Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một cành mai

07 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14889)
Một cành mai


blank
Không phải nhánh mai của "Đêm qua sân trước một cành mai" ("đình tiền tạc dạ nhất chi mai"), cành mai thanh cao đạo vị mà từ cổ chí kim, văn chương thơ phú thiên kinh vạn quyển đã thường nói rất nhiều: Cành mai của tôi quê quê, không hiểu sao mỗi lần ngắm nó, tôi lại thấy như thế, dù nó… "Tây", nó "Tây" mà quê. Nó "Tây" chỉ vì nó… ở bên trời Tây, không ở bên xứ mình, thế thôi.

Thật tình nó không "Tây" hay "như Tây" theo nghĩa người mình hay tấm tắc những chi sang đẹp đắt tiền, hiếm hoi, cao quý không có ở xứ mình. Nghe đâu nó còn có xuất xứ từ phương Đông nữa kia, trôi dạt thế nào mà qua tới tận bên Tây thì còn phải tra cứu cho ra.

Tôi cho nó "quê" vì nó mộc, không giấu giếm e thẹn hay kiêu sa trang đài như những bông hoa khác, nó đơn giản bình thường, tầm thường đến không ai để tâm chú ý (chỉ trừ nhà thơ hay ông thợ vườn thượng uyển muốn có đủ các loại hoa dưới trời), thân phận nó cũng từa tựa như phên dậu mồng tơi nơi vùng quê xa lắc, vướng vất một chút "sắc quê" của Nguyễn Bính khi nhìn cô hàng xóm.

Nhưng cành mai của tôi không phải ở bên láng giềng phía đông và trước khi hoa ấy là "cành mai của tôi", thì nó đã nở tràn khắp trời Tây, từ thôn quê đến thành thị, bồng bềnh đâu đó vô định trên những con đường tôi đi qua, những khi tuyết giá cuối cùng bị đuổi hết, tháng Tư cáu kỉnh với mưa tuyết cũng vừa rũ sạch rừng cây trơ trụi. Một sáng ấm trời đi trớt qua vườn nhà ai - mấy mươi năm cũng vẫn cái cảm giác bất ngờ - lóa mắt màu vàng óng ả.

Màu vàng thì giống "mai mình" y chang, tuy có chút chói lói hơn, rực rỡ lồ lộ chứ không nghiêm trang chừng mực như mai của cụ Tiên Điền, nhưng cũng đủ làm cho trái tim tha hương mấp máy nhớ mùa xuân quê hương. Có điều "mai Tây" của tôi thật sự lại nở rộ vào tháng Tư tháng Năm, mới là sai quấy.

Ai bên mình nghe nói chắc cũng mỉm cười, bảo mai của tôi là "mai lai" nếu không là… "mai xạo"; tháng Tư, tháng Năm cây mai bên nhà đã say nắng hè, lá xanh non đổi màu lục bạc trước khi ngả sậm màu cổ mai, nơi vườn mai sư bà Cát Tường hay vườn anh Lợi ở Huế, hay vườn của Vương Duy, Lý Bạch, Đỗ Phủ, có lẽ cũng như thế… ve đến núp hát vang, hoa đi từ lâu, xuân còn đâu nữa, chỉ là hè thôi.

Vả chăng bên Tây bên Mỹ dạo sau này hoa giả thịnh hành, vào dịp Tết, siêu thị châu Á bán vô số cành mai cành đào, cả cây cũng có, làm bằng giấy hay bằng vải, giống mai đào đến tưởng là hoa thiệt, lại thêm tiện lợi vì nó không tàn, làm chi mà có hoa mai vào thời điểm bên mình ăn Tết, bên ni lạnh đến tê người. Ai hoài hơi và có thì giờ mà chơi mai thiệt trong ngày Tết, cái ngày không có trên tấm lịch bên Tây! Và mọi người vẫn cứ lúc cúc đi đến sở làm từ sáng đến tối vào ngày mồng một Tết. Làm chi mà mai với mốt!

Vậy cái tên "mai" chắc là nhìn lạm. Nhưng thưa không. Nếu tính theo tiêu chuẩn thời gian thì cành mai của tôi nở đúng vào dịp Tết bên mình, chắc chắn đến 99%, trừ sự cố con người bỏ quên hay vô tình, dĩ nhiên không kể đến điều kiện thiên nhiên bất ngờ, còn ngoài rachắc chắn đến nỗi, cái câu mà trong đó có một chữ con người thường coi nhẹ, "Có tình… một chút thì có mai nở" trở nên chắc nịch như một định đề, nhưng để chắc chắn hơn xin thêm cho chữ "nếu" ở đầu câu. Và là mai thiệt, có nghĩa mai nở rồi tàn chứ không xơ cứng trơ gan đứng trong kho chờ dịp Tết khác được chưng ra.

Phải có tình và có một chút duyên chi đó, mai của trời Tây mới chịu nở cho riêng mình.

Cái duyên thì như một lẽ tình cờ, như Nguyễn Bính có "nhà nàng ở cạnh nhà tôi" với dậu mồng tơi xanh rờn thuở nào, như tôi gặp may biết được sự hiện diện của loài hoa ấy ngay từ khi chân ướt chân ráo đi đến xứ người.

Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.

Dịp Tết bên mình thường rơi vào cuối tháng Giêng đầu tháng Hai bên Tây, trời cóng rét dữ, cây cỏ trơ trụi cứng còng, đừng nói đến hoa, vạn vật như chìm trong cõi chết. Trong khung trời lận đận tuyết phủ sương che ấy, tấm thiệp chúc Tết lấp lánh một cành mai vàng trên nền giấy hoa tiên đỏ từ quê nhà rơi vào tay. Tấm thiệp đơn sơ chứ không lòe loẹt rực rỡ như thiệp chúc Tết ngày nay, nhưng đóa hoa lung linh sương đọng bỗng làm tim ngưng vài giây vì nhớ, nhớ Tết ở nơi quê, nhớ không khí ấm cúng gia đình, nhớ mai vàng huyền hoặc trong khói pháo tống cựu nghinh xuân…

Tôi mang tấm thiệp vào lớp học tiếng Đức khoe với mọi người. Dịp hay trong giờ đàm thoại, ông thầy bắt sinh viên đến từ các nước kể về phong tục của nước mình. Tấm thiệp đã cứu tôi có đề tài hay để nói: Tết Việt Nam.

Không biết dạo ấy tôi có sa đà quan trọng hóa cành mai ngày Tết hay không. Có lẽ! Ai xa quê mà không sa đà khi nói chuyện quê hương? Cũng không nhớ mình có chảy nước mắt nhớ nhà, mít ướt?

Hai tuần sau đó, đúng vào mồng một Tết, tôi nhận được một cành hoa gửi đến, na ná như mai, cành khẳng khiu màu nâu đất (lại giống cành đào hơn mai), hoa bốn cánh màu vàng tíu tít. Tuy nhánh cành không cốt cách khổ hạnh thanh cao, hoa không ung dung quý phái như mai lạnh vườn xưa, nhưng màu vàng thuần chất làm sáng gian phòng nhỏ hẹp, bất ngờ ra vẻ xuân. Cái Tết đầu tha hương như nhẹ đi một chút cô độc.

Từ đó thành ra duyên nợ với loài hoa mà thoạt đầu, tên hoa vừa nằm trên chót lưỡi là đã bị quên ngay, như một thoáng gió phớt nhẹ chuyền qua kẽ răng rồi mất tăm. Tôi tạm gọi nó là "mai nhớ". Dù bôn ba nay đây mai đó nhiều năm, chuyển nhà đi nhiều nơi, hầu như hoa vẫn nhớ theo người. Nó "quê" là ở chỗ ấy, dễ dãitrung thành vì nó mọc khắp nơi, trong rừng, trong công viên, nơi hàng rào hàng xóm, trên đường đi dạo, bên cạnh nhà. Nó là loài hoa bụi, mọc sung mãn, mọc um tùm, không cần phải chăm nom tưới bón cho nhiều. Khó mà quên nó, nhưng đón nó vào nhà trong dịp Tết dễ mà không dễ, bởi trái mùa hoa.

Tôi đã nói rồi, cần có chút tình, không phải tình yêu tình phụ kiểu "người yêu ta xấu với người, yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau" oái ăm, mà là "chí tình", có nghĩa chịu thương chịu khó, hiểu thấu tính khí của hoa, gia công học hỏi tìm tòi từng kinh nghiệm nơi bạn bè rành phong thổ, yêu thiên nhiên, rồi tự mình ra sức chân thành với tâm vô ngại. Ui chao nói dễ mà không dễ chút nào.

Đừng ngại mà cũng đừng chần chờ, - ngại lắm chứ khi đứng trong nhà nhìn tuyết cao hơn thước ngoài vườn, còn chần chờ thì như là lý đương nhiên vì có chi gấp gáp đâu, Tết ở bên Tây có thể lặng lờ qua mà chẳng ai biết, nỏ ai hay - hình như mỗi năm vào dịp ấy tôi thường giật mình nhắc tôi hơn ai hết đừng quên mà lỡ độ mai khai vào dịp Tết bên mình nơi cái xứ không có ngày Tết ấy. Nhiều sớm qua mau, nhiều tối chuồn thẳng lặng lờ đến khi nhớ ra thì ôi thôi rồi…

Cỡ chừng hai tuần trước Tết ta, trước cữ trà sớm, dù cho tuyết ngập quá đầu gối, cũng phải tự thắng cơn ngại ngùng, lội tuyết ì oạp đi ra vườn tìm bụi mai đang cóng buốt trong sương. Chọn cành nào có nhiều nhánh con sây nụ, dù nụ hoa còn ẩn kín trong cành, người sành thì biết. Cành càng sần sùi không trơn tuột sẽ càng mang nhiều hoa. Cành đem vào nhà còn lạnh lắm, không vội, phải để cho nó hoàn hồn trong phòng, tỉa bớt những nhánh khô trước khi cắm vào bình với nước âm ấm, ngập miệng bình, tùy theo bình mà chọn độ dài của cành hay tùy theo cành mà chọn bình cho hạp. Rồi chờ… Chỉ có thế thôi.

Tôi đã viết một lần đâu đó, biết chờ là một nghệ thuật. Cũng đã từng nghe những câu chuyện chờ hoa quỳnh như huyền thoại hoa nở. So với quỳnh hoa cao xa siêu thoát như tiên, mai của tôi mới thật là quê mùa cục mịch, ấy thế mà cuộc chờ mai nở cũng có nhiều điều tương tự như một thứ "đạo chờ hoa" hay một công án cho chính người chờ hoa.

Thoạt tiên là nỗi nghi mơ hồ, không biết mai có nở thật cho mình đúng dịp, dù kinh nghiệm quá khứ "đầy mình" đã chắc chắn là như thế. Nói là lý thuyết chứ không nghi sao được khi hiện tiền trước mắt những cành nâu gầy guộc khô khan đứng lơ ngơ trong lộc bình. Rồi lo sợ dấy lên khi đã mấy ngày không thấy một dấu hiệu nào nơi cành hoa ấy. Rồi sự nóng lòng hàng sớm mai, mới mở mắt việc đầu tiên là đến quan sát từng li những dấu vết u lên sần sùi trên cành hoa trong khi châm thêm nước vào bình. Sự bí nhiệm vờn quanh những nhánh cây làm tăng nỗi lo âu, lo nhất là hoa tịt ngòi thì khốn. Rồi một lúc nào đó, bỗng bắt gặp mình khấn vái trời Phật cầu cho hoa nở với lời chí thành. Và trong tất bật bận rộn của một ngày có lúc thấy chân mình gấp gáp về nhà xem sao. Bỗng có đêm không ngủ, thao thức cầu nguyện cho hoa nở hết. Dạo sau này có lúc đâm ra bói toán, thay vì bói Kiều, tôi bói hoa cho năm mới, nếu hoa nở hết là năm hên… mà hoa không nở thì… ui chao dễ sợ. Vẫn y nguyên những hồi hộp rối bời không chữa được trong cuộc chờ…

Cho đến mươi ngày sau, một sớm không ngờ, vảy cây nứt ra, lú nhú xuất hiện những búp xanh với tí chấm vàng trên đầu. Từ giây phút ấy sự đợi chờ như được đền đáp còn hơn mình tưởng. Không có gì ngăn được nữa, những nụ vàng mơ như những chiếc kén bò tràn trên cành, thoạt tiên nhón gót mảnh khảnh run run chưa vững. Nhưng không còn lâu, bỗng như được hóa thân, bốn cánh hoa màu vàng sáng bật ra rộn ràng đồng loạt đến tròn mắt sững sờ.

Không nở thì thôi, chứ khi nở thì hết mình, không có búp nào bỏ sót, ngay cả nơi chót vót của cành, tưởng không còn sức, thế mà nụ hoa cũng bắn ra mạnh dạn, chỉ chừa hai ngọn lá non duy nhất ở đầu cành. Năm nào cũng thế, cành mai nở hết lòng, chân thành hồn nhiên, đem lòng tin trở lại cho tôi.

Mẹ tôi cười "ừ há, cũng giống mai thiệt bên nhà", con tôi reo "bông đẹp quá" khi tôi sửa soạn thắp nến, dâng hoa cúng Phật vào ngày mồng một Tết. Năm nào cũng thế. Riêng năm ni thì…

Mưa bấc sáng 30 Tết vẫn còn bay, chén trà thơm hương mộc tôi đang uống ở gần Ngự Viên, nơi Nguyễn Bính đã từng "ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên". Tôi thì không nhớ Ngự Viên. Trong không khí rộn ràng đón Tết của "người mình đây" (tiếng Huế), giữa những rừng mai thiệt được uốn éo mỹ thuật cầu kỳ cùng muôn hoa đua sắc trong chợ Tết, tôi nghe nhớ chi lạ một cành mai - mà hình như suốt mấy mươi năm chưa bao giờ nó biết nó là mai - ở xứ người.

Tôi muốn gọi nó một lần thật rõ bằng tên của nó: Forsythien(1), gửi vào trong gió Ngự Viên.

Thái Kim Lan

(1) Forsythien: còn có tên "Goldflieder" (hoàng đinh hương) là một loại hoa vàng bốn cánh tương tự như hoa mai, cây mọc thành bụi rất được ưa chuộng để làm hàng rào ở châu Âu, hoa nở trước khi có lá, giống loại mai Á đông. Cây cũng có nguồn gốc từ châu Á.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15581)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14054)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12978)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55114)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9172)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14445)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14166)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14208)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36323)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19157)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20290)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17640)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31536)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14684)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46176)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35944)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19490)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20194)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18373)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19845)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19533)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33417)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34482)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54524)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37729)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49659)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27445)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23040)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17924)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14474)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21984)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14370)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15402)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14997)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12700)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12516)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16242)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21652)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22732)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14949)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46191)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12621)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14739)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56974)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13841)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47504)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13659)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14577)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33320)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38388)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12532)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant