Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Một: Giới Thiệu Và Các Chuẩn Bị

06 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9773)
Phần Một: Giới Thiệu Và Các Chuẩn Bị

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN

Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo

Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank
PHẦN MỘT
GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ

LỜI MỞ ĐẦU: ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY

Dường như hầu hết chúng ta đều đặt tâm mình lên việc đạt Phật quả và nghĩ, “Tôi đang trở thành một vị Phật.” Nhưng, điều đó là về cái gì? Tại sao bạn muốn trở thành một vị Phật? Có phải bạn bị thôi thúc bởi một động cơ yêu nước không? Hay nó là điều gì đó cho chính bạn? Nếu cho chính bạn, vậy việc trở thành một vị Phật theo cách nào thì lợi ích cho bạn? Chúng ta muốn trở thành Phật vì đang lang thang trong chu trình sinh tử này, trong samsara (luân hồi). Nhưng samsara là gì? Một số người nói, “Ồ, sống ở San Francisco thật là chậm chạp, lề mề.” Hoặc người ta nói, “Thế à, thậm chí sống ở Los Angeles còn tệ hơn.” Và người khác nói, “Thế đấy, càng tồi tệ hơn nếu sống ở New York.” Có phải điều này là nói về “lang thang trong samsara” hay không? Đi từ thành phố này đến thành phố khác? Không, điều đó không phải là vấn đề chính.

Samsara, chu trình sinh tử này, ám chỉ sáu loại chúng sanh hiện hữu từ cõi địa ngục suốt đến deva, hay thiên đường. Khi lang thang trong các cõi này, chúng ta là chủ thể cho sáu loại hiện hữu, mỗi thứ đều có dạng đau khổ đặc biệt. Nếu đạt Phật quả hay toàn giác, chúng ta đạt giải thoát khỏi tất cả cõi này. Nếu đạt được hạnh phúc tạm thời, chúng ta có được thân người hoặc chư thiên. Còn về hạnh phúc vĩnh cửu hay tối thượng, đây là sự đạt được giác ngộ tự thân. Nhờ đạt được điều đó, chúng ta có được tự do đích thực. Hãy hỏi chính bạn, “Tôi có thật sự được giải thoát ngay bây giờ không?” tôi không có và tôi nghĩ rằng bạn cũng không có. Để đạt được tự do đích thực, chúng ta phải cố gắng giác ngộ.

Giáo lý sau đây là một giảng dạy sâu rộng về mỗi một trong sáu tiến trình chuyển tiếp hay bardo, xây dựng nên kinh nghiệm của chúng ta trong samsara. Giáo lý này đặt nền tảng trên bản văn nguyên thủy của Đức Padmasambhava được gọi là Giáo Pháp Thâm Sâu Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ. Thuật ngữ giải thoát tự nhiên cũng có thể dịch là tự-giải thoát, nó là điều gì đó xảy ra một cách tự động, tự phát, hay tự nhiên. Trong bản văn thâm sâu này, Đức Padmasambhava dạy chúng ta làm thế nào để đạt được loại giải thoát tự nhiên này trong sáu tiến trình chuyển tiếp mà nó tự cấu tạo trong samsara.

Tuy nhiên, trước khi chúng ta có thể áp dụng các thực hành này, điều cần thiết là phải nhận ra sự đau khổ của samsara. Mỗi cõi sinh tử đều có dạng đau khổ đặc biệt cần được nhận ra. Sự đau khổ của deva, hay cõi thiên là sự lo lắng xảy ra trong trạng thái đề phòng cái chết. Vì, khi cái chết đến gần, chư thiên là chủ thể chịu đau khổ to lớn do họ có thể thấy nơi sinh kế tiếp của họ, sẽ tái sanh vào cõi thấp hơn. Sự đau khổ của asuras hay bán thiên là xung độtgây hấn. Với cõi người, chúng ta là chủ thể đặc biệt chịu đau khổ của sinh, lão, bệnh, và tử. Với súc vật, đó là sự ngu đần và trì độn. Với pretas, hay tinh linh (ngạ quỷ), đó là sự đau khổ của đói và khát. Cuối cùng với cư dân ở địa ngục, đó là sự đau khổ của cực nóng và cực lạnh. Trong bối cảnh nhận ra các loại đau khổ khác nhau trong sinh tử, chúng ta cũng phải nhận ra rằng giờ đây ta có cuộc sống con người với nhàn rỗithuận lợi. Nói khác đi, có nghĩa giờ đây chúng ta có một thân người, mà cũng bao gồm sự kiện chúng ta đã gặp được một hay nhiều vị thầy tâm linh của Đại Thừa có thể dẫn dắt chúng ta đến giác ngộ; và có được Giáo Pháp trình bày cho chúng ta con đường để đạt giác ngộ trong chính kiếp này.

Nhận ra sự khó đạt được một cuộc sống con người với sự nhàn rỗithuận lợi, cũng như nhận ra ý nghĩa to lớn của cuộc sống con người như vậy, chúng ta cần theo đuổi ý định này khi thấy được sự ngắn ngủi của việc tái sanh làm người quý báu này mà hiện tại chúng ta có được. Khi nói về các loại đau khổ của sáu cõi hiện hữuchúng ta là chủ thể, chúng ta có thể hỏi, “Chúng ta kinh nghiệm những đau khổ như vậy trong kiếp người hay trong kiếp khác ở địa ngục, v.v.. ra sao? Tại sao chúng ta bị đau khổ trong cách này? Chúng ta có bị trừng phạt bởi người nào đó hay không? Nó có tương tự như sự tàn ác của chế độ Cộng Sản Trung Quốc chống lại Tây Tạng? Nó có giống như vậy không? Hoặc nó giống như chính quyền Hợp Chủng Quốc về mặt tàn ác chống lại người Mỹ Bản Xứ? Có phải như vậy không? Chúng ta có bị trừng phạt tương tự như cách của người Tây Tạng và người Mỹ Bản Xứ đang bị trừng phạt? Câu trả lời là, “Không, hoàn toàn không phải vậy.”

Chúng ta phải chịu đựng như thế nào? Chúng ta đau khổ qua sự tham gia trong hành động bất thiện. Đau khổ là kết quả tự nhiên của hành động bất thiện. Về mặt tương quan giữa việc làmhậu quả của nó được gọi là luật nhân quả, kết quả của hành động bất thiệnđau khổ, và kết quả của đạo đứchạnh phúc. Do vậy, chính chúng ta là người trừng phạt chính mình. Chính chúng ta phải chịu sự trừng phạt vì hành động của chúng ta. chúng ta đang kinh nghiệm kết quả tự nhiên của hành động mình. Không có tác nhân bên ngoài trừng phạt hay khen thưởng chúng ta. Tất cả các bạn nghĩ sao?

Liên quan đến hoàn cảnh giữa người Tây Tạng và chế độ Cộng Sản Trung Quốc, người Tây Tạng trong những kiếp trước của họ nếu không vi phạm các hành động bất thiện nào đó, thì họ sẽ không bị kinh nghiệm đau khổ mà chính quyền Trung Quốc bắt phải chịu. Không có bất thiện, thì không có đau khổ kế tiếp. Tương tự, với người Mỹ Bản Xứ, khi những người da trắng nhập cư bất hợp pháp đến từ nước Anh, Pháp, v.v.. tiếp quản và phạm mọi hành động hung bạo lên người Mỹ Bản Xứ ở đây, nếu những người Mỹ Bản Xứ này không phạm các hành vi bất thiện trong các kiếp trước của họ thì họ sẽ không bị kinh nghiệm đau khổ áp đặt lên họ bởi những người nhập cư đến từ Châu Âu. Nếu bạn tin vào nghiệp, thì đó là vấn đề. Nếu không tin vào nghiệp, thì mọi thứ đều trôi qua.

Về mối liên hệ giữa hành vihậu quả của nó, không có cái gì bị tiêu mất. Không hành động nào – lành mạnh hay không lành mạnh, đạo đức hay phi đạo đức – mà không có hậu quả của nó. Trong hoàn cảnh hiện tại, rất dễ suy nghĩ rằng chúng ta có thể tránh khỏi nhiều điều và hành động bất thiện của chúng tavô nghĩachúng ta không bị kinh nghiệm những hậu quả của nó. Trong thực tế, đây là một sai lầm. Chẳng hạn, nếu người Mỹ Bản Xứ không gây tổn hại lên chúng sanh khác trong các kiếp trước, thì chính họ sẽ không bị kinh nghiệm đau khổ. Điều này cũng tương tự cho người Tây Tạng. Tự thân toàn bộ chu trình sẽ kéo dài mãi mãi. Khi người Châu Âu da trắng xâm chiếm và gây ra đau khổ to lớn cho người Mỹ Bản Xứ, họ phạm những hành động hết sức bất thiện thì họ sẽ kinh nghiệm hậu quả trong những kiếp tương lai, thậm chí có thể ngay bây giờ. Trong cách này, chu trình hiện hữuvĩnh cửu, và nó là lý do Đức Guru Rinpoche đã nói, “ Dù cái thấy của Ta bao la như hư không, khi bản chất của hành động và hậu quả của nó xảy đến, Ta rất tỉ mỉ kỹ tính giống như tinh bột của lúa mạch.” Nếu lơ là trong việc làm như vậy, thì chúng ta không phải Phật tử, hoặc ít nhất thì rất khó để vừa là Phật tử và vừa cư xử một cách tắc trách.

Tôi được thỉnh cầu ban các giáo lý này. Khẩn cầu các giáo lý như vậy thật là tốt, và rất tốt cho bạn áp dụng giáo lý này vào thực hành. Nó rất tốt cho bạn để có được tri kiến về những lý thuyếtthực hành này, nhưng bạn cũng nên nhớ mục tiêu của tất cả điều này là gì. Mục đích của tri kiến là gì? Mục đích của thực hành là gì? Nếu thật sự thực hành đầy đủ trong cuộc đời bạn là tám mối quan tâm thế gian, thì trong thực tế bạn sẽ không trên con đường dẫn đến trí tuệ. [6] Nó sẽ không dẫn đến sự uyên bác hoặc trở thành một hành giả. Nếu trong thực tế, bạn chỉ thực hiện tám mối quan tâm thế gian, thì bạn không khác với các chính trị gia ở Mỹ và khắp thế giới. Họ cũng học hỏi rất nhiều. Họ rất thông minh, rất trí thức, và thực hành nhiều; nhưng những gì họ thực hành chỉ là tám mối quan tâm thế gian, và bạn trở nên không khác với họ. Trong việc học và thực hành tám mối quan tâm thế gian, chúng ta phải thực sự nhìn vào bên trong mình. Chúng ta phải tự biết mình và có được tri kiến này qua việc tự xem xét nội tâm. Về mặt lắng nghe, suy nghĩ, và thiền định, chúng ta phải kiểm tra để chắc chắc thực hành của chính mình là trong sạch. Thật vô ích khi dùng ngón tay mình chỉ vào người khác và nói, “Ồ, hãy nhìn xem người đó bị đi lạc ra sao, và người này đang dính mắc vào tám mối quan tâm thế gian.” Không có quan điểm trong đó, và, dĩ nhiên, phản ứng chúng ta nhận được từ người này khi làm điều đó là, “Hãy để tôi yên” hoặc, “Hãy lo việc của bạn đi”. Để học điều này, chúng ta phải học về chính mình. Hãy để người khác một mình, đừng dính vào họ.

Trong số các hành giả Tây Tạng của đạo Phật hay trong số các Phật tử trên khắp thế giới, có nhiều người mà trong thực tế lại dính líu rất nhiều vào tám mối quan tâm thế gian. Cho đến khi việc thực hành tâm linh chúng ta bị pha trộn và nhiễm độc bởi tám mối quan tâm thế gian, thì điều này giống như rót thuốc độc vào Trung Đạo. Để cho thực hành tâm linh chính mình bị pha trộn và nhiễm độc, tri thức chúng ta đạt được của Giáo Pháp trở thành lãng phí; và nỗ lực to lớn áp dụng trong thực hành Pháp cũng trở nên vô ích. Vì lý do này, hãy xem xét cẩn thận điều này. Hãy kiểm tra sự hiểu biếtthực hành của chính bạn để thấy rằng nó thoát khỏi tám mối quan tâm thế gian này.

ĐỘNG CƠ

Bất cứ loại thực hành nào chúng ta dấn thân vào – nghe, suy nghĩ, hay thiền địnhchúng ta cần động cơ đúng đắn. Loại động cơ gì? Nếu xem xét lại cuộc sống chúng ta từ lúc rất sớm, từ thuở thơ ấu đến nay, và xem lại hành động về thân, khẩu, và ý của mình, chúng ta có thể tự hỏi, “Làm những hành động như vậy có giá trị gì? Chúng có bất cứ lợi ích nào không?” Chúng có thể không lợi ích, hoặc có thể có một số lợi ích thế gian. Nhưng trong lúc sinh ra một phần nhỏ lợi ích thế gian, các hành động này chỉ thực sự làm chúng ta lang thang mãi mãi trong luân hồi. Tuy nhiên, về mặt hành động như nguyên nhân cho việc chúng ta thành tựu hai thân Phật [7] – Rupakaya (Sắc Thân) vì lợi ích của người khác, và Dharmakaya (Pháp Thân) cho lợi ích chính chúng ta – dường như rất có khả năng rằng các hoạt động này cho đến giờ vẫn chẳng làm được gì.

Tại sao điều này có ý nghĩa? Vì tất cả chúng ta dù muốn hay không, đều phải chết, đây là định mạng của chúng ta; và trên hết là chúng ta chẳng kiểm soát được. Chúng ta không thể kiểm soát được mình sẽ chết ra sao. Tôi hoàn toàn cam đoan rằng tôi cũng không có được sự kiểm soát như vậy. Tôi không kiểm soát được vào lúc chết, và tôi nghi ngờ về việc bạn sẽ có khả năng kiểm soát. Tôi đưa ra kết luận này dựa trên cơ sở gì? Hãy nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Về việc mà chúng ta có bất cứ sự kiểm soát nào trên ba độc; bám luyến, thù hận, và ảo tưởng hay không? Có phải ba độc này thống trị hành động của chúng ta từ ngày này sang ngày khác? Thậm chí nếu chúng ta có một số kiểm soát trên tâm thứchoạt động của mình vào ban ngày, thì vào ban đêm chúng takiểm soát gì trong trạng thái mộng? Chúng ta thực sự hoàn toàn có bất cứ sự kiểm soát nào không? Nếu không kiểm soát được vào ban ngày và ban đêm, thì trên nền tảng gì chúng ta có thể tưởng tượng rằng mình có một số kiểm soát khi cuộc sống này kết thúc và lúc chúng ta lang thang trong trạng thái bardo? Điều này là đúng cho tất cả chúng ta. Chúng ta đều không có kiểm soát như nhau. Chúng ta không có bất kỳ loại tự quản nào trên cuộc sống mình, và có nhiều minh họa về điều này mà chúng ta có thể thấy chung quanh mình trong xã hội con người. Chẳng hạn, người ta vẫn hút thuốc lá dù biết rằng nó dẫn đến ung thư phổi cũng như rất nhiều dạng bệnh tật khác. Bạn bè và người thân của họ có thể van nài, “Xin hãy ngưng hút thuốc, chúng tôi muốn bạn sống lâu,” và thậm chí có thể họ muốn ngừng, nhưng họ vẫn không kiểm soát được. Trong cách tương tự, chúng ta có thể bị nghiện rượu, và người ta nói, “Ồ, xin hãy ngưng uống. Nó rất hại.” Có thể ta cũng muốn ngưng, nhưng không có năng lực quyết tâm và cũng không có sự kiểm soát.

Nói gần hơn một chút về Giáo Pháp, chúng ta thấy rằng nhiều người nói, “Ồ, tôi đang thực hành Pháp.” Tuy nhiên khi đi thẳng vào cụ thể, chúng ta không thực hành Pháp. Chúng ta chỉ nói về thực hành Pháp khi hoàn cảnh tương lai thích hợp hơn, mà trong khi chờ đợi, chúng ta hết sức bận rộn. Tôi không buộc tội bạn, tôi cảm thấy bản thân tôi cũng trong hoàn cảnh tương tự. Ngoài điều này, tôi có những học trò mà tôi đã nghe khoảng hơn hai mươi năm trước, họ nói, “Vậy thì, điều trước hết là tôi đạt được hoàn cảnh tài chính vững chắc. Tôi kiếm tiền và rồi tôi có thể làm các việc khác.” Nhiều thập niên đã trôi qua, và tôi nhìn lại những người đó. Nhìn chung họ đều trong hoàn cảnh như trước. Họ không đạt được vững chắc về tài chính mà họ tìm kiếm. Những gì họ làm trong lúc chờ đợi là tích lũy nhiều việc làm bất thiện.

Các chủ đề này xứng đáng cho chúng ta xem xét kỹ lưỡng. Ta nên nghe và suy nghĩ về chúngï. Trong lúc biết điều này và có được một số hiểu biết về sự phân biệt giữa thiện và bất thiện, nếu chúng ta dấn thân vào điều bất thiện – biết rằng nó sẽ có hại cho chính bạn và người khác – điều này giống như nhận ra rằng bạn có một ly thuốc độc mà vẫn uống nó. Tình hình đúng như vậy. Đó là, từ lúc này đến lúc khác khi chúng ta dấn thân vào các hoạt động bị ba độc hay năm độc[8] thống trị, thì những hoạt động này dẫn dắt đến chu trình sinh tử bất diệt của chính chúng ta.

Các vị thầy tâm linh vĩ đại của quá khứ đã ra đi. Sự vô thường đã mang lại tổn thất của nó và các Ngài đã viên tịch. Tương tự, vua chúa, kẻ giàu và người nghèo, người đẹp và xấu, tất cả đều phải chết. Tất cả họ đều là chủ thể của thực tại vô thường và cái chết này. Đưa ra thực tại của hiện hữu con người này, ai có thể bảo đảm rằng chúng ta không phải đối mặt với cái chết? Ai có thể bảo đảm cứu chúng ta thoát khỏi hậu quả của hành động mình? Ai có thể bảo đảm cứu chúng ta thoát khỏi thực tại của vô thường? Không một ai có thể cho các bảo đảm này, chẳng phải con người hoặc chư thiên.

Vì những lý do này, đó là sự cần thiết cho việc thực hành Giáo Pháp thật sự, và thời gian thực hiện là ngay bây giờ. Đừng để chậm trễ, đừng bào chữa. Nếu bị thua vì chần chừ, chúng ta là người bị mất mát. Không phải là vị thầy tâm linh chúng ta. Không phải đạo Phật. Không phải trung tâm Pháp. Không phải bất cứ gì khác. Chúng ta là người bị mất mát nếu chần chừ theo cách đó. Nhân tiện, điều quan trọng là nhận ra rằng cách lắng nghe Giáo Pháp khác với việc tham dự các loại giáo lý khác. Ví dụ, trong trường trung học hay đại học, người ta đòi hỏi một phương thức khác. Cái gì thích hợp cho cái khác này, bối cảnh thế tục không thích hợp ở đây. Trong bối cảnh thỉnh cầu và lắng nghe Giáo Pháp, điều quan trọng là hãy để tâm bạn chậm lại. Hãy để tâm bạn ngơi nghỉ và tham dự giáo lý với sự quan tâm, với sự tự xem xét.

Trở lại với chủ đề động cơ, tôi đã nói rằng tất cả chúng ta đều được chào đón để lắng nghe và học tập các giáo lý này nếu các bạn có động cơ lành mạnh. Thậm chí cả những người chưa quy y nơi Phật, Pháp, và Tăng cũng được chào đón học hỏi giáo lý này nếu muốn áp dụng vào thực hành. Tôi tôn trọng những người này, và tôi tôn trọng những người thọ và gìn giữ nguyện quy y. Tôi tôn trọng cả hai. Nếu có những người khác, vì tò mò hay nhàn rỗi, tự hỏi, “Chuyện gì đang xảy ra?” tôi không tôn trọng thái độ này, và những người đó không được chào đón để học hỏi giáo lý này, dù gián tiếp hay trực tiếp. Hãy làm những việc khác, đây không phải công việc của bạn. Với những người có động cơ tốt, tôi tin bạn muốn học hỏi Giáo Pháp và cũng muốn áp dụng nó vào thực hành, nên tôi cũng rất vui được giúp đỡ cho bạn. Tôi rất vui với việc trả lời cho những khao khát và quan tâm của bạn. Trong thực tế, điều này cũng giúp cho tôi. Khi tôi đối diện với cái chết, giáo lý này cũng là điều lợi ích cho tôi.

Có một số động cơ đúng. Bạn có thể có rất nhiều động cơ cao quý, rộng rãi như trong Mahayana. Điều này rất tốt. Tuy nhiên, ngay cả nếu bạn chỉ nỗ lực để giải thoát chính bạn khỏi đau khổ, thì điều này cũng đủ. Song, bạn nên đi vượt lên động cơ đầy đủ đó. Động cơ bây giờ nên phát triển là mong ước toàn giác cho chính bạn và lợi ích người khác. Với động cơ đó, hãy học các giáo lý này và áp dụng vào thực hành thiền định. Nói chung, có ba loại động cơ: lành mạnh, không lành mạnh, và trung lập. Trong số ba cái này, chúng ta bắt buộc phải phát sinh độngđạo đức. Đó là điều quan trọng để chúng ta không rơi vào thói quen cũ.

Ở phương Tây, từ lúc nhỏ, nhiều người trong chúng ta được dạy phải tốt như thế nào; và chúng ta đề cao mọi loại sự việc. Khi học xong, chúng ta được đề cao về mọi khía cạnh của tình huống, và kết thúc với sự trưởng thành hư hỏng. Khi chúng ta già, thân thể bắt đầu suy yếu, và những gì trông tốt đẹp bắt đầu tàn lụi. Vào lúc đó, nhiều người chúng ta có thể bị một ít kích động về việc mất những gì mà người ta đề cao trong một thời gian dài, và chúng ta áp dụng rất nhiều nỗ lực để duy trì những tính chất tốt đẹp bên ngoài. Trong quá trình, chúng ta có khuynh hướng dính mắc vào tất cả ba độc của tâm: tham, sân, và si. Chúng ta có thể áp dụng mọi loại phương tiện để cố chống lại thân thể bị hư hoại dần dần. Thậm chí một số có thể tính toán đến việc phẫu thuật tạo hình, tất cả điều này chỉ để duy trì vẻ đẹp thân thể. Bất luận thế nào, mọi nỗ lựcchúng ta áp dụng đều biểu lộ tự-bám chấp, đó là nền tảng của vô minh, và hành động được thúc đẩy bởi sự tự-bám chấp như vậy không thích hợp cho giáo lý này.

Thông thường, khi người phương Tây tiếp nhận giáo lý, họ rất hăng hái ghi chú hoặc ghi âm buổi giảng dạy, để có thể lưu trữ khi về nhà họ. Sau đó đem chia sẻ với người khác; họ sẽ kể với bạn bè về buổi giảng, và sau khi làm như vậy, họ hoàn toàn vứt bỏ, để giáo lý trong các ghi chú và băng từ trong phòng tắm cùng với những cuộn giấy vệ sinh. Điều này là vô ích, thay vì dẫn đến giải thoátgiác ngộ, vốn là mục đích chân thực của giáo lý, kiểu thiếu tôn kính này chỉ dẫn đến việc tái sanh vào cõi thấp. Bạn có thể chia sẻ giáo lý này với người có mong ước tha thiết áp dụng chúng vào thực hành, tối thiểu cũng vì lợi ích cho chính bản thân họ, và cao quý nhất là cho lợi ích của tất cả chúng sanh. Bạn không nên chia sẻ với người không tôn kính giáo lý hoặc không tin tưởng. Nếu bạn dạy những người này, sẽ dẫn đến việc bị tái sanh vào cõi đau khổ.

Hãy tôn kính giáo lý này, đây là điều tôi yêu cầu bạn, nếu không muốn chú ý đến tôi, thì đó là việc của bạn. Ngoài ra, bạn phải chia sẻ giáo lý một cách cẩn thận. Về mặt động cơ, một điểm khác bạn nên suy xétvô số chúng sanh khắp không gian đều mong muốn hạnh phúcthoát khỏi đau khổ như bạn. Khao khát nhận được giáo lý này về sáu tiến trình chuyển tiếp và áp dụng chúng vào thực hành để tất cả chúng sanh khắp hư khôngthể đạt được giải thoáttoàn giác.

Để học cách lắng nghe Giáo Pháp đúng đắn, Tôi đề nghị bạn nên đọc chương đầu tiên quyển Lời Vàng của Thầy Tôi. Đặc biệt với những người có phần mới với Phật giáo Tây Tạng. Hãy đọc sách này và trở nên quen thuộc với nó. Ngày nay, đó là sự quan tâm đáng kể trong việc học tập Atiyoga, đó là giáo lýthực hành tuyệt đỉnh của chín yana trong Phật giáo. Nếu bạn khao khát tiếp nhận giáo lý rất thâm sâu và cao cấp này, việc không hiểu được cách lắng nghe Pháp đúng đắn như thế nào là điều đáng hổ thẹn. Nó là việc cư xử của Giáo Pháp. Để minh họa điều này, His Holiness Dudjom Rinpoche có lần đã kể một câu chuyện về một nhà sư già đi hành cước và cần một nơi để trọ. Ông đến nhà một phụ nữ lớn tuổi và yêu cầu được trọ một đêm, đây là một phong tục phổ thôngTây Tạng. Bà sắp đặt cho ông nghỉ qua đêm và phục vụ một ít trà đen. Tuy nhiên trà mà bà đưa cho ông chẳng có muối cũng không có bơ, là hai thứ mà người Tây Tạng thường cho vào trà, nên không đúng hương vị trà thực sự của Tây Tạng. Vị sư già nếm trà, và rất khó chịu và nói, “Trà này chẳng hề có chút muối nào, huống hồ là bơ! Nên ném nó ra ngoài!” và ông ta quăng chén trà qua cửa sổ. Bà lão thấy ông phản ứng, bà nói, “Ồ, nhà sư tôn quý, xét về phép xã giaophản ứng của ông, dường như cách cư xử của ông thậm chí chẳng có mùi vị của mười sáu phép xã giao của thế gian, huống hồ là Giáo Pháp. Vậy, tôi cũng ném ông ra ngoài!” Có những cách lắng nghe giáo lý đúng đắn, và đây là việc cư xử của Giáo Pháp.

Trẻ em chắc chắn cũng được chào đón để lắng nghe và học tập giáo lý. Chúng có được lợi ích về tiếp nhận giáo lý ngay cả nếu chúng chưa có thể thực sự áp dụng vào thực hành ngay bây giờ. Cũng tương tự như khi trẻ em tham dự nhận lễ quán đảnh tantric. Chúng được ban phước của sự nhập môn ngay cả nếu chúng chưa thục sự tiếp nhận hoặc có trách nhiệm về samaya (giới nguyện). Samaya cho trẻ em không bị hư hoại cũng không phải giữ gìn. Tôi yêu thích trẻ em. Nên là một trường hợp tách biệt cho chúng. Hoàn cảnh của chúng là khác biệt, và chúng không có bám luyến sâu rộng như biển. Chúng không có kiêu mạn như núi lửa. Là người lớn, chúng ta phải có trách nhiệm nhiều hơn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13395)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11705)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11197)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11928)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10241)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29235)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11953)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11937)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10948)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19617)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7330)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11357)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35302)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12859)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12208)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17335)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11471)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22100)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11820)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15916)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12122)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14102)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12603)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13216)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13649)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19987)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14410)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13536)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12341)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11898)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34723)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13403)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13726)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31964)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13066)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13422)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13306)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18045)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14925)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15724)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14865)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15847)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20771)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21297)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35117)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27524)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43920)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37887)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15135)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15060)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12966)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12638)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15610)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27694)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14957)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11405)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53172)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16519)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13160)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12606)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15578)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15490)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14755)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15603)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13032)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11760)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12290)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12575)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13474)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12462)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24972)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11965)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12735)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11613)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13731)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14096)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12902)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12736)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13005)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13908)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13609)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12442)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14430)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13287)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13754)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14624)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11855)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12723)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28281)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11780)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12640)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15054)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11998)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11759)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12853)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11969)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11518)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant