồi tĩnh lặng, tâm không bị chi phối vào các hoạt động thô thiển thường ngày, ta mới thấy tâm ta chao đảo, lăng xăng như một nồi súp đang sôi trên bếp! 

Chỉ khi ngồi thiền trong yên lặng, các ý tưởng không mong đợi xô nhau ùa về, khởi lên trên bề mặt ý thức. Những ý tưởng qua rồi như những chiếc lá rụng nằm sắp lớp ngổn ngang trong hồ nước tâm thức, nay có dịp, từng lớp, từng lớp trỗi lên. 

Các thiền sư ví cái tâm chưa thuần của chúng ta như con chó con, đi tí là đứng lại ngửi ngửi, đưa mõ ngửi chỗ này, chạy đến ngửi chỗ kia, không lúc nào yên. Tôi dí dỏm nghĩ mình chẳng khác gì… trâu bò! Như bò, trâu sau khi về chuồng, rảnh rồi nằm nhai lại khi màn đêm buông xuống, con người “nhai” lại ý tưởng trong những lúc ngồi hành thiền, vì lúc này “rảnh” tay chân, không bận rộn với các công việc lăng xăng bên ngoài. Cũng như tên các tập tin còn lưu ảo trên thanh công cụ của máy tính sau khi đóng tập tin.

Hiểu điều này, ta không nản hoặc tự ti khi thấy sự hành thiền của mình không đưa đến kết quả mong muốn. Ta muốn chú tâm vào hơi thở, tâm vẫn cứ mặc tình rong chơi. Dù mình không hề muốn, nó nghĩ về tương lai vẫn còn mờ mịt xa, rồi nhớ việc này, hồi tưởng việc kia, ngay cả những việc đã qua từ lâu lắm. Đừng nản lòng, cứ chú tâm vào đối tượng đã chọn để thực hành

Có vị giảng sư nói vui rằng, giữ thân đâu tâm đó khi hành thiền là duy trì đời sống hòa hợp giữa thân và tâm mà không để chúng ly dị nhau. Lòng kiên nhẫn của ta gặp nhiều thử thách trong giai đoạn khởi đầu này. Những ai vượt qua được những khó khăn đặc trưng trong chặng đầu này mới có thể đi tiếp trên con đường thực tập. Kiên trì là một người bạn quý lúc này.

Khi tâm rời đối tượng, cần chánh niệm nhận ra ngay điều này, kéo tâm trở về với đối tượng. Cứ kiên trì như thế, trong vòng 30 phút ngồi thực tập hơi thở, nếu tâm đi chơi 100 lần, thì phải 100 lần đem tâm về với hơi thở. Nếu tâm trượt khỏi đối tượng mà lén đi chơi 1.000 lần, thì  vẫn phải 1.000 lần nhẹ nhàng đem tâm về. Cứ hình dung ta đưa một con trâu chưa thuần ra ruộng cày. Nó không muốn nỗ lực đi theo đường cày mà chướng khí chạy lên bờ, ta phải đưa nó về đường cày đang kéo dở. Nó lại chống đối kéo đi nơi khác, ta cứ thế đưa nó về đường cày đang đi. Vậy đủ biết chú tâm trên đối tượng thiền quán là rất khó, đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trìquyết tâm rất cao từ người thực hành

Đừng ảo tưởng bắt chân ngồi xuống, thân ta yên là tâm theo đó liền yên và có chánh niệm ngay đâu. Pháp mầu không đến như vậy mà đây là cả một hành trình xuyên suốt thời gian, đòi hỏi ý chínghị lực mà không phải ai cũng làm được. Người biết thực hành thiền đã ít, người nỗ lực để giữ chánh niệm trong mỗi thời ngồi thiền lại càng ít hơn; và hiếm hoi hơn nữa, như vài vì sao lác đác trên bầu trời rạng sáng là người có thể duy trì thời khóa hành thiền chánh niệm hàng ngày trong cuộc sống của mình.

Duy trì chánh niệm

Chánh niệm được thực hành hiệu quả nhất trong môi trường yên tĩnh để không bị sự chi phối của môi trường bên ngoài. Thêm vào đó, sự thực hành đem lại kết quả nhiều nhất khi hành giả trong tư thế ngồi, vì với tư thế này, các hoạt động thô của tay, chân và các giác quan được hạn chế đến mức tối đa, nhờ đó, hành giả dễ dàng tập trung vào đối tượng cần chú tâmghi nhận các cảm thọ sinh khởi. Điều này không có nghĩa suốt ngày ta ngồi trên bồ-đoàn trong căn phòng yên tĩnh để thực hành thiền chánh niệm, điều này không thể đối với một con người bình thường

Ngược lại, nếu thực hành thiền chánh niệm chỉ khi nào ngồi trên bồ-đoàn, ngoài ra, khi ta trở về với cuộc sống xô bồ thường ngày không chánh niệm nữa thì đâu lại vào đó, không có tác dụng gì cả. Nên lưu tâm rằng, mỗi ngày chúng ta thực hành ở tư thế ngồi - tư thế thực hành phổ biến nhất - là để thuần thục kỹ năng thực hành sự chánh niệm, tỉnh thứcáp dụng kỹ năng này vào tất cả hoạt động của mình trong mọi lúc, mọi nơi, thông qua các tình huống cuộc sống.

Các em học sinh học môn đạo đức, giáo dục công dân là để biết và thuần thục nếp sống đạo đức để ứng xử có đạo đứcvăn hóa với tất cả mọi người, trong mọi lúc, mọi nơi chứ không phải vào lớp học môn này mới thể hiện đạo đức. Ta học môn toán là để có kỹ năng nhằm ứng dụng các phép tính vào trong thực tế sinh động để góp phần giải quyết vấn đề cuộc sống cho con người. Ta luyện nói một ngôn ngữ nước ngoài nào đó trong phòng lab nhằm có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ ấy trong cuộc sống đời thường để giao tiếp, truyền đạt thông tin chứ không phải ra khỏi phòng lab là thôi. 

Những thành công trong phòng thí nghiệm hóa học, sinh học, vật lý… phải được đem ra ứng dụng trong cuộc sống đời thường, giải quyết những vấn đề thường ngày của con người thì sự thành công kia mới thực sự có ý nghĩa. Thiền chánh niệm cũng như vậy, nó chỉ có giá trị khi trở thành chất liệu sống của hành giả.

Kỹ thuật và nghệ thuật chú tâm, theo dõi cảm thọ và những phản ứng của thân cũng như tâm có được trong những lúc ngồi thiền là chất liệu để nuôi sống chánh niệm của chúng ta trong những tình huống, môi trường sinh hoạt khác. Giữ chánh niệm trong môi trường bình thường quả là một điều khó khăn, vì cuộc sống đời thường với bao âm thanh, sắc màu, các mối quan hệ con người, công việc trách nhiệm cần chu toàn… nên tâm ta bị lôi bên này, kéo bên kia. Điều này chẳng khác nào một cỗ xe cột vào cổ của năm, sáu con vật, mạnh con nào, con nấy kéo cỗ xe đi về hướng mình muốn. 

Hơn nữa, thời gian ta chọn môi trường yên tĩnh để thực hành thiền trong tư thế ngồi chỉ có 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ, còn 23 tiếng hoặc nhiều hơn nữa trong một ngày ta sống với môi trường động, thì việc duy trì chánh niệm trong hiện tại là một điều vô cùng khó khăn. Thế nhưng, khó không có nghĩa là không thể. Ta vẫn có thể thực hành trên các hoạt động thường ngày với thời gian chánh niệm ngày càng nhiều, với chất lượng ngày càng cao nếu ta chăm rèn kỹ năng này trong những thời ngồi thiền thường xuyên trong ngày. Mức độ chánh niệm trên các hoạt động thường ngày của một hành giả cho ta biết hiệu quả, nội lực, kỹ năng và kỹ thuật thực hành thiền của người ấy trong các giờ ngồi thiền cố định.

Chánh niệm ngay cả khi rời bồ-đoàn

Nhiều người phấn khởi chia sẻ, độ rày tôi thực hành thiền chánh niệm tốt lắm, tâm yên lắm, chú tâm dễ dàng trên hơi thở. Thời gian ngồi cũng tăng lên, lúc đầu ngồi được 20 phút mà giờ ngồi 45 phút mà chân không đau tê… Khi nói như vậy, người ấy mặc nhiên xem việc thực hành thiền là thời khóa ngồi thiền cố định của mình.Như vậy, ngoài giờ này ra, bộ chúng ta không “thực hành thiền” sao? Đức Phật, vị thầy dạy phương pháp thiền định dạy các đệ tử của Ngài, được ghi lại trong kinh sách rằng, chánh niệm cần duy trì ở mọi lúc, ban ngày, ban đêm, canh đầu, canh giữa, canh cuối”(Trung bộ kinh, số 53: kinh Hữu học; số 125: Điều ngự địa)

Không những vậy, trong rất nhiều bài kinh, Đức Phật dạy cần duy trì chánh niệm trong tất cả các tư thế, hành vi, động tác của con người. Cụ thể, chúng ta cần thực hành “khi đi tới, khi đi lui, tôi đều tỉnh giác. Khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh, tôi đều tỉnh giác. Khi co tay, khi duỗi tay, tôi đều tỉnh giác. Khi mang y kép, y bát, tôi đều tỉnh giác. Khi ăn, uống, nhai, nuốt, tôi đều tỉnh giác. Khi đi đại tiện, tiểu tiện, tôi đều tỉnh giác. Khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng, tôi đều tỉnh giác”(Trung bộ kinh, số 27: Tiểu kinh dấu chân voi; kinh số38; Đại kinh Đoạn tận ái, kinh số 39; Đại kinh Xóm ngựa, kinh số 51; Kandaraka, kinh số 107; Ganaka Moggallana, kinh số 112; kinh Sáu thanh tịnh, kinh số 125;kinh Điều ngự địa, Tăng chi bộ kinh, chương Bốn pháp, phẩm XX, kinh số 198; chương Mười pháp, phẩm X, kinh số 99).

Như vậy, thực hành chánh niệm không chỉ trong lúc hành thiền cố định với khoảng thời gian nhất định trong ngày, mà ứng dụng sự chú tâm, tỉnh giác trong cuộc sống hàng ngày là điều rất cần thiết. Nếu khôngchánh niệm ngoài giờ hành thiền, thì cũng không thể có chánh niệm trong lúc hành thiền, vì chúng đi đôi và hỗ trợ nhau. 

Hơn nữa, chánh niệm là một kỹ năng, nên càng thực hành, càng nhuần nhuyễn, càng điêu luyện và ít hao tốn năng lượng để phải gồng mình, cố gắng mà nó dần biến thành một nếp sống, một phản xạ vô điều kiện, tự nhiên như hơi thở của mình. Nếu khi đang hành thiền, ta chọn đối tượng chú tâmhơi thở, thì trong sinh hoạt hàng ngày, chú tâm vào mỗi hành động đang làm mà tạm “quên” đi việc chú tâm vào hơi thở là cách thực hành thiền chánh niệm trong đời sống bình thường. Khi nghỉ ngơi hay chờ đợi, thay vì để tâm nhảy lui về quá khứ hay mơ màng viển vông nghĩ tưởng tương lai, ta chú tâm vào hơi thở. Nếu biết thực hành như vậy, sự chờ đợi qua đi nhẹ nhàng, ta lại không bỏ phí thời gian

Ví dụ khi đang đi ngoài đường, người thực hành chánh niệm tỉnh giác biết tuân thủ luật giao thông, chú tâm và làm chủ phương tiện mình đang điều khiển, chú tâm quan sát những người cùng tham gia giao thông di chuyển gần mình, quan sát đường đi và lường những tình huống có thể xảy ra để kịp thời xử lý. Khi gặp đèn đỏ, người chánh niệm biết dừng đúng vạch, điềm tĩnh hít thở trong chánh niệm, chứ không tỏ vẻ nôn nóng, sốt ruột, chen lấn để càn lướt vượt lên. Cứ như vậy, chánh niệm càng nhiều, ta càng tỉnh giác, khả năng làm chủ cảm xúc của mình càng cao. Nhờ đó, chúng ta nhìn nhận vấn đề xuyên suốt, khách quan, có nhiều phán đoán chính xác, quyết định đúng đắn, phản ứng hợp lý trước sự tác động của môi trường xung quanh.

Chánh niệm là chìa khóa của tâm bình an thật sự mà chỉ những ai thực hành mới cảm nhận hết sự nhiệm mầu của phương pháp thiền này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13949)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54946)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9056)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14078)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14117)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13806)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36145)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18093)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19098)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19038)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20186)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17544)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15846)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14892)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14606)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46041)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35792)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20947)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21468)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23245)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34162)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19402)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18817)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22821)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20078)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18264)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19734)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19452)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33299)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34299)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37542)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21037)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17791)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63446)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17273)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27232)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20166)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22894)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18808)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16247)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17786)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15920)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14300)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15294)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12585)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13272)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27306)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12421)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13110)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16126)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12125)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21500)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11202)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22572)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14937)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46039)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14369)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12517)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18794)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43693)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56800)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13758)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47335)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13563)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14459)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33164)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38243)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15322)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40203)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43240)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46466)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant