Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghe tiếng hoa khai

12 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13477)
Nghe tiếng hoa khai

Lâu lắm rồi, ít nhất cũng từ sau thời kỳ tiền chiến, người ta mới gặp lại một câu thơ có vẻ cổ điển, nói chung là xa lạ với thi tứ bây giờ, cái cách mở đầu một tứ thơ chẳng có gì hiện đại: Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ!

Phải thôi! Đó là câu thơ của một ông già, lại là một nhà sư. Người được nhuốm cái không khí thiền vị như nhà sư Mãn Giác (1927-2006) thì mở đầu một câu thơ như thế chẳng có gì lạ, vì đó là một nhà sư thi sĩ. Thi sĩ thì luôn có cái nhìn tinh tế, cách nghĩ khác người, chẳng có gì ngạc nhiên khi thi sĩ viết tiếp câu mở đầu ấy bằng cụm từ “nghe tiếng hoa khai…”


Nghe được tiếng hoa khai, kể cũng mới lạ đấy! Thơ mà! Khối người thấy được màu thời gian, ngửi được hương của nắng, nếm được vị của mây… Nghe được tiếng hoa khai cũng chỉ là chiều kích sâu xa của tâm hồn thi sĩ. Nhà thơ Huyền Không Thích Mãn Giác đã thức dậy và cảm nhận mùa xuân đến bằng một trình tự ngẫu nhiên ngẫu nhỉ, không phải là cái nhìn thấy, mà là sự bừng ngộ.

“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ
Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình”

Không có chữ nào trong hai câu trên là đặc biệt cả, nhưng cái giật mình bất chợt lại làm cho bốn chữ “nghe tiếng hoa khai” trở thành hình ảnh độc đáo nhất trong thi ca Việt Nam.

Chẳng hạn nhà sư viết: nghe tiếng hoa khai ở cuối thềm, câu thơ có thể đẹp nhưng chưa phải hay. Hay chưa đủ, nhà thơ mở cửa bước vào mùa xuân bằng thái độ của một con người, con người vừa giật mình sau một hơi thở tinh tế nhất của mùa xuân:

“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ
Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình
Sáng nay thức dậy choàng thêm áo
Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”

Tôi chợt nhớ một tứ thơ của Trần Nhân Tông (1258-1308), cũng là một thiền sư thi sĩ:

“Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn sấn hoa phi”
(Xuân Hiểu)

Tạm dịch:
(Thức dậy nhìn ra cửa sổ
Mới hay trời đã xuân đầy
Ô kìa một đôi bướm trắng
Nhịp nhàng hướng nụ hoa bay)

Hai thiền sư thi sĩ Việt Nam, cách nhau nhiều thế kỷ đã gặp nhau trong một tứ thơ: thức dậy mới hay xuân đến. Nhưng Trần Nhân Tông chỉ dừng lại để ngắm xuân, còn nhà sư Mãn Giác đã khoác áo để bước vào xuân:

“Sáng nay thức dậy choàng thêm áo
Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”

Trình tự của bài thơ có phần đảo nghịch. Đúng ra là thức dậy, choàng thêm áo, nghe tiếng hoa khai, giật mình… mới hay xuân đến. Cái trình tự ấy, mười thế kỷ trước có một thiền sư thi sĩ trùng đạo hiệu (Mãn Giác, 1052-1096) đã cảm nhận trong thi kệ bất hủ Cáo Tật Thị chúng. Sự gặp gỡ mùa xuân trở thành nền tảng tâm linh bất tuyệt của những tâm hồn nhạy cảm. Một Thôi Hiệu của Đường thi chỉ ngơ ngác thấy gió xuân cười với hoa đào năm trước (Đào hoa y cựu tiếu đông phong – Đề thành tích sở kiến). Mãn Giác thiền sư thì an trú trong “một nhành mai” giữa xuân đến xuân đi hay hoa khai hoa rụng. Trung Niên thi sĩ Bùi Giáng thì như một kẻ thỏng tay vào chợ chào đón nguyên xuân giữa dặm dài lữ thứ:

“Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau”
(Mưa Nguồn)

Cũng như tất cả chúng ta, những người từng sững sờ trước nhành mai trong Cáo Tật Thị Chúng, mãi mãi vẫn chỉ mơ hồ thoáng thấy, qua ngôn ngữ, qua tâm cảm đạt ngộ của thiền sư Mãn Giác thời Lý. Nhành mai vẫn hiện hữu ở đêm qua sân trước, nhưng nó là của thiền sư chứ không phải của chúng ta. Thi sĩ Huyền Không Thích Mãn Giác nhất định phải tìm thấy nhành mai của riêng mình, nên ông đã “thức dậy choàng thêm áo”. Nếu nói theo nghĩa Giáo môn, hành động choàng thêm áo ấy có thể hiểu như là khoác “bị giáp tinh tấn” (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Nếu nói theo nghĩa Tông môn, hành động ấy có thể hiểu như là “cánh tấn nhất bộ” (bước thêm một bước nữa). Nếu nói theo nghĩa triết học, hành động ấy có thể hiểu như là “nhảy vào hố thẳm tư tương tưởng”. Nhành mai của Mãn Giác đời Lý là nhành mai của người đạt ngộ đem ra thị chúng khi bệnh. Còn thi sĩ Huyền Không Mãn Giác chỉ là một hành giả, đặc biệthành giả Việt Nam sống gần ba mươi năm trên Mỹ quốc. Giữa thành phố Los Angeles nhộn nhịp của miền Nam Cali, nhà sư đã bước vào thế giới chứng ngộ thiền cơ một cách rất Tây: choàng thêm áo. Để rồi trong giây phút thiên tải nhất thì, thi sĩ đã trực nhận được cái nguyên thủy của đời sốngthật tướng của các pháp: vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh!

“Mới tinh”, rất Tây, rất hiện đại, nhưng sự trực nhận ấy là cả một quá trình tu chứng, khởi đi từ những vần thơ “Nhớ chùa” bất hủ từ thuở còn mười tám tuổi, đến những năm du học Đông Tây, về làm Phó Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Giáo sư Đại học Văn Khoa Sài Gòn, rồi lặng lẽ xa quê hoằng pháp suốt mấy chục năm trời, cho đến ngày viên tịch. Thi sĩ Bùi Giáng có hai câu thơ thật hay viết về quê hương của Sư:

“Dạ thưa xứ huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”

Còn Hương Ngự thì Huế vẫn còn, dù cho bao triều đại đã đi qua, bao bến bờ đã thay đổi, quê hương của thi sĩ Huyền Không, Thích Mãn Giác vẫn còn nguyên vẹn trong lòng người con xa xứ. “Mái chùa che chở hồn dân tộc” trong nếp sống muôn đời của tổ tông Lạc Việt vẫn có cái gì đó cũ mềm, buồn buồn và đôi khi bi đát. Từ dòng Hương đỉnh Ngự, từ cổ độ rêu mờ, thi sĩ đã ra đi, một mình làm một cuộc lưu đày viễn xứ trong cõi bát ngát hồn mình. Và trong giây phút bình sinh hạn hữu, thi sĩ đã nhập diệu bởi một lần trực nhận thế giới huyền học của Đông phương, thế giới Hoa Nghiêm, thế giới của cung đàn bất nhị: Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh!
Đức Khổng Tử từng nói: “Thiên hà ngôn tai! Vạn vật sanh yên, tứ thời hành yên, thiên hà ngôn tai!” (Trời có nói gì đâu! Muôn vật vẫn sinh sôi nảy nở, bốn mùa vẫn tuần tự xoay vần, Trời có nói gi đâu! – Luận Ngữ). Vâng! Cái tuần tự xoay vần làm cho vũ trụ mới mẻ trong từng giây phút. Con người đã quá nhiều lời, thế sự đã quá nhiễu nhương do bị cuốn theo dòng chảy của tồn sinh mà không biết rằng bến bờ uyên nguyên sơ thủy nằm ngay tại vuông tâm. Trần Thái Tông từng viết: “Bách niên tâm ngữ tâm, vạn sự thủy lưu thủy” (Trăm năm lòng hỏi lấy lòng, sự đời muôn việc một dòng nước xuôi). Nhà sư Mãn Giác đã tự hỏi lòng mình giữa bao thăng trầm thế sự, nên việc trực nhận thế giới thiên sai vạn biệt này vẫn mới tinh trong từng giây từng phút chỉ là một bến bờ cuối lộ trình tâm thức.

Chỉ một vần thơ, tên tuổi của Người đã đứng ngang hàng với bậc Thiền tăng gần ngàn năm trước mà người đời sau có thể nhầm lẫn. Tuy hai mà một, tuy một mà hai. Một mai, khi tất cả những hình danh sắc tướng kia đã chìm vào quên lãng, còn lại chăng là nụ cười gắn mãi trên môi người đạt ngộ, sững sờ khi nghe tiếng hoa khai.■

NHẤT THANH - THÍCH NGUYÊN HIỀN

Nguồn: Tập San Pháp Luân 78


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20473)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22376)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18786)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27073)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18776)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19998)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38113)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20182)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28361)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46418)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15487)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65747)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13774)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18690)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15574)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14605)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18763)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12664)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17686)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25524)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38765)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17734)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11271)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18673)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17449)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13256)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13353)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17594)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24361)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12440)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13858)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13027)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12913)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14200)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14641)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21126)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22666)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29999)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13909)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18284)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17101)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12663)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30765)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22839)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14677)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13027)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12781)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12539)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13083)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16354)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15258)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23862)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16218)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29049)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20316)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15593)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37298)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45086)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36958)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant