Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Một: Giới Thiệu Và Các Chuẩn Bị

06 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9775)
Phần Một: Giới Thiệu Và Các Chuẩn Bị

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN

Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo

Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank
PHẦN MỘT
GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ

LỜI MỞ ĐẦU: ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY

Dường như hầu hết chúng ta đều đặt tâm mình lên việc đạt Phật quả và nghĩ, “Tôi đang trở thành một vị Phật.” Nhưng, điều đó là về cái gì? Tại sao bạn muốn trở thành một vị Phật? Có phải bạn bị thôi thúc bởi một động cơ yêu nước không? Hay nó là điều gì đó cho chính bạn? Nếu cho chính bạn, vậy việc trở thành một vị Phật theo cách nào thì lợi ích cho bạn? Chúng ta muốn trở thành Phật vì đang lang thang trong chu trình sinh tử này, trong samsara (luân hồi). Nhưng samsara là gì? Một số người nói, “Ồ, sống ở San Francisco thật là chậm chạp, lề mề.” Hoặc người ta nói, “Thế à, thậm chí sống ở Los Angeles còn tệ hơn.” Và người khác nói, “Thế đấy, càng tồi tệ hơn nếu sống ở New York.” Có phải điều này là nói về “lang thang trong samsara” hay không? Đi từ thành phố này đến thành phố khác? Không, điều đó không phải là vấn đề chính.

Samsara, chu trình sinh tử này, ám chỉ sáu loại chúng sanh hiện hữu từ cõi địa ngục suốt đến deva, hay thiên đường. Khi lang thang trong các cõi này, chúng ta là chủ thể cho sáu loại hiện hữu, mỗi thứ đều có dạng đau khổ đặc biệt. Nếu đạt Phật quả hay toàn giác, chúng ta đạt giải thoát khỏi tất cả cõi này. Nếu đạt được hạnh phúc tạm thời, chúng ta có được thân người hoặc chư thiên. Còn về hạnh phúc vĩnh cửu hay tối thượng, đây là sự đạt được giác ngộ tự thân. Nhờ đạt được điều đó, chúng ta có được tự do đích thực. Hãy hỏi chính bạn, “Tôi có thật sự được giải thoát ngay bây giờ không?” tôi không có và tôi nghĩ rằng bạn cũng không có. Để đạt được tự do đích thực, chúng ta phải cố gắng giác ngộ.

Giáo lý sau đây là một giảng dạy sâu rộng về mỗi một trong sáu tiến trình chuyển tiếp hay bardo, xây dựng nên kinh nghiệm của chúng ta trong samsara. Giáo lý này đặt nền tảng trên bản văn nguyên thủy của Đức Padmasambhava được gọi là Giáo Pháp Thâm Sâu Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ. Thuật ngữ giải thoát tự nhiên cũng có thể dịch là tự-giải thoát, nó là điều gì đó xảy ra một cách tự động, tự phát, hay tự nhiên. Trong bản văn thâm sâu này, Đức Padmasambhava dạy chúng ta làm thế nào để đạt được loại giải thoát tự nhiên này trong sáu tiến trình chuyển tiếp mà nó tự cấu tạo trong samsara.

Tuy nhiên, trước khi chúng ta có thể áp dụng các thực hành này, điều cần thiết là phải nhận ra sự đau khổ của samsara. Mỗi cõi sinh tử đều có dạng đau khổ đặc biệt cần được nhận ra. Sự đau khổ của deva, hay cõi thiên là sự lo lắng xảy ra trong trạng thái đề phòng cái chết. Vì, khi cái chết đến gần, chư thiên là chủ thể chịu đau khổ to lớn do họ có thể thấy nơi sinh kế tiếp của họ, sẽ tái sanh vào cõi thấp hơn. Sự đau khổ của asuras hay bán thiên là xung độtgây hấn. Với cõi người, chúng ta là chủ thể đặc biệt chịu đau khổ của sinh, lão, bệnh, và tử. Với súc vật, đó là sự ngu đần và trì độn. Với pretas, hay tinh linh (ngạ quỷ), đó là sự đau khổ của đói và khát. Cuối cùng với cư dân ở địa ngục, đó là sự đau khổ của cực nóng và cực lạnh. Trong bối cảnh nhận ra các loại đau khổ khác nhau trong sinh tử, chúng ta cũng phải nhận ra rằng giờ đây ta có cuộc sống con người với nhàn rỗithuận lợi. Nói khác đi, có nghĩa giờ đây chúng ta có một thân người, mà cũng bao gồm sự kiện chúng ta đã gặp được một hay nhiều vị thầy tâm linh của Đại Thừa có thể dẫn dắt chúng ta đến giác ngộ; và có được Giáo Pháp trình bày cho chúng ta con đường để đạt giác ngộ trong chính kiếp này.

Nhận ra sự khó đạt được một cuộc sống con người với sự nhàn rỗithuận lợi, cũng như nhận ra ý nghĩa to lớn của cuộc sống con người như vậy, chúng ta cần theo đuổi ý định này khi thấy được sự ngắn ngủi của việc tái sanh làm người quý báu này mà hiện tại chúng ta có được. Khi nói về các loại đau khổ của sáu cõi hiện hữuchúng ta là chủ thể, chúng ta có thể hỏi, “Chúng ta kinh nghiệm những đau khổ như vậy trong kiếp người hay trong kiếp khác ở địa ngục, v.v.. ra sao? Tại sao chúng ta bị đau khổ trong cách này? Chúng ta có bị trừng phạt bởi người nào đó hay không? Nó có tương tự như sự tàn ác của chế độ Cộng Sản Trung Quốc chống lại Tây Tạng? Nó có giống như vậy không? Hoặc nó giống như chính quyền Hợp Chủng Quốc về mặt tàn ác chống lại người Mỹ Bản Xứ? Có phải như vậy không? Chúng ta có bị trừng phạt tương tự như cách của người Tây Tạng và người Mỹ Bản Xứ đang bị trừng phạt? Câu trả lời là, “Không, hoàn toàn không phải vậy.”

Chúng ta phải chịu đựng như thế nào? Chúng ta đau khổ qua sự tham gia trong hành động bất thiện. Đau khổ là kết quả tự nhiên của hành động bất thiện. Về mặt tương quan giữa việc làmhậu quả của nó được gọi là luật nhân quả, kết quả của hành động bất thiệnđau khổ, và kết quả của đạo đứchạnh phúc. Do vậy, chính chúng ta là người trừng phạt chính mình. Chính chúng ta phải chịu sự trừng phạt vì hành động của chúng ta. chúng ta đang kinh nghiệm kết quả tự nhiên của hành động mình. Không có tác nhân bên ngoài trừng phạt hay khen thưởng chúng ta. Tất cả các bạn nghĩ sao?

Liên quan đến hoàn cảnh giữa người Tây Tạng và chế độ Cộng Sản Trung Quốc, người Tây Tạng trong những kiếp trước của họ nếu không vi phạm các hành động bất thiện nào đó, thì họ sẽ không bị kinh nghiệm đau khổ mà chính quyền Trung Quốc bắt phải chịu. Không có bất thiện, thì không có đau khổ kế tiếp. Tương tự, với người Mỹ Bản Xứ, khi những người da trắng nhập cư bất hợp pháp đến từ nước Anh, Pháp, v.v.. tiếp quản và phạm mọi hành động hung bạo lên người Mỹ Bản Xứ ở đây, nếu những người Mỹ Bản Xứ này không phạm các hành vi bất thiện trong các kiếp trước của họ thì họ sẽ không bị kinh nghiệm đau khổ áp đặt lên họ bởi những người nhập cư đến từ Châu Âu. Nếu bạn tin vào nghiệp, thì đó là vấn đề. Nếu không tin vào nghiệp, thì mọi thứ đều trôi qua.

Về mối liên hệ giữa hành vihậu quả của nó, không có cái gì bị tiêu mất. Không hành động nào – lành mạnh hay không lành mạnh, đạo đức hay phi đạo đức – mà không có hậu quả của nó. Trong hoàn cảnh hiện tại, rất dễ suy nghĩ rằng chúng ta có thể tránh khỏi nhiều điều và hành động bất thiện của chúng tavô nghĩachúng ta không bị kinh nghiệm những hậu quả của nó. Trong thực tế, đây là một sai lầm. Chẳng hạn, nếu người Mỹ Bản Xứ không gây tổn hại lên chúng sanh khác trong các kiếp trước, thì chính họ sẽ không bị kinh nghiệm đau khổ. Điều này cũng tương tự cho người Tây Tạng. Tự thân toàn bộ chu trình sẽ kéo dài mãi mãi. Khi người Châu Âu da trắng xâm chiếm và gây ra đau khổ to lớn cho người Mỹ Bản Xứ, họ phạm những hành động hết sức bất thiện thì họ sẽ kinh nghiệm hậu quả trong những kiếp tương lai, thậm chí có thể ngay bây giờ. Trong cách này, chu trình hiện hữuvĩnh cửu, và nó là lý do Đức Guru Rinpoche đã nói, “ Dù cái thấy của Ta bao la như hư không, khi bản chất của hành động và hậu quả của nó xảy đến, Ta rất tỉ mỉ kỹ tính giống như tinh bột của lúa mạch.” Nếu lơ là trong việc làm như vậy, thì chúng ta không phải Phật tử, hoặc ít nhất thì rất khó để vừa là Phật tử và vừa cư xử một cách tắc trách.

Tôi được thỉnh cầu ban các giáo lý này. Khẩn cầu các giáo lý như vậy thật là tốt, và rất tốt cho bạn áp dụng giáo lý này vào thực hành. Nó rất tốt cho bạn để có được tri kiến về những lý thuyếtthực hành này, nhưng bạn cũng nên nhớ mục tiêu của tất cả điều này là gì. Mục đích của tri kiến là gì? Mục đích của thực hành là gì? Nếu thật sự thực hành đầy đủ trong cuộc đời bạn là tám mối quan tâm thế gian, thì trong thực tế bạn sẽ không trên con đường dẫn đến trí tuệ. [6] Nó sẽ không dẫn đến sự uyên bác hoặc trở thành một hành giả. Nếu trong thực tế, bạn chỉ thực hiện tám mối quan tâm thế gian, thì bạn không khác với các chính trị gia ở Mỹ và khắp thế giới. Họ cũng học hỏi rất nhiều. Họ rất thông minh, rất trí thức, và thực hành nhiều; nhưng những gì họ thực hành chỉ là tám mối quan tâm thế gian, và bạn trở nên không khác với họ. Trong việc học và thực hành tám mối quan tâm thế gian, chúng ta phải thực sự nhìn vào bên trong mình. Chúng ta phải tự biết mình và có được tri kiến này qua việc tự xem xét nội tâm. Về mặt lắng nghe, suy nghĩ, và thiền định, chúng ta phải kiểm tra để chắc chắc thực hành của chính mình là trong sạch. Thật vô ích khi dùng ngón tay mình chỉ vào người khác và nói, “Ồ, hãy nhìn xem người đó bị đi lạc ra sao, và người này đang dính mắc vào tám mối quan tâm thế gian.” Không có quan điểm trong đó, và, dĩ nhiên, phản ứng chúng ta nhận được từ người này khi làm điều đó là, “Hãy để tôi yên” hoặc, “Hãy lo việc của bạn đi”. Để học điều này, chúng ta phải học về chính mình. Hãy để người khác một mình, đừng dính vào họ.

Trong số các hành giả Tây Tạng của đạo Phật hay trong số các Phật tử trên khắp thế giới, có nhiều người mà trong thực tế lại dính líu rất nhiều vào tám mối quan tâm thế gian. Cho đến khi việc thực hành tâm linh chúng ta bị pha trộn và nhiễm độc bởi tám mối quan tâm thế gian, thì điều này giống như rót thuốc độc vào Trung Đạo. Để cho thực hành tâm linh chính mình bị pha trộn và nhiễm độc, tri thức chúng ta đạt được của Giáo Pháp trở thành lãng phí; và nỗ lực to lớn áp dụng trong thực hành Pháp cũng trở nên vô ích. Vì lý do này, hãy xem xét cẩn thận điều này. Hãy kiểm tra sự hiểu biếtthực hành của chính bạn để thấy rằng nó thoát khỏi tám mối quan tâm thế gian này.

ĐỘNG CƠ

Bất cứ loại thực hành nào chúng ta dấn thân vào – nghe, suy nghĩ, hay thiền địnhchúng ta cần động cơ đúng đắn. Loại động cơ gì? Nếu xem xét lại cuộc sống chúng ta từ lúc rất sớm, từ thuở thơ ấu đến nay, và xem lại hành động về thân, khẩu, và ý của mình, chúng ta có thể tự hỏi, “Làm những hành động như vậy có giá trị gì? Chúng có bất cứ lợi ích nào không?” Chúng có thể không lợi ích, hoặc có thể có một số lợi ích thế gian. Nhưng trong lúc sinh ra một phần nhỏ lợi ích thế gian, các hành động này chỉ thực sự làm chúng ta lang thang mãi mãi trong luân hồi. Tuy nhiên, về mặt hành động như nguyên nhân cho việc chúng ta thành tựu hai thân Phật [7] – Rupakaya (Sắc Thân) vì lợi ích của người khác, và Dharmakaya (Pháp Thân) cho lợi ích chính chúng ta – dường như rất có khả năng rằng các hoạt động này cho đến giờ vẫn chẳng làm được gì.

Tại sao điều này có ý nghĩa? Vì tất cả chúng ta dù muốn hay không, đều phải chết, đây là định mạng của chúng ta; và trên hết là chúng ta chẳng kiểm soát được. Chúng ta không thể kiểm soát được mình sẽ chết ra sao. Tôi hoàn toàn cam đoan rằng tôi cũng không có được sự kiểm soát như vậy. Tôi không kiểm soát được vào lúc chết, và tôi nghi ngờ về việc bạn sẽ có khả năng kiểm soát. Tôi đưa ra kết luận này dựa trên cơ sở gì? Hãy nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Về việc mà chúng ta có bất cứ sự kiểm soát nào trên ba độc; bám luyến, thù hận, và ảo tưởng hay không? Có phải ba độc này thống trị hành động của chúng ta từ ngày này sang ngày khác? Thậm chí nếu chúng ta có một số kiểm soát trên tâm thứchoạt động của mình vào ban ngày, thì vào ban đêm chúng takiểm soát gì trong trạng thái mộng? Chúng ta thực sự hoàn toàn có bất cứ sự kiểm soát nào không? Nếu không kiểm soát được vào ban ngày và ban đêm, thì trên nền tảng gì chúng ta có thể tưởng tượng rằng mình có một số kiểm soát khi cuộc sống này kết thúc và lúc chúng ta lang thang trong trạng thái bardo? Điều này là đúng cho tất cả chúng ta. Chúng ta đều không có kiểm soát như nhau. Chúng ta không có bất kỳ loại tự quản nào trên cuộc sống mình, và có nhiều minh họa về điều này mà chúng ta có thể thấy chung quanh mình trong xã hội con người. Chẳng hạn, người ta vẫn hút thuốc lá dù biết rằng nó dẫn đến ung thư phổi cũng như rất nhiều dạng bệnh tật khác. Bạn bè và người thân của họ có thể van nài, “Xin hãy ngưng hút thuốc, chúng tôi muốn bạn sống lâu,” và thậm chí có thể họ muốn ngừng, nhưng họ vẫn không kiểm soát được. Trong cách tương tự, chúng ta có thể bị nghiện rượu, và người ta nói, “Ồ, xin hãy ngưng uống. Nó rất hại.” Có thể ta cũng muốn ngưng, nhưng không có năng lực quyết tâm và cũng không có sự kiểm soát.

Nói gần hơn một chút về Giáo Pháp, chúng ta thấy rằng nhiều người nói, “Ồ, tôi đang thực hành Pháp.” Tuy nhiên khi đi thẳng vào cụ thể, chúng ta không thực hành Pháp. Chúng ta chỉ nói về thực hành Pháp khi hoàn cảnh tương lai thích hợp hơn, mà trong khi chờ đợi, chúng ta hết sức bận rộn. Tôi không buộc tội bạn, tôi cảm thấy bản thân tôi cũng trong hoàn cảnh tương tự. Ngoài điều này, tôi có những học trò mà tôi đã nghe khoảng hơn hai mươi năm trước, họ nói, “Vậy thì, điều trước hết là tôi đạt được hoàn cảnh tài chính vững chắc. Tôi kiếm tiền và rồi tôi có thể làm các việc khác.” Nhiều thập niên đã trôi qua, và tôi nhìn lại những người đó. Nhìn chung họ đều trong hoàn cảnh như trước. Họ không đạt được vững chắc về tài chính mà họ tìm kiếm. Những gì họ làm trong lúc chờ đợi là tích lũy nhiều việc làm bất thiện.

Các chủ đề này xứng đáng cho chúng ta xem xét kỹ lưỡng. Ta nên nghe và suy nghĩ về chúngï. Trong lúc biết điều này và có được một số hiểu biết về sự phân biệt giữa thiện và bất thiện, nếu chúng ta dấn thân vào điều bất thiện – biết rằng nó sẽ có hại cho chính bạn và người khác – điều này giống như nhận ra rằng bạn có một ly thuốc độc mà vẫn uống nó. Tình hình đúng như vậy. Đó là, từ lúc này đến lúc khác khi chúng ta dấn thân vào các hoạt động bị ba độc hay năm độc[8] thống trị, thì những hoạt động này dẫn dắt đến chu trình sinh tử bất diệt của chính chúng ta.

Các vị thầy tâm linh vĩ đại của quá khứ đã ra đi. Sự vô thường đã mang lại tổn thất của nó và các Ngài đã viên tịch. Tương tự, vua chúa, kẻ giàu và người nghèo, người đẹp và xấu, tất cả đều phải chết. Tất cả họ đều là chủ thể của thực tại vô thường và cái chết này. Đưa ra thực tại của hiện hữu con người này, ai có thể bảo đảm rằng chúng ta không phải đối mặt với cái chết? Ai có thể bảo đảm cứu chúng ta thoát khỏi hậu quả của hành động mình? Ai có thể bảo đảm cứu chúng ta thoát khỏi thực tại của vô thường? Không một ai có thể cho các bảo đảm này, chẳng phải con người hoặc chư thiên.

Vì những lý do này, đó là sự cần thiết cho việc thực hành Giáo Pháp thật sự, và thời gian thực hiện là ngay bây giờ. Đừng để chậm trễ, đừng bào chữa. Nếu bị thua vì chần chừ, chúng ta là người bị mất mát. Không phải là vị thầy tâm linh chúng ta. Không phải đạo Phật. Không phải trung tâm Pháp. Không phải bất cứ gì khác. Chúng ta là người bị mất mát nếu chần chừ theo cách đó. Nhân tiện, điều quan trọng là nhận ra rằng cách lắng nghe Giáo Pháp khác với việc tham dự các loại giáo lý khác. Ví dụ, trong trường trung học hay đại học, người ta đòi hỏi một phương thức khác. Cái gì thích hợp cho cái khác này, bối cảnh thế tục không thích hợp ở đây. Trong bối cảnh thỉnh cầu và lắng nghe Giáo Pháp, điều quan trọng là hãy để tâm bạn chậm lại. Hãy để tâm bạn ngơi nghỉ và tham dự giáo lý với sự quan tâm, với sự tự xem xét.

Trở lại với chủ đề động cơ, tôi đã nói rằng tất cả chúng ta đều được chào đón để lắng nghe và học tập các giáo lý này nếu các bạn có động cơ lành mạnh. Thậm chí cả những người chưa quy y nơi Phật, Pháp, và Tăng cũng được chào đón học hỏi giáo lý này nếu muốn áp dụng vào thực hành. Tôi tôn trọng những người này, và tôi tôn trọng những người thọ và gìn giữ nguyện quy y. Tôi tôn trọng cả hai. Nếu có những người khác, vì tò mò hay nhàn rỗi, tự hỏi, “Chuyện gì đang xảy ra?” tôi không tôn trọng thái độ này, và những người đó không được chào đón để học hỏi giáo lý này, dù gián tiếp hay trực tiếp. Hãy làm những việc khác, đây không phải công việc của bạn. Với những người có động cơ tốt, tôi tin bạn muốn học hỏi Giáo Pháp và cũng muốn áp dụng nó vào thực hành, nên tôi cũng rất vui được giúp đỡ cho bạn. Tôi rất vui với việc trả lời cho những khao khát và quan tâm của bạn. Trong thực tế, điều này cũng giúp cho tôi. Khi tôi đối diện với cái chết, giáo lý này cũng là điều lợi ích cho tôi.

Có một số động cơ đúng. Bạn có thể có rất nhiều động cơ cao quý, rộng rãi như trong Mahayana. Điều này rất tốt. Tuy nhiên, ngay cả nếu bạn chỉ nỗ lực để giải thoát chính bạn khỏi đau khổ, thì điều này cũng đủ. Song, bạn nên đi vượt lên động cơ đầy đủ đó. Động cơ bây giờ nên phát triển là mong ước toàn giác cho chính bạn và lợi ích người khác. Với động cơ đó, hãy học các giáo lý này và áp dụng vào thực hành thiền định. Nói chung, có ba loại động cơ: lành mạnh, không lành mạnh, và trung lập. Trong số ba cái này, chúng ta bắt buộc phải phát sinh độngđạo đức. Đó là điều quan trọng để chúng ta không rơi vào thói quen cũ.

Ở phương Tây, từ lúc nhỏ, nhiều người trong chúng ta được dạy phải tốt như thế nào; và chúng ta đề cao mọi loại sự việc. Khi học xong, chúng ta được đề cao về mọi khía cạnh của tình huống, và kết thúc với sự trưởng thành hư hỏng. Khi chúng ta già, thân thể bắt đầu suy yếu, và những gì trông tốt đẹp bắt đầu tàn lụi. Vào lúc đó, nhiều người chúng ta có thể bị một ít kích động về việc mất những gì mà người ta đề cao trong một thời gian dài, và chúng ta áp dụng rất nhiều nỗ lực để duy trì những tính chất tốt đẹp bên ngoài. Trong quá trình, chúng ta có khuynh hướng dính mắc vào tất cả ba độc của tâm: tham, sân, và si. Chúng ta có thể áp dụng mọi loại phương tiện để cố chống lại thân thể bị hư hoại dần dần. Thậm chí một số có thể tính toán đến việc phẫu thuật tạo hình, tất cả điều này chỉ để duy trì vẻ đẹp thân thể. Bất luận thế nào, mọi nỗ lựcchúng ta áp dụng đều biểu lộ tự-bám chấp, đó là nền tảng của vô minh, và hành động được thúc đẩy bởi sự tự-bám chấp như vậy không thích hợp cho giáo lý này.

Thông thường, khi người phương Tây tiếp nhận giáo lý, họ rất hăng hái ghi chú hoặc ghi âm buổi giảng dạy, để có thể lưu trữ khi về nhà họ. Sau đó đem chia sẻ với người khác; họ sẽ kể với bạn bè về buổi giảng, và sau khi làm như vậy, họ hoàn toàn vứt bỏ, để giáo lý trong các ghi chú và băng từ trong phòng tắm cùng với những cuộn giấy vệ sinh. Điều này là vô ích, thay vì dẫn đến giải thoátgiác ngộ, vốn là mục đích chân thực của giáo lý, kiểu thiếu tôn kính này chỉ dẫn đến việc tái sanh vào cõi thấp. Bạn có thể chia sẻ giáo lý này với người có mong ước tha thiết áp dụng chúng vào thực hành, tối thiểu cũng vì lợi ích cho chính bản thân họ, và cao quý nhất là cho lợi ích của tất cả chúng sanh. Bạn không nên chia sẻ với người không tôn kính giáo lý hoặc không tin tưởng. Nếu bạn dạy những người này, sẽ dẫn đến việc bị tái sanh vào cõi đau khổ.

Hãy tôn kính giáo lý này, đây là điều tôi yêu cầu bạn, nếu không muốn chú ý đến tôi, thì đó là việc của bạn. Ngoài ra, bạn phải chia sẻ giáo lý một cách cẩn thận. Về mặt động cơ, một điểm khác bạn nên suy xétvô số chúng sanh khắp không gian đều mong muốn hạnh phúcthoát khỏi đau khổ như bạn. Khao khát nhận được giáo lý này về sáu tiến trình chuyển tiếp và áp dụng chúng vào thực hành để tất cả chúng sanh khắp hư khôngthể đạt được giải thoáttoàn giác.

Để học cách lắng nghe Giáo Pháp đúng đắn, Tôi đề nghị bạn nên đọc chương đầu tiên quyển Lời Vàng của Thầy Tôi. Đặc biệt với những người có phần mới với Phật giáo Tây Tạng. Hãy đọc sách này và trở nên quen thuộc với nó. Ngày nay, đó là sự quan tâm đáng kể trong việc học tập Atiyoga, đó là giáo lýthực hành tuyệt đỉnh của chín yana trong Phật giáo. Nếu bạn khao khát tiếp nhận giáo lý rất thâm sâu và cao cấp này, việc không hiểu được cách lắng nghe Pháp đúng đắn như thế nào là điều đáng hổ thẹn. Nó là việc cư xử của Giáo Pháp. Để minh họa điều này, His Holiness Dudjom Rinpoche có lần đã kể một câu chuyện về một nhà sư già đi hành cước và cần một nơi để trọ. Ông đến nhà một phụ nữ lớn tuổi và yêu cầu được trọ một đêm, đây là một phong tục phổ thôngTây Tạng. Bà sắp đặt cho ông nghỉ qua đêm và phục vụ một ít trà đen. Tuy nhiên trà mà bà đưa cho ông chẳng có muối cũng không có bơ, là hai thứ mà người Tây Tạng thường cho vào trà, nên không đúng hương vị trà thực sự của Tây Tạng. Vị sư già nếm trà, và rất khó chịu và nói, “Trà này chẳng hề có chút muối nào, huống hồ là bơ! Nên ném nó ra ngoài!” và ông ta quăng chén trà qua cửa sổ. Bà lão thấy ông phản ứng, bà nói, “Ồ, nhà sư tôn quý, xét về phép xã giaophản ứng của ông, dường như cách cư xử của ông thậm chí chẳng có mùi vị của mười sáu phép xã giao của thế gian, huống hồ là Giáo Pháp. Vậy, tôi cũng ném ông ra ngoài!” Có những cách lắng nghe giáo lý đúng đắn, và đây là việc cư xử của Giáo Pháp.

Trẻ em chắc chắn cũng được chào đón để lắng nghe và học tập giáo lý. Chúng có được lợi ích về tiếp nhận giáo lý ngay cả nếu chúng chưa có thể thực sự áp dụng vào thực hành ngay bây giờ. Cũng tương tự như khi trẻ em tham dự nhận lễ quán đảnh tantric. Chúng được ban phước của sự nhập môn ngay cả nếu chúng chưa thục sự tiếp nhận hoặc có trách nhiệm về samaya (giới nguyện). Samaya cho trẻ em không bị hư hoại cũng không phải giữ gìn. Tôi yêu thích trẻ em. Nên là một trường hợp tách biệt cho chúng. Hoàn cảnh của chúng là khác biệt, và chúng không có bám luyến sâu rộng như biển. Chúng không có kiêu mạn như núi lửa. Là người lớn, chúng ta phải có trách nhiệm nhiều hơn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11546)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13532)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14121)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10299)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10766)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11268)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11420)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10160)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9959)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10690)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42184)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10475)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11848)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10006)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11315)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11315)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10622)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11013)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10607)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11157)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11834)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29242)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9207)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10532)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10222)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10575)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10905)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10798)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27374)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11852)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12277)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10439)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10771)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10141)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10273)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10636)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11464)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18241)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10515)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12839)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11748)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29166)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13313)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22766)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11560)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13801)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25695)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26060)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12059)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11790)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12014)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22470)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14215)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12057)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10390)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13290)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34505)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12608)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12219)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12617)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12962)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16290)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27376)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28421)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant