Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10- Cảm nghĩ về một bài thơ xuân

14 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7209)
10- Cảm nghĩ về một bài thơ xuân

THẨM MỸ MÙA XUÂN

Thích Thông Huệ 

10- CẢM NGHĨ VỀ MỘT BÀI THƠ XUÂN

Xứ Kinh Bắc, cái nôi của nền văn minh lúa nước sông Hồng, là quê hương những người con ưu tú của đất Việt: Chàng trai châu Cổ Pháp (làng Ðình Bảng) Lý Công Uẩn, tức vua Lý Thái Tổ, người mở đầu cơ nghiệp nhà Lý, người ban chiếu dời đô tạo dựng Thăng - Long thành là Hà Nội ngày nay; vua Lý Thánh Tông, người đã có quyết định táo bạo nhưng sáng suốt - lập Nguyên phi Ỷ Lan làm Nhiếp chính, góp công giữ vững giang sơn, mở rộng cõi bờ. Kinh Bắc là quê mẹ của đại thi hào Nguyễn Du với những áng thơ nôm tuyệt tác Kim Vân Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh. Kinh Bắc có làng quan họ Bắc Ninh, nơi nổi tiếng với những khúc ca đối đáp của những “liền anh, liền chị”, từ tục hát chào đón vua Lý Thánh Tông về thăm quê, biến đổi thành lối hát hội của cả 49 làng quan họ.

Xứ Kinh Bắc cũng là quê hương của Trạng nguyên Lý Ðạo Tái (1254-1334), người cùng Ðại tướng Trần Khắc Chung ủng hộ cuộc lương duyên của Công chúa Huyền Trân cùng vua Chiêm Chế - Mân, đổi lấy sự bang giao giữa hai nước Việt - Chiêm và hai châu Ô - Lý làm sính lễ. Trạng nguyên xuất thân dòng dõi quan liêu nhưng thân phụ lại không tham dự triều chính. Từ nhỏ, Ngài đã sớm thông minh tài trí hơn người, lại có tâm hồn nghệ sĩ.

Năm 21 tuổi, Ngài đỗ đầu kỳ thi Tiến sĩ, được bổ nhiệm tại Hàn Lâm Viện. Khi thấm nhuần Phật pháp, Ngài dâng biểu từ quan, xuất gia theo hầu Sơ Tổ Trúc Lâm Ðiều Ngự Giác Hoàng. Ðược kế thừa ngôi vị, làm Tam Tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, Ngài ủy thác mọi việc trong Giáo hội cho Quốc sư An Tâm, sớm chiều ngao du tự tại. Tâm hồn thi nhân ẩn tàng trong phong cách Thiền sư, nên thơ văn của Ngài dường như man mác tình cảm, mà phần đông người xem cho là đượm màu thế tục. Bài thơ Xuân nhật tức sự (Tức cảnh ngày xuân) sau đây là một trong những bài thơ của Ngài bị hiểu lầm nhiều nhất:

Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn, thương xuân ý,
Tận tại đình châm, bất ngữ thì.

Nghĩa:

Cô gái mười sáu tuổi ngồi thêu gấm,
Dưới khóm hoa tử kinh, chim hoàng oanh hót.
Ðáng thương vô cùng, thương ý xuân,
Chỉ ở chỗ dừng kim không nói.

Dịch thơ:

Mỹ nhân mười sáu ngồi thêu gấm,
Hoa nở, hoàng oanh hót rộn ràng.
Ðáng thương vô hạn, thương xuân ý,
Thương chỗ dừng kim, chẳng nói năng.

Theo cách hiểu thông thường, đây là bài thơ tả cảnh có lồng vào tình cảm của tác giả đối với nhân vật trong thơ. Bức tranh tố nữ được phác thảo bằng một bàn tay tài hoa - chỉ hai câu thơ đầu mà đủ cả sắc thinh hương:

Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.

Khung cảnh êm ả của một ngày xuân nắng ấm, không khí trong lành thoang thoảng mùi hương huyền ảo - hương của hoa hay của người đẹp tuổi trăng tròn đang ngồi thêu gấm? Tiếng chim hót líu lo như những nét chấm phá tô điểm cho bức tranh Xuân. Hoa và người, vẻ đẹp thuần khiết gần với cái chân mỹ của thiên nhiên, như Xuân Diệu đã từng rung động:

Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ,
Hương mới thắm bền ghi như thiết thạch.

Hương xuân đầu mùa của nét đẹp trinh nguyên, tuy mơ hồ mà ghi đậm nét vào ký ức. Cái đẹp đâu dành cho riêng ai, nhưng cũng không phải là sở hữu của tất cả mọi người, chỉ hiện bày cho người biết trân trọng, biết thưởng thức. Tâm hồn nghệ sĩ một lần diễm phúc được tiếp xúc với cái thuần thiện thuần mỹ, bỗng thoát xác, thăng hoa, người và cảnh như hòa nhập với nhau trong một thực tại vô ngôn. Lúc ấy, chỉ cần vài nét phóng bút đã có một bức họa để đời, một vài lời nhạc đã làm bài hát trở thành bất tử!

Khả liên vô hạn, thương xuân ý,
Tận tại đình châm, bất ngữ thì.

Người đẹp đang thêu, nghĩ ngợi điều chi mà dừng kim không mở lời? Có phải tiết xuân ấm áp, hoa xuân tươi thắm, khí xuân chan hòa khiến lòng xuân cảm thấy nao nao? Ðôi mắt cô mơ màng, nhìn xa xôi không nói nhưng thầm nói bao điều. Nguyễn Bính một hôm nhìn qua nhà bên cạnh, cũng bất chợt gặp được khoảnh khắc “bất ngữ thì” của cô láng giềng:

Ðã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.

Hai ý thơ tuy khác lời nhưng lại gặp nhau ở nơi chưa nói: Một người tả cô gái dừng tay thêu gấm, người kia vẽ nên cảnh người đẹp hàng xóm, ngước mắt nhìn trời. Cô không cần mở lời, vì chẳng phải “đôi mắt trong” kia đã là cửa sổ tâm hồn cô đó ư? Chỉ khác một điều, người nầy mạnh bạo nói thẳng “thương vô hạn”, còn người kia, bằng sự nhắc lại một cách xót xa “Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm” như tự nhận rằng, tuy gần nhau đấy nhưng vẫn cách xa vạn dặm. Chao ôi là tài hoa, những ngọn bút thi nhân tức cảnh sinh tình!

Người đọc có thể thông cảm, có thể ca ngợi tài nhả ngọc phun châu của thi sĩ Trạng nguyên Lý Ðạo Tái. Nhưng đối với Thiền sư Tam Tổ Huyền Quang, thì những lời thơ dạt dào tình cảm đời thường như thế khó lòng được chấp nhận. Không những Ngài Huyền Quang bị nhiều người đương thời lên án, mà ngay cả một số nhà nghiên cứu phê bình ngày nay cũng đánh giá khá khe khắt về Ngài.

Có rất nhiều lời ca tụng vua Trần Nhân Tông như một minh quân, một Thiền sư đạt đạo, một vị Tổ khai sáng dòng Thiền Việt Nam: “Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là vị quân vương mà còn là nhà tu hành; không chỉ là nhà văn hóa mà còn là Thiền sư lỗi lạc”(1) hoặc “Thiền của Trúc Lâm Yên Tử là thiền gì?Ðó chính là Tổ Sư Thiền.

Ðạo Phật mà Trần Nhân Tông đã ngộ là đạo Phật gì? Ðó chính là đạo Phật Thiền. Và trí tuệTrần Nhân Tông đã đạt đượctrí tuệ gì? Ðó chính là trí tuệ Phật, còn gọi là trí tuệ siêu tuyệt, trí tuệ tối thượng thừa” (2). Ngược lại, nói về Tam Tổ Huyền Quang thì: “... Vậy mà Phật giáo đời Trần, với biểu tượng Trúc Lâm Yên Tử đã không tồn tại được quá ba đời. Tổ thứ ba Huyền Quang đã không gánh nổi công việc tăng tiến Giáo hội, chủ yếu được nhìn nhận như một thi nhân” (3)

Thật ra, sự khen chê vốn không cùng, và tùy thuộc ý kiến chủ quan của mỗi người. Hành vi, cử chỉ và ngôn phong của các Thiền sư cũng không dễ hiểu thấu, huống gì việc phán đoán phê bình. Những tài liệu về cuộc đời Ngài Huyền Quang cho đến nay hầu như chỉ còn quyển Tổ Gia Thực Lục, vốn có nhiều chi tiết huyền bí khó tin khó nhận. Người đời sau không biết gì về hành trạng của Ngài, như Ngài ngộ đạo trong hoàn cảnh nào, dạy dỗ đồ chúng ra sao, trạng thái lúc thị tịch có gì đặc biệt, môn đệ truyền thừa gồm những ai... Phần thi văn của Ngài cũng chỉ còn hai mươi ba bài thơ chữ Hán và một bài phú chữ Nôm.

Vì thế, theo quan niệm thế gian, Ngài Huyền Quang chỉ là một Trạng nguyên đi tu, chưa thoát khỏi sự dính mắc với cảnh và người. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm nhà Thiền, Ngài Huyền Quang là một Thiền sư đạt đạo, là vị Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kế thừa Tổ thứ hai Pháp Loa. Những bài thơ của Ngài phần nhiều đều mượn cảnh để tỏ ý, mượn lời hoa mỹ để chuyển tải lý đạo.

Trở lại bài thơ Xuân nhật tức sự. Thiền sư Huyền Quang đã cảm nhận một cách tinh tế sự toàn mỹ của bức tranh tố nữ ngồi thêu dưới nắng xuân, nhưng không có sự rung động thường tình của nghệ sĩ, càng không có sự đắm luyến thế tục trước một người con gái yêu kiều. Toàn bài chỉ trở về một câu duy nhất: “Tận tại đình châm bất ngữ thì”. Thương vô hạn, nhưng không thương nơi người nơi cảnh, mà thương ở chỗ dừng kim không nói. “Dừng kim” nghĩa là không còn đan dệt nghiệp, tạo nhân luân hồi sinh tử. “Không nói” là đến chỗ vô ngôn, cứu cánh của nhà Thiền.

Ngôn ngữvăn hoa trau chuốt đến mấy, cũng vẫn còn trong vòng đối đãi - có tốt xấu, có thị phi, có nhân ngã. Chân lý tuyệt đối không thể dùng lời để diễn tả, không thể dùng ý để nghĩ suy, càng không thể nhờ suy luậnbiện biệt. Người đạt đạo không còn kẹt trong phân biệt hai bên nên không chỗ mở lời, không còn tạo nghiệp nên thoát vòng kềm tỏa của sinh tử. Ấy chính là GIÁC NGỘGIẢI THOÁT, mục đích tối hậu của đời tu.

Bốn câu thơ sau đây trong bài “Diên Hựu tự” có thể phần nào diễn đạt nội dung tâm chứng của Ngài Huyền Quang:

Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

Nghĩa:

Muôn duyên chẳng rối nào ngăn ngại,
Nửa điểm không phiền mắt rộng thang.
Tham tột thị phi tướng bình đẳng,
Cung ma, cõi Phật đẹp ngang hàng.(4)

Người đã uống một hớp cạn hết nước Tây giang, không còn cùng làm bạn với muôn pháp. Chẳng còn duyên nào làm rối loạn, chẳng còn điểm nào làm phiền não, thì tâm bao trùm pháp giới, tầm mắt mở rộng thênh thang. Tham cứu đến tột cùng bản chất mọi sự vật, thấu triệt tính bình đẳng giữa thị và phi, giữa Bồ-đề và phiền não, giữa Niết-bàn và sinh tử, giữa Phật quốcma cung, thì Ta-bà hay Tịnh độ cũng chỉ ở tại đây và bây giờ. Lúc này sử dụng hành động hay ngôn từ nào, các Ngài cũng đều từ tục đếtỏ bày chân đế, cốt khai thị cho đương cơ thầm nhận bản tâm thanh tịnh của chính mình. Ðương cơ nếu chấp vào hình thức văn tự, sẽ bị trói buộc vào mớ bòng bong của ý thức suy luận, từ đó xa cách muôn trùng với ý Tổ sư.

Mượn thi ca diễn đạt thiền lý không phải chỉ ở Việt Nam, cũng không phải chỉ có từ đời Trần. Từ thời Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Hoa với bài kệ trình kiến giải “Bổn lai vô nhất vật...”, Thiền tông ngày càng phát triển mạnh mẽ và song song đó, thi ca cũng nhuốm mùi thiền vị. Ðường-Tống là thời kỳ hoàng kim của thiền, cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền thi ca Trung Quốc. Các nhà thơ nổi tiếng như Ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Ðông Pha đều có những bài thơ man mác hương thiền; ngược lại, nhiều vị Thiền sư cũng mượn lời thơ chuyển tải chân lý. Theo tư tưởng Triết học Ðông phương, ấy là đem Hình nhi hạ để biểu hiện Hình nhi thượng, tức mượn vật để sáng lý, mượn cái hữu hạn vô thường để chỉ bày cái vô hạn thường hằng bất hoại. Có người bảo: “Thơ là chiếc áo gấm thêu hoa của thiền khách, thiền là chiếc dao gọt ngọc của thi gia” (5).

Mới nhìn qua, ta cảm thấy thơ và thiền thật khác nhau trời vực. Một bên là ngôn ngữ sản phẩm của ý thức, bên kia là nội dung tâm chứng từ trực giác. Một bên diễn tả tư tưởng chủ quan với đối tượng người hay cảnh, mà độc giả có thể đồng cảm, có thể hiểu thấu; bên kia lại ở nơi “đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt” (ngôn ngữ đoạn đạo, tâm hành xứ diệt), chỉ có thể tự ngộ tự tri. Tuy nhiên, trải qua những quá trình dung hợp, trong đó ngôn ngữ thi cahình thức biểu trưng tâm ý của Thiền giả, còn thiền lý, lại làm lời thơ thêm vẻ sâu sắc ý vị, sự hòa hợp giữa thiền và thơ trở thành như nước với sữa.

Thiền sư Thiên-Y Nghĩa-Hoài có bốn câu kệ để đời:

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy 
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Nghĩa:

Nhạn bay trong không 
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm giữ bóng.

 Có chữ nào nói đến đạo lý, vậy mà toàn bài diễn đạt được cái rốt ráo của thiền. Bài kệ về hoa sen của Thiền sư Phật Giám cũng nhân cảnh mà tỏ ý, nhân sự việc tương đốitỏ bày chân lý tuyệt đối:

Hương bao lãnh thấu ba tâm nguyệt,
Lục diệp khinh diêu thủy diện phong.
Xuất vị xuất thời quân khán thủ,
Ðô lô chỉ tại nhất trì trung.

Nghĩa:

Trăng lòng sông, búp thơm lạnh buốt,
Gió mặt hồ, lá thắm đong đưa.
Mọc hay chưa thì anh xem đấy,
Ðều chỉ nằm trong một cái hồ. (5)

Và đây là những bài thơ thắm đượm hương thiền của một số nhà thơ Ðường - Tống:

Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh xuân giản trung.
Vương Duy

Nghĩa:

Người nhàn, hoa quế rụng,
Ðêm tĩnh, núi quạnh hiu.
Trăng mọc, chim rừng tỉnh,
Khe xuân, thỉnh thoảng kêu.
Ðỗ Tùng Bách dịch.

Hoặc: 

Thủy lưu tâm bất cảnh,
Vân tại ý câu trì.
Ðỗ Phủ.

Nghĩa:

Nước chảy, tâm không động,
Mây ngưng, ý lặng dừng.

Có khác gì “Ðối cảnh không tâm chớ hỏi thiền”, có khác gì “Thương chỗ dừng kim chẳng nói năng”? Bao nhiêu ngôn từ chữ nghĩa, bao nhiêu phương tiện lập bày chỉ để nhắm đến cái “không thể nói”. Cho nên, sách Trinh Nguyên Lục Thư viết “Ðiều mà thơ muốn mọi người lãnh hội chẳng phải là điều thơ nói, mà là những điều vượt ra ngoài hình tượng mà thơ không nói ra được”.

*****
Cuộc đời Tam Tổ Huyền Quang, gẫm ra có khá nhiều điều không như ý - lúc còn trẻ, do dung nhan kỳ lạ và gia cảnh bần hàn nên tuy sớm định hôn ước mà chưa được thành thân. Thấy rõ tình đời bạc bẽo, nên khi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua gả công chúa, Ngài vẫn một mực chối từ:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Ðến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên.
Trở thành người đứng đầu Giáo hội, Ngài lại bị hiểu lầmcung nữ Ðiểm Bích - vụ án đầy tai tiếng do vua Trần Minh Tông lập bày để thử thách đạo hạnh của người tu. Tuy nhiên, một vị Thiền sư đã tự tại trước tám gió, có khi nào bận lòng trước lời khen chê của thiên hạ?
Thủ bả xuy thương hòa mộc đạc,
Tùng giao nhân tiếu lão tăng mang.
Nghĩa:
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo,
Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình.
Nguyễn Lang dịch.
Thiền sư và nghệ sĩ tuy hai mà một - hình ảnh dung hợp thật đẹp đẽ giữa Thiền học và nghệ thuật đời thường. Mặc ai hiểu mặc ai không hiểu thấu, Ngài không động tâm vì biết tất cả đều hư dối không thật. Nhị tổ Huệ Khả ở Trung Hoa, lúc cuối đời thường đến những chốn trà đình tửu điếm, có khi giữa đám đông thuyết pháp hoặc làm những nghề lao công nặng nhọc.
Có người hỏi sư:
- Thầy là nhà tu, tại sao làm như thế?
Sư đáp:
- Ta tự điều phục tâm, đâu có quan hệ gì đến việc của ngươi? (6)
Ðó là phong cách của người tu đạt đạo, luôn an nhiên tự tại trước mọi tình cảm của người đời và mọi thử thách của cảnh ngộ. Bởi vì “Tham tột thị phi bình đẳng tướng” nên không kẹt vào đối đãi hai bên. Thấu triệt tận căn để Lý Bất nhị - chân lý tuyệt đối của nhà Phật, hành giả không còn lời nào để nói mà chỉ biết im lặng tự tri. Cái im lặng sấm sét nầy đã được thể hiện nơi Ðức Phật khi đóng cửa thất ở nước Ma-Kiệt, nơi cư sĩ Duy Ma khi ngậm miệng ở thành Tỳ-Da, và bây giờ cô gái “Tận tại đình châm bất ngữ thì”. Người tu nào không mong nhận ra và thương nơi chỗ dừng kim không nói?
Xin mượn lời Thiền sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác trong Chứng Ðạo Ca - viên ngọc quý trong gia tài thi ca của nhà Thiền - để kết thúc bài này:
Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết?
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,
Thùy kiến đường lang năng cự triệt?
Ðại tượng bất du ư thố kính,
Ðại ngộ bất câu ư tiểu tiết.
Mạc tương quản kiến báng thương thương,
Vị liễu, ngô kim vị quân quyết.
Nghĩa:
Nhật dù lạnh, nguyệt dù nóng,
Lời chân thật ma nào phá hỏng.
Xe voi ngạo nghễ cứ tiến lên,
Mặc sức bọ trời theo ngăn chống.
Voi lớn chẳng đi theo dấu thỏ,
Ngộ lớn nệ gì nơi tiết nhỏ.
Chớ dòm trong ống mỉa trời xanh,
Chưa tỏ, vì anh ta giải rõ!
Thông Phương dịch.
(1) Nguyễn Hùng Hậu: Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam. NXB Khoa học xã hội - 1997, tr. 119
(2) Thượng tọa Thích Thanh Thế: Ðạo đức trí tuệ Trần Nhân Tông... Trần Nhân Tông, vị vua Phật Việt Nam - NXB Tổng hợp TP HCM - 2004, tr. 291

(3) Văn Quân: Phật giáo đời Trần và văn hóa Ðại Việt - Trần Nhân Tông, vị vua Phật Việt Nam - NXB Tổng hợp TP HCM - 2004, tr. 191.

(4) Hòa thượng Thích Thanh Từ: Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải - NXB TP HCM - 1997, tr. 619.

(5) Ðỗ Tùng Bách: Thơ Thiền Ðường - Tống. NXB Ðồng Nai - 2000, tr. 306 - 292.

(5) Ðỗ Tùng Bách: Thơ Thiền – Ðường - Tống. NXB Ðồng Nai - 2000, tr. 306 - 292

(6) Hòa thượng Thích Thanh Từ: Sử 33 vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa - Nhà in Hợp Thịnh - 1972, tr. 181
Vi tính: Nguyên Trang
Người gửi bài: Toàn Trung
07-12-2007 06:23:12

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9770)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9936)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9917)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20496)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10328)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9938)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10326)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9919)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34387)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9609)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8706)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9273)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11074)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8513)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9785)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9168)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20409)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19178)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8709)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8845)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12082)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9583)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22984)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8983)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9250)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9956)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9874)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10584)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10910)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12457)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9318)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9167)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9295)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10442)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22211)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16593)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9516)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10145)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8375)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8277)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9432)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8827)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8613)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12255)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9121)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9596)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8599)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9433)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8599)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8340)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8443)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10163)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23600)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9557)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9366)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8987)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8325)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8505)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7860)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7955)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8773)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8900)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10044)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8634)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8607)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30377)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30034)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24136)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9246)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9614)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9496)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9486)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7839)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9051)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28171)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23662)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12223)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8861)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14090)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9642)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9323)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9626)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30857)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27096)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32670)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33975)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27725)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10562)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12457)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58620)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10638)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9378)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9534)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13927)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14193)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10754)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28106)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23256)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant