Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mùa Xuân Của Đời Tôi

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11419)
Mùa Xuân Của Đời Tôi

MÙA XUÂN CỦA ĐỜI TÔI

KOBAYASHI ISSA (1763-1827) THƠ VÀ ĐỜI
Thiên Hương Chu Kim Hải soạn dịch


Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ. Núi non bao bọc vùng nông thôn Shinano vĩnh viễn gắng liền với tên của ông, cũng là vùng núi non phương Bắc trong Hồi Ký “Con Đường Hẹp Đi Sâu vào Miền Bắc “ của Bashõ Matsũ.

Nhưng cuộc đời bất hạnh của Issa cho ta ấn tượng một cuộc đời không may với sức chịu đựng âm thầm nhẫn nại nổi bật hơn cảnh sắc nên thơ hữu tình nơi ông chào đời. Cuộc đời mồ côi của ông luôn luôn bao phủ tang tóc. Từ khi còn quá nhỏ để nhận thức được những ngược đãi bất công đổ xuống đầu do tâm cay độc của người đời còn đáng sợ hơn những bão táp tuyết giá của thiên nhiên. Từ hai tuổi mất mẹ khiến đời ông là một hành trình đi đi lại lại, những chuyến di chuyểnquanh quẩn không ngừng từ nhà bà nội trở về nhà với cha nhưng nơi đó cũng không phải là nhà của mình mà chỉ là nơi dừng để nhận tất cả sự hành hạ thù ghét vô cớ mà một đứa trẻ có thể hiểu được tại sao. Ở nhà bị hành hạ quá sức phải lên chùa tá túc ngủ nhờ, nhưng lại phải quay về nhà làm ruộng khi người cha cần giúp đỡ. Chùa là nơi nương tựa khi bị ruồng rẫy, sau này khi ra khỏi gia đình thì nay ở nhờ nhàbạn vài tháng bạn kia vaì tuần, đôi khi ở nhờ cả học trò, bất cứ đâu quá khứ bà mẹ ghẻ đáng ghê sợ như trong truyện cổ tích luôn luôn ám ảnh suốt thời gian lang thang không nơi cư trú. Vì thế Issa tự cho mình là Issa ăn mày.

Nhưng thơ của ông bộc lộ một tâm từ bi yêu thương thấu hiểu cái kiếp nhỏ nhoi yếu đuối của những con côn trùng không đủ sức tự bảo vệ như đời ông khi còn thơ ấu.

Hãy bay đi, bươm bướm ơi ! 
bụi nhân gian ta nghe phủ 

chĩu trên thân xác ta rồi ! 

Fly, butterfly !
I feel the dust of this world

weighting my body 

Tại Nhật Bản tất cả trẻ con trong trường đều được học thơ của Issa về thú vật và côn trùng, hầu hết ai cũng có thể ngâm một vài bài thơ của ông. Làm thơ không những bộc lộ những ẩn ức đau khổ sâu xa mà còn là một phần cảm nhận của tâm linh thấu đáo lẽ nhân quả vô thường. Ông viết với tất cả tâm hiến dâng, sáng tác hơn hai mươi ngàn bài thơ hài cú, hàng trăm đoản ca và nhiều dòng hài văn là văn suôi.

Dưới bóng những tàng cây 
nơi này ta với bướm 

nhân quả cũng là đây.

Under shady trees,
sharing space with a butterfly-

this, too, is karma 

Issa không bao giờ nói nhiều về nghiệp quả, mặc dầu qua trong thơ ông chỉ nhẹ nhàng nhắc tới như một ngẫu nhiên như tự biết mình đã gieo những hạt giống xấu từ nhiều kiếp trước.

Mới đầy hai tuổi thì mất me, cha phải gửi đến bà nội nuôi dưỡng. Khi bắt đầu đi học, bà nội đưa đến một nhà thơ hài cú địa phương là Shimpo. Đến khi Issa bẩy tuổi người cha tái giá, mười tuổi phải quay về ở với cha vì dì ghẻ sanh một trai cần người giúp đỡ. Không ai biết sự thật ra sao, nhưng những năm sau đó quần áo ông “luôn luôn sũng nước tiểu của em trai”, “bị đánh đập hàng trăm lần một ngày” (đó là lời ông ghi lại của). Bất cứ đứa bé khóc vì lý do gì Issa đều bị tội và bị đánh đập, rồi sự học hành gián đoạn vì phải ra đồng làm việc. Có khi ông phải chạy lên chùa ẩn náu để tránh những trậïn đòn phũ phàng dáng xuống thân hình ốm yếu thiếu ăn thiếu ngủ. Ở chùa Mỹsen, nhiều khi ông khóc suốt không hiểu được tại sao lại phải chịu những trận đòn như vậy, nhiều lần ông nhắm mắt nghe đau đớn ê ẩm cả thân thể nghĩ đến cái chết có lẽ dễ dàng hơn là ngày mai đối diện với những gì không biết trước. Ẩn lánh nơi chùa trong hòan cảnh như vậy chắc chắn ảnh hưởng sâu đậm đời đứa con trai đang lớn .

Khi Issa được mười ba tuổi bà nội ông mất một tình thương che chở cuối cùng cũng không tồn tại lâu hơn trong đời. Ông mất nơi nương tựa tinh thần. Những cay nghiệt càng dáng xuống nặng nề hơn, để làm dịu bớt căm thù trong gia đình, người cha gửi thi sĩ trẻ Issa đến học tập với một nhà văn học ở Edo (Tokyo). Ông sao chép các bản văn để trả chi phí ăn và ở, nhưng Issa không thể nào quen được với lối sống viết thuê và bó mình vào một chỗ đứng an phận. Ông biến vào thành phố náo nhiệt, khoảng thời gian đó ông không ghi lại gì cả. Cũng có thể ông làm thơ ký cho một chùa Phật giáo dựa theo bài thơ như sau: 

Thu bao nhiêu là tiền 
các vị tăng thông minh 

dùng những cành mẫu đơn 

So much money made
by clever temple priests

using peonies

Tuy thế Issa đã sống những năm ở Edo không nhà và đói rét .

Đến năm 1880, trong xã hội của nhóm thi sĩ hài cú học trò của Chikua bắt đầu biết đến tên Issa. Chikua là người đã theo “truyền thống Bashõ”tức am tường sự chân chất, lối viết thẳng sâu vào chất lượng thiền. Hàng trăm năm trước, Bashõ là một thượng thủ nâng cao hài cú từ một thể loại của những người trí thức mơ mộng trở nên một nghệ thuật cao tột trong thiền. Bashõ tán thành đường lối thi ca (kado) thay thế cho giá trị đang lên của giới phú thương và cũng theo con Đường Tao Nhã (fuga no michi), Bashõ cho đó là “ một sợi chỉ độc nhất may đời ông với nghệ thuật”. Bashõ không bị bó buộc bởi “luật tôn giáo hay tập quán dân gian” nhưng qua hài cú và hài văn ông đã xóa tan những năm tháng phiền muộn để “ theo bước chân của những bậc thầy của ” thi ca thiền và thi ca cổ điển Trung Hoa”. Bashõ luôn luôn mang theo bên mình những bản văn của Trang Tử từ đó nguồn tâm linh thiền phát khởi trong thi ca theo thể mono no aware, một cảm nhận làm tăng vẻ đẹp trực nhận trong chốc lát là sabi một thứ tâm linh đơn độc, một trạng thái trực nhận nỗi cô đơn trong thiền.Chikua cũng theo cảm nhận sống động hài hước của Trang Tử cũng phản chiếu trong nhiều thi văn của Bashõ.

Giá trị của mono no aware và sabi cũng hiện rõ trong khắp các bài thi ca của Issa. Những bài hài cú đầu của ông mang âm hưởng sâu xa Bashõ, mặc dù vậy đôi khi quay về than thân trách phận. Issa cũng như Bashõ đi học trường thi ca với bậc đại thi sĩ theo thiền sư Saigỹ, người đem đạo vị chân lý thiền vào “thi ca tự nhiên” Nhật Bản. Lời độc nhất của Issa nổi bật chỉ sau những năm thực tập hằng ngàyhấp thụ sâu xa giáo lý Phật giáo cùng thi ca cổ điển.

Đầu năm 1792, ở tuổi hai mươi chín, tự hứa noi theo con Đường Thi Ca. Ông bỏ cái tên Yatarõ và “bắt đầu một năm mới một tên mới” là Issa và sống đời ẩn dật mười năm. Cũng thời gian này thi sĩ đã thực hiện hành trình thám hiểm Nhật Bản từ mũi phía Nam đến các đảo phía Đông và Tây biển Nhật Bản. Thi sĩ đi theo mô hình “Con Đường Hẹp đi sâu vào miền Bắc” của Bashõ, Issa du hành không để giải trí hay để tìm điểm du lịch cho thế giới của ông, mà để đi tìm chính mình. “Issa ăn mày” sanh ra biết chắc chắnthi ca không thể là con đường giải thoát. Ông tin rằng một phần của con đường đó là “chỉ quán”, trạng thái thiền địnhtri giác hoàn toàn hòa nhập giữa thể và tâm, cái ta và đối tượng, không có gì là vĩnh cửuvĩnh cửuvô thường; chỉ có giây phút hiện hữuthực chất.

Trong thi ca cổ điển Nhật Bản hoa anh đào nở có ẩn ý tượng trưng nhiều hơn cái tướng đẹp của bông hoa nở vì đặc tính ngắn ngủi khi hoa mãn khai là dáng dấp tối thượng của thể mono no aware, trạng thái nở chỉ nhất thời nên vẻ đẹp trong trắng nhẹ nhàng càng có tính cách cao quí, cánh hoa mở ra dưới nắng xuân ấm hay dưới mưa phùn ngày xuân rồi buông rơì từng cánh bay lất phất nhẹ theo gió, hoa đến và hoa đi thanh thoát nhẹ nhàng không vấn vương. Hoa chợt hiện rồi hoa chợt mất. Đó là tất cả hình ảnh tượng trưng của vô thường mà biết bao nhiêu giấy mực viết thành những hài cú cuả Basho và Issa. 

Tất cả những bài thơ Nhật Bản về anh đào nở thường thường biểu lộ giáng tiếp dấu vết bất hạnh, ngay khi hoa nở đã biết hoa sẽ tàn. Chỉ đang sống đây thôi là có thể tán tụng vẻ đẹp khi đó. Hoa nở nhắc rằng đời sống ngắn ngủi của vạn vật và chính con người cũng trong vòng vô thường ấy mà thôi.

Chỉ đang sống đây thôi ! 
diệu kỳ thay trong bóng 

hoa anh đào nở rồi! 

Just being alive !
-miraculous to be in

cherry blossom shadows !

 *

Haya sabissi (cô đơn đã hiện diện)”. Issa đã nói vậy. Đã có cô đơn trong ngay phút đầu tiên khi hạt giống vừa trổ mầm. Chết và sống đã có mặt trong hạt anh đào, chết và sống đã có trong mầm gieo buổi sáng rực rỡ vinh quang, chết và sống có mặt khắp nơi trong không gianthời gian thi sĩ lang thang. Nhà thiền có câu “ Sống y như thể ta đã chết” hạt mầm của chết và sống là một .

Đơn côi vốn đã từng mầm 
mầm gieo từng hạt 

vào vườn triều nhân 

Loneliness already
planted with each seed in

Morning glory bed

 *

Hài cú như chú ý quan sát đời sống chân that và bình thường, Issa là bậc thầy phơi bầy khía cạnh không thể chối bỏ được cái tầm thường đó, không hiểu sao điệu vận thơ của ông luôn luôn truyền cảm hơn là lời nói diễn tả.

Tất cả là giản đơn , 
như chẳng còn gì hơn 

nặng ướt sương mùa xuân

Simply for all this,
as if there were nothing else 

heavy wet spring frost

Những câu thơ không gượng ép, vì tài ba của Issa là điển hình đơn giản : “Tất cả đơn giản”, không có chỗ cho phong cảnh chi tiết. Cuộc đời đau khổ côi cút của chính mình Issa cũng cho là đơn giản như sương mùa xuân ướt át đâu có khác gì hơn. Thơ Issa không phức tạp nên lộ rõ đơn giản tuyệt đối dù là ông ngầm nhận sự hiện hữu nằm trong vô thường của con người và của chính mình . 

 *

Theo âm lịch mùa xuân là dấu hiệu cuối đông bắt đầu một năm mới, vì thế ngày trước Bashõ đã gọi mùa xuân là mùa cấy bắt đầu. Issa viết về mùa xuân như sau :

Trong không Có lẽ lúc này là lúc thi sĩ thoải mái tận hưởng hương xuân nên con rùa kia cũng hân hoan với trăng xuân. 

Êm đềm tịnh dưới trăng xuân 
cả con rùa cũng 

hân hoan mùa này

Under such a calm
spring moon, even the tortoise

crows in this season !

Còn lời nào tả được đêm xuân ngắm ánh trăng chiếu tự trên cao ẩn hiện trên sườn đồi. 

Như tự trên trời
Sườn đồi ẩn hiện

Trăng xuân rạng ngời 

As if from the gods,
spring moonlight illuminates

the hillside thief

Còn giây phút nhẹ nhàng bình an nào hơn sự bình an vào thơi gian Issa hạ bút viết bài hài cú sau đây 

Ngồi đây trong đại sảnh đường 
không gian tịch tĩnh 

sương xuân lờ mờ 

In hazy spring mist,
sitting inside the great hall,

not a hint of sound 

Đề tài thơ chứng tỏ trạng thái ẩn hiện tâm tính thay đổi luôn luôn và gần như lập đi lập lại một giọng điệu buồn thảm ẩn dấu một đứa trẻ bị bạc đãi. Bài thơ sau đây hồi tưởng lại thời sáu tuổi hay bị trẻ con trong làng trêu chọc chúng hát :

Ai biết thằng mồ côi 
đứng một mình cửa chòi 

nhai ngón tay bụng đói 

Everyone knows the motherless boy
he stands alone in the door

chewing the thumb from hunger

Tự mình lại viết lại chính mình thời gian ngây thơ đói khổ cô đơn không dùng những lê thê tả chi tiết mà chỉ là những chữ tả hình đủ thẩm thấu hoàn cảnh một đứa trẻ đói đến nỗi phải nhai ngón tay khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi thương cảm. 

Để tránh những trận đòn, lại thường hay trốn trong đống củi vườn sau khuất trong góc tối, có lẽ khi ấy dáng vẻ thật khốn khổ cô đơn thật đáng thương. Mất mẹ nên ông nghĩ con chim sẻ cũng mất mẹ khốn khổ như mình và đem lòng thương con chim muốn chim có bạn nên tha thiết gọi chim đến chơi. Không than van nhưng ẩn trong ý thơ đứa bé mồ côi chỉ có bạn là con chim sẻ cũng mồ côi như mình

Con se sẻ bé của tôi 
bé giờ mất mẹ rồi 

xuống đây chơi với tôi 

My litlle sparrow, 
-you too now are motherless 

come play with me !

Trong “ Mùa Xuân của Đời Tôi “ (Oraga baru), ông diễn tả niềm đau đớn của kiếp nhân sinh vô thường trong những bài hài cú nổi danh, nhất là khi ông khóc cái chết của con gái ông: 

Cõi này nhân thế mù sương 
Vậy mà… Ô và vẫn vậy … 

vẫn là nhân thế mù sương 

This world of dew 
is only the world of dew-

and yet...oh and yet...

Cũng có người cho là Issa làm bài thơ này khi người con trai đầu lòng chết vì Issa không chỉ thẳng vào cái chết của con gái, thật ra không cần thiết luật sinh hoại trụ diệt của pháp Phật thì cái chết của con trai hay con gái hay của bất cứ ai thì bài thơ này của Issa đã đóng góp tuyệt vời cho mỗi hoàn cảnh mất mát khổ đau. Không kêu gào lăn lộn la khóc thảm thiết trước cái chết của con mình mà chỉ kêu lên nhân thế mù sương và chỉ mù sương đâu là cõi thật mà có và mất. 

Khi về già nhìn lại quãng đời đã qua và hiện tại thì hai cuộc đời đều bất hạnh như nhau, đều đau khổ quằn quại. Nhân thế mù sương vẫn là nhân thế mù sương. Chỉ khác là nay ông đã quán thấy được chính mình và tất cả không còn gì là quan trọng

Rọi chiếu lại tôi đây 
mặt cau có xấu xí 

cái ao cóc già này 

He glares back at me
with an ugly, surly face,

this old pond frog 

Tuy nhiên suốt cuộc đời long đong lúc nào Issa cũng tràn đầy niềm tin vào Pháp tu giải thoát cuả Đức Phật nên dù chỉ là tiếng rì rào của bụi hoa ông nghe như tiếng tụng kinh của cây cỏ như chính ông hằng thầm tụng

Sáng nay bụi tụng rì rào 
Hoa Nghiêm kinh gửi 

cho đời khổ đau 

Just the bush warbler
to sing morning Lotus Sutra

to this suffering world

 * 

Nhân sinh như những con rận bé nhảy nhót không bao giờ ngưng cho đến khi cạn kiệt sức lực. Cho đến khi biết được thế giới này là hành trình phiền não thì quá trễ, thế sao ngay từ khi bắt đầu hành trình ta không theo ngay phương pháp tu giaỉ thoát sinh tử, mà cứ nhẩy nhót lăng xăng tạo nghiệp làm gì, sao không dùng hết sức nhảy vào hoa sen, vào tòa Như Lai. Chợt hiểu ra cõi thế gian tất bật này Issa viết về con rận bé hay viết chính bản thân lăng xăng cuả chính Issa

Thật rằng phải nhẩy lăng xăng 
này con rận bé, sao không nhẩy vào

hoa sen 

If you really must
leap, my little fleas, why not

leap on the lotus ?

 *

Cho dù là đang thưởng thức trà ngày xuân trong khí lạnh vị trà như ngọt nhưng khi thưởng thức đã có nghẹn ngào của nước mắt pha trong trà, nước mắt đau khổ của đời, hay trà chưa ngọt đủ cần thêm nước mắt cho ngọt hơn. Trà rót suốt ngày xuân, nước mắt đổ suốt cuộc đời Issa. Tắm ướt Phật bằng trà, hay bằng nước mắt hay Phật ướt vì mưa xuân. Bấy nhiêu chữ nói tất cả đắng cay chua chát của kiếp người đã tưới bao nhiêu nước mắt lên thân Phật và chỉ có Phật vẫn bình an tự tại 

Tràn trề ướt Phật cả ngày xuân 

nước trà thì ngọt, 

nước mắt còn ngọt hơn 

Sweet tea and more sweet tears
flow wetly over Buddha

through the whole spring day

 *

Mùa Xuân Của Đời Tôi là công trình nổi tiếng nhất chỉ trong một năm ngẫu hứng Issa đã chọn lọc những hài cú, nhưng lại là một sáng tạo kể lại cuộc đời đã trải bao cực nhục. Ý thơ vô cùng súc tích, một tuyển tập thơ, một bảo vật thiêng liêng và cũng là một bằng chứng về thế giới phức tạp điên đảo vô định của ông.

Như Bashõ, Issa không giữ nguyên một tên mà chúng ta biết ngày nay. Đầu tiên là tên “Kobayshi Ikyo” và “ Nirokuan Kikumei”. Dù rằng thơ Issa nhiều hứa hẹn ngay từ khi còn trẻ, ông vẫn không bằng lòng với một cái tên thông dụng. Năm 1972 ông lấy bút hiệu Haiki-ji Nyudo Issa-bo. 

Mùa xuân đang đến rồi 
Yatarõ mới ra đời 

là Issa đây thôi 

With spring’s arrival
Yatarõ become reborn

as Issabo

Tuy Issa không phải là người thích những buổi lễ trà tỳ, vậy mà tên lại do ngẫu nhiên vào một buổi uống trà Issa nhận thấy bọt trà tan mau trong chớp mắt khiến ông cảm xúc liền chọn cái tên tầm thường ISSA (bọt trà) vì cảm nhận đời người cũng ngắn ngủi như bọt trà .

Sau đó trong hơn 5 năm trên đường đi khắp miền Nam Nhật Bản, Issa làm bạn với các thi nhân, khi trở về Edo năm 1778 cho ra tập tự thuật khiến ông nổi tiếng. Dầu vậy cũng không thật sự là một sáng tác như tập Mùa Xuân Của Đời Tôi, tập này cho thấy rõ ông thấu hiểu hán thi hợp tuyển cùng hài cú và đoản ca của các thi sĩ Nhật Bản.

Năm 1801 cha Issa ngã bệnh thương hàn nặng. Issa trở về Kashiwabara kịp để săn sóc cha già được một tháng trước khi cha ông qua đời. Dì ghẻ với người em khác mẹ tranh chấp di chúc và tước quyền thừa hưởng của ông. Về cái chết của người cha, thi sĩ viết trong tập thơ thể hiện rõ tình cảm cha con đã lơ là, tuy thế lời lẽ cảm thôngthương hại cuộc đời cha mình.

Hơn một thập niên, Issa sống nghèo khổ, đi đi về về nơi sinh trưởng và Edo vì tranh chấp pháp lý với người mẹ ghẻ. Đến khi gần năm mươi, ông cảm thấy cuộc tranh chấp không bao giờ dứt. Năm 1810 ông viết 

Ô ánh trăng sáng ngời 
ta hoang phí cuộc đời 

đang đi dưới trăng đó 

bốn mươi chín năm rồi

O moonlit blossom
I’ve squandered forty nine years

walking beneath you

 *

Cuối cùng, năm 1813 dàn xếp xong với gia đình Issa trở về Kashiwabara. Ông cưới một người vợ trẻ, và năm 1816 nàng sinh cho ông một đứa bé trai chỉ sống được một tháng. Đó là đứa con mà Issa viết bài thơ : “Thế giới của sương mù”. Đứa con gái sinh năm 1818, chết một năm sau đó về bệnh đậu mùa 

Đời của Issa là một chuỗi khó khăn bất hạnh. Đứa con trai thứ hai sinh năm 1820 chỉ sống được vài tháng. Năm 1822 đứa con trai thứ ba ra đời nhưng vợ Issa lại chết đau đớn vì căn bệnh phong thấp sau khi sanh và đứa con trai cũng chết sau đó vài tháng. Suốt thời gian này Issa đau khổsức khỏe yếu kém do chứng bệnh bại liệt trường kỳ. Đến năm 1810, ông tắt tiếng không nói được ông viết:

thật bực bội vô ngần !
cả ngỗng hoang lang thang

cũng còn kêu thành tiếng 

Such irritation ! 
Even wandering wild geese 

can manage to speak

 *

Có lẽ chỉ là chứng động não nhỏ nên thi sĩ hồi phục lại. Hẳn muốn xóa tan những năm tháng phiền muộn, ông lấy vợ lần nữa vào năm 1824. Ông chọn người vợ mới là người đàn bà trong một gia đình võ sĩ đạo cao sang địa phương. Rõ ràng nàng kết hôn vì nhắm vào cái nhà của ông và gây khổ thêm vào cuộc đời đã tan nát bất hạnh của ông. Nàng trở về nhà cha mẹ chỉ sau vài tuần lễ cưới. 

Issa lại bị bệnh bại liệt trở lại khi đến viếng chùa Zenkõ, rồi ở lại một thời gian để chữa trị. Khi bệnh thuyên giảm ông viết:

Tôi như màng bụi mỏng tơ 
nhẹ như tờ giấy 

màn che muỗi trời 

I, too, made of dust-
thin and light as the paper

mosquito curtain

 *

Không ghi rõ ngày tháng, ở tuổi sáu mươi bốn ông lấy vợ lần thứ ba. Nhưng những năm sau đó nhà ông bị cháy rụi tới nền. Vì giữ thể diện hay vì muốn sống thoải mái cố vượt qua thảm họa cuối cùng, ông từ chối không muốn trú ngụ với bạn và môn sinh, Issa cùng người vợ đang có mang dọn vào sống nhiều tháng trong một cái kho hàng nhỏ không có cửa sổ không có cả lò nấu. 

Issa chết thình lình vào ngày 19 tháng mười một năm 1827, không được thấy mặt đứa con sắp chào đời và đó là người con gái duy nhất sống sót.

Hai bài thơ như là hai bài thơ cuối cùng của Issa, đã tìm thấy dưới gối của ông 

Món quà Tịnh Độ tạ ơn 
tuyết rơi cả đến 

chiếu nằm trải lên 

Gratitude for gifts
even snow on my bedspread

a gift from the Pure Land

 *

Ông cố ý lưu lại bài thơ trên như lời cuối, nhưng sau cái chết của ông bài thơ thứ hai là bài thơ chết khác có thể thật là bài cuối cùng của ông 

Từ trong lòng chậu sinh ra 
chết trong lòng chậu cũng là như không 

sao mà bá láp rỗng không 

From birthing’s washbowl 
to the washbowl of the death-

bathering nonsense !

Cũng như những bài thơ trước, bài thơ này thu hút nhiều người đọc. Nỗi đau khổ triền miên của nhân loạithế giới si mê đã khiến thi sĩ kết luận chua cay chính đời mình bằng chữ nghĩa chăng. Có lẽ tâm của Issa thâm nhập cái ngã tự rỗng không trong kinh của Phổ Hiền Bồ Tát, tất cả “rỗng không vô tướng” thì cái ồn ào si mê bao quanh không cần thiết vì ngay khi sinh đã có diệt 

Tình cảm cuộc đời nặng nề quằn quại, hơn nửa đời người lạc lỏng tha hương và bị ruồng bỏ phải tự đi suốt con đường đời đầy thử thách, những vết khốn khổ cắt sâu vào tâm khảm khó quên, thế mà những bất hạnh đó đã tôi luyện cho Issa cho một can đảm phi thường đối đầu với bản án nhân quả. Thời bấy giờ một thi sĩ sống gò bó mang cảm súc cả một đời lận đận vào thi ca bàng bạc thiền là một điều rất hiếm, thế gian này có gì là hoàn hảo đâu ông viết :

Đi tìm khắp cả nhân gian 
tìm đâu cho thấy giọt sương vẹn toàn 

dẫu tìm trên cánh sen hồng 

Searching all this world
there is no perfect dewdrop

even on the lotus 

 *

Niềm chung thủy của Issa trong thi ca như con đường giải thoát cần phải kinh qua tương tự như Đỗ Phủ, Lý Bạch , Saigỹ và Bashõ. Issa tỏ ra coi thường chức vị, đi lang thang ngoài đường phố Edo trong manh áo rách rưới . ông nổi danh về hành động cũng như những thơ văn của mình vậy. Có một lần, một nhà quý tộc quyền hành nhất tỉnh thành mời đến để bàn bạc về nghệ thuật thi ca với Issa. Issa nhìn thẳng vào mắt ông ta và trả lời rằng ông không thể hạ thấp nghệ thuật của ông xuống cùng hạng với những tay chơi tài tử. Nhưng với những người khác ông lại là một người lập dị dễ thương. Trẻ con tôn sùng ông như một thi sĩ đại diện cho những con chim nhỏ, những con sâu con và những cánh hoa của bốn mùa.

Như Bashõ thơ Issa bàng bạc thiền và được kính trọng trong hầu hết ở mọi cấp bực 

Có rất nhiều “ đài kỷ niệm Issa” và “bia hài cú “ thơ của ông cho thế hệ mai sau; nông trại xưa nơi ông ra đời ở Kashiwabara được bảo tồn .
 
 

Ba Tiểu Phẩm

ĐÓN NĂM MỚI

Ngày xưa, trong chùa Fuko ở thành phố Tango có một nhà sư tu hành rất nhiệt tâm. Sư quyết định đón mừng ngày đầu năm mới thật toàn vẹn. Sư viết một lá thư vào chiều giao thừa và đưa lá thư cho một tăng sinh dặn phải trao lại cho ông ngay phút đầu tiên buổi sớm mai ngày đầu năm.

Vị tăng sinh thức dậy khi ánh sáng đầu tiên của năm mới có tiếng quạ kêu sớm nhất, cái bóng đen ngả dài lướt theo sau mỗi bước chân vị tăng sinh lom khom rón rén đến gõ cửa phòng nhà sư.

Giọng Sư từ bên trong vọng ra hỏi 

“ Ai gọi cửa đó ?”. 

Tăng sinh thưa “Người đưa tin mang lời chúc tụng đầu năm từ Đức Phật A Di Đà trên Niết Bàn”.

Cửa phòng nhẹ kéo sang bên, Sư chân không tiến đến mời tăng sinh vào và mời ngồi lên chiếc gối danh dự. Sư quì xuống cúi gập mình nhận thư mở ra đọc: 

Buông bỏ thế gian khổ đau ! Trở về Niết Bàn
Ta sẽ gặp con dọc đường với các vị Bồ Tát hướng dẫn con ! “

Hai hàng nước mắt nhà sư rơi đầm đìa cho đến khi ướt sũng hai cánh tay áo.

Lướt qua câu chuyện này có vẻ thật lạ lùng Ai mà muốn đón mừng năm mới với hai cánh tay áo đẫm nước mắt, cuối cùng nước mắt đó là tự cảm nghiệm do chính những lời tự viết trong lá thư như nhắc nhở. Tuy nhiên nhà sư đã thực hành thật đúng: bổn phận chính của ông là mang pháp Phật giảng dạy cho thế gian thì còn cách gì hay hơn là đón đầu năm mới bằng cách đó?
 

Còn tôi , tôi hãy còn mặc áo quần bụi bặm của thế gian đau khổ đón ngày đầu tiên của năm mới theo lối của tôi. Và cũng như nhà sư, tôi tránh mừng năm mới theo lệ thường như mọi người. Nào là hạc là rùa tượng trưng cho những lời chúc rỗng tuếch, những nghệ sĩ đến xin những lời chúc tụng của kẻ giầu sang cũng rỗng tuếch. Cây thông là phong tục đầu năm sẽ không dựng cạnh cửa nhà, tôi không quét bụi, sống trong cái chòi nhỏ xíu luôn luôn bị gió Bắc khắc nghiệt đe dọa thổi xập. Tôi đặt tất cả vào bàn tay của Phật như trong truyện cổ tích vậy.

Con đường trước mặt có thể nguy hiểm, sâu như những lối mòn ngập tuyết loanh quanh trên núi cao kia, tuy nhiên tôi đón chào năm mới như vậy đó

Năm mới là lễ chào mừng
Tôi đây như vẫn bình thường đón xuân

 
 


CHÚ TIỂU TAKAMARU.

Một buồi sáng mùa xuân thật đẹp, chú tiểu tên Takamaru mới được mười một tuổi, cùng sư huynh Kanrỹ rời chùa Mỹsen. Họ dự định đi hái một vài loại cỏ và hoa nhân sâm. Nhưng chú tiểu trượt chân trên một thanh cầu gẫy và nhào xuống con sông nước giá lạnh đang chảy siết, nước dâng cao vì tuyết đang tan từ núi Lizuna.

Nghe chú tiểu kêu cứu, sư Kanrỹ lao xuống dòng nước, nhưng ông không làm gì được. Cái đầu Takamaru nhô lên rồi biến mất. Cánh tay giơ ra trên dòng nước cuồn cuộn. Nhưng rồi tiếng la thất thanh của chú tiểu nghe như tiếng vo vo của những con muỗi đồng thời chú biến mất theo dòng sông; chẳng còn gì chỉ có hình ảnh chú in sâu vào mắt sư Kanrỹ.

Chiều hôm đó, bao nhiêu ngọn đuốc sáng rực theo dòng sông để tìm Takamaru. Cuối cùng xác chú được tìm thấy kẹt giữa những tảng đá, và quá trễ không ai cứu được chú.
Khi mang xác chú lên họ tìm thấy một nắm hạt đậu bơ trong túi áo, có lẽ đó là quà của cha mẹ cho chú. Ngay cả những người không hay khóc cũng nước mắt đầm đìa ướt cả hai cánh tay áo. Người ta đặt thân thể chú lên tấm khiên tre mang về nhà. Tối hôm đó mọi người đứng nhìn với niềm thương cảm khi cha mẹ chú hớt hãi chạy đến từ cánh đồng xa, nhìn thi thể con trai khóc những giọt nước mắt sót thương đau khổ

Thật ra như những tín đồ theo lời giáo huấn, họ luôn luôn thuyết giảng về đời sống khốn khổ này, nhưng ai có thể làm khác hơn để tránh sinh tử ? Tất cả mọi trái tim của con người tan nát bởi tình yêu con bất diệt của mẹ cha. Có phải khi chú Takamaru rời nhà lúc sáng sớm, chú hãy còn sống và cười nói, vậy mà chiều nay thì.......

Chiều nay chú tiểu nằm bất động lạnh lẽo. Hai ngày sau, đám táng của chú.

Những cánh hoa đã nở ra đón mùa xuân ấm áp sau bao nhiêu tháng tuyết đông có khóc nhiều như cha mẹ Takamaru khi biết là con người có thể hái hoa ném xuống và đốt bất cứ lúc nào. Hoa có đời sống chăng? Hoa có như chúng ta nhận thức được là có niết bàn đợi chờ

Tôi nghĩ chưa một lần
ném hoa tươi mùa xuân

vào vầng khói mù đặc

đứng nhìn khói lên cao

trên mây khói tan vào 

CÂY HẠT DẺ

Khi đến thăm cánh rừng trên ngọn núi Thiên Sơn làng Rokugawa trong khu vực Takai, tôi hái ba hạt dẻ mang về gieo xuống góc vườn sau nhà. Mầm non xanh tươi chồi lên vào mùa xuân đó, trông thật tươi mát dưới nắng ấm.

Ít lâu sau, người hàng xóm ở phía Tây khu vườn sửa lại căn nhà của anh cao hơn che khuất mặt trăng lẫn mặt trời. Năm đó cây hạt dẻ lớn chậm.

Suốt mùa đông, anh hàng xóm lại xúc tuyết từ trên mái đổ xuống phủ đầy quanh căn nhà cho đến khi trông như một ngọn núi tuyết khổng lồ hiện ra trong có một đêm. Trong con hẻm hẹp họ đi qua đi lại mang củi sưởi và nước uống lên tầng trên căn nhà. Những bước chân dậm đi dậm lại làm thành những bậc thang rắn chắc như xây bằng đá tảng mang từ núi Atago. Đến cuối đông, dấu hiệu vui tươi đầu tiên của mùa xuân rải những nụ non xanh tươi khắp cả cánh đồng, cây bắt đầu trổ lá đơm hoa. Đống tuyết khổng lồ vẫn sừng sững, trắng toát và lạnh băng.
Ngày mùng 8 tháng 4 ngoài vườn những con chim hót líu lo liên hồi. Theo tục lệ tôi sửa soạn giấy mực làm thơ. Khi ra vườn tìm cây hạt dẻ tí hon bị chôn dưới tuyết tôi chỉ tìm thấy cành gẫy. Cây có phải là người không?. Tôi cố chăm sóc cho cây không gục ngã, đến cuối năm có vài chiếc lá nho nhỏ lú ra và cây vươn cao lên được một đoạn.

Rồi mùa đông năm đó và những mùa đông sau đó đều đặn núi tuyết lại hiện ra trong có một đêm rồi cây hạt dẻ đáng thương lại bị đè bẹp dưới sức nặng của tuyết. Như vậy trải qua bẩy mùa đông. Tiếc thay cây hạt dẻ không bao giờ có hoa và cũng chẳng bao giờ có trái mà cũng không chết. Hầu như khôngđời sống cho cây hạt dẻ. Có phải kiếp người cũng trường kỳ đấu tranh để đứng vững trên thế gian này. 

Cuộc đời của tôi cũng gần giống như cây hạt dẻ của tôi. Khi mới sanh ra, mới chớm nở trong gia đình, tôi đã bị đẩy ra ngoài để tự sinh tồn giữa những cỏ dại đang vươn cao, tiếp nhận ngọn gió nghiệt ngã của ngọn núi mẹ ghẻ. Tôi không còn nhớ là tôi có được một ngày vui hưởng tự do dưới trời rộng thênh thang. Không biết bao nhiêu sợi tơ chịu đựng được đan suốt năm mươi bẩy năm dài đăng đẳng. Tha thứ cho tôi cây hạt dẻ ơi! Tôi không cố ý gieo cái hạt xuống sau vườn nhà để chia xẻ với tôi cái nghiệp không hạnh phúc trong kiếp này!!!.

Sống sót mầm non 
dưới bóng cây con

xin nơi nương tựa

Mẹ cây cao hơn.

Phật dậy rằng tất cả những sự kiện đều bắt nguồn từ nghiệp quả. Vậy thì cuộc đời đau khổ của tôi không thể ngoài luật định đó. Có phải tôi đã tự tạo ra đấy thôi. 

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15581)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14055)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12979)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55114)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9172)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14447)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14166)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14208)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36323)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18168)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19158)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20292)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17641)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31536)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14695)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46177)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35945)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21051)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23402)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19492)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20195)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18373)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19845)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19534)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33421)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34485)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54527)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37729)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17889)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27446)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23040)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17924)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14475)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21985)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14370)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15402)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14997)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12700)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12517)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13198)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15422)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12871)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21655)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11283)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22734)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15087)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14951)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46192)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22460)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12622)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18908)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14740)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43867)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56975)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13842)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47504)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13660)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29015)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33321)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38389)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12532)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant