Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi

05 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15777)
Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi

KINH ÐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN 
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh

QUYỂN THƯỢNG
Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi 

Chí Tâm Quy Mạng Lễ:

U-Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát.
Lạy đức từ bi đại Giáo-chủ!
'Ðịa' là dày chắc- 'Tạng' chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,
Mây xinh, mưa báu số không lường.
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường,
Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa-Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên,
Ngợi khen Ðịa-Tạng đức vô thượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn,
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh,
Tay
cầm châu sáng tròn vìn,
Hào quang soi khắp ba nghìn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền,
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn.
Ðịa-Tạng Bồ Tát thượng nhơn, Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát. (Câu chót 3 lần)

Bài Tán Nguyện Hương

Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh-Văn
Và cả thảy Thánh Hiền.
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi
Xông khắp các chúng sanh
Ðều phát Bồ-đề tâm
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
Nam-mô Hương-cúng-dường Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 Lần)

Bài Văn Phát Nguyện

Lạy đấng Tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật,
Nay con phát nguyện rộng
Thọ trì kinh Ðịa-Tạng.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam-đồ,
Nếu có kẻ thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm,
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc
Nam-mô Bổn-Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Bài Kệ Khai Kinh:

Pháp vi diệu rất sâu vô lượng
Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Phật.
Nam-mô U-Minh giáo chủ hoằng nguyện độ sanh:
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn-Tôn Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 Lần)

Phẩm Thứ Nhất 
Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi

1) Phật Hiện Thần Thông - Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao-Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫuthuyết pháp:

Lúc đó, bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ Tát trong vô lượng thế giớimười phương đều đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng:

- Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức 'đại trí-huệ thần-thông chẳng thể nghĩ bàn' để điều phục chúng sanh cang cường làm cho chúng nó rõ 'pháp khổ pháp vui'.

Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế-Tôn.

Bấy giờ, đức Như-Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn vừng mây sáng rỡ lớn. Như là: vừng mây sáng rỡ đầy đủ, vừng mây sáng rỡ đại từ-bi, vừng mây sáng rỡ đại trí-huệ, vừng mây sáng rỡ đại bát-nhã, vừng mây sáng rỡ đại tam-muội, vừng mây sáng rỡ đại kiết-tường, vừng mây sáng rỡ đại phước-đức, vừng mây sáng rỡ đại công-đức, vừng mây sáng rỡ đại quy-y, vừng mây sáng rỡ đại tán-thán ... Ðức Phật phóng ra bất-khả-thuyết vừng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các thứ tiếng vi diệu.

Như là: tiếng Bố-thí độ, tiếng Trì-giới độ, tiếng Nhẫn-nhục độ, tiếng Tinh-tấn độ, tiếng Thiền-định độ, tiếng Bát-nhã độ, tiếng Từ-bi, tiếng Hỷ-xả, tiếng Giải-thoát, tiếng Vô-lậu, tiếng Trí-huệ, tiếng Sư-tử hống, tiếng Ðại Sư-tử hống, tiếng Mây sấm, tiếng Mây sấm lớn.

2) Trời, Rồng.............Hội Họp - Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà và cõi nước phương khác cũng đến hội họp nơi cung Trời Ðao-Lợi.

Như là: trời Tứ-Thiên-Vương, trời Ðao-Lợi, trời Tu-Diệm-Ma, trời Ðâu-Suất-Ðà, trời Hóa-Lạc, trời Tha-Hóa-Tự-Tại, trời Phạm-Chúng, trời Phạm-Phụ, trời Ðại-Phạm, trời Thiểu-Quang, trời Vô-Lượng-Quang, trời Quang-Âm, trời Thiểu-Tịnh, trời Vô-Lượng-Tịnh, trời Biến-Tịnh, trời Phước-Sanh, trời Phước-Ái, trời Quảng-Quả, trời Nghiêm-Sức, trời Vô-Lượng Nghiêm-Sức, trời Nghiêm-Sức-Quả-Thiệt, trời Vô-Tưởng, trời Vô-Phiền, trời Vô-Nhiệt, trời Thiện-Kiến, trời Thiện-Hiện, trời Sắc-Cứu-Cánh, trời Ma-hê-Thủ-La, cho đến trời Phi-Tưởng, Phi-Phi Tưởng-Xứ. Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỉ, Thần đều đến hội họp.

Lại có những vị Thần ở cõi Ta-bà cùng cõi nước phương khác, như Thần biển, Thần sông, Thần rạch, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần sông chằm, Thần lúa mạ, Thần chủ ngày, Thần chủ đêm, Thần hư-không, Thần trên trời, Thần chủ ăn uống, Thần cây cỏ... Các vị thần như thế đều đến hội họp.

Lại có những Ðại Quỉ Vương ở cõi Ta-bà cùng cõi nước phương khác, như: Ác-Mục Quỉ-Vương, Ðạm-Huyết Quỉ-Vương, Ðạm-Tinh-Khí Quỉ-Vương, Ðạm Thai-Noãn Quỉ-Vương, Hành-Bịnh Quỉ-Vương, Nhiếp-Ðộc Quỉ-Vương, Từ-Tâm Quỉ-Vương, Phước-Lợi Quỉ-Vương, Ðại-Ái-Kính Quỉ-Vương.... Các Quỉ-Vương như thế đều đến hội họp.

3) Ðức Phật Phát Khởi - Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương tử đại Bồ Tát rằng: 'Ông xem coi tất cả chư Phật, Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỉ, Thần đó ở trong thế giới này cùng thế giới khác, nay đều đến hội họp tại cung Trời Ðao-Lợi như thế, ông có biết số bao nhiêu chăng?'.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi bạch Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong nghìn kiếp cũng không biết là số bao nhiêu!'

Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Ðến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu'.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi bạch đức Phật rằng: 'Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành chứng đặng trí vô-ngại, nghe lời đức Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng tiểu quả Thanh-Văn, Trời, Rồng tám bộ chúng và những chúng sanh trong đời sau, dầu nghe lời thành thật của Như-Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong đức Thế-Tôn nói rõ nhơn địa của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát; Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?'

Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên, cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả. Từ lúc Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát chứng quả vị thập-địa Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên, huống là những thuở Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát còn ở bực Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật!

Này Văn-Thù Sư-Lợi! Oai-thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Về đời sau, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Ðịa-Tạng Bồ Tát, hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Ðịa-Tạng Bồ Tát, thời người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Ðao-Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo.

4) Trưởng Giả Tử Phát Nguyện - Này Văn-Thù Sư-Lợi! Trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp lâu xa về trước, tiền thân của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát làm một vị Trưởng Giả tử. Lúc đó, trong đờiđức Phật hiệu là: Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai, Trưởng Giả tử thấy đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?

- Khi ấy, đức Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai bảo Trưởng Giả tử rằng: 'Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ'.

Này Văn-Thù Sư-Lợi! Trưởng-Giả tử nghe xong liền phát nguyện rằng: 'Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo'.

Bởi ở trước đức Phật Sư-Tử Phấn Tấn Cụ-Túc Vạn Hạnh Như-Lai, Ngài lập nguyện rộng đó, nên đến nay đã trải qua trăm nghìn muôn ức vô số bất-khả-thuyết kiếp, mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát!

5) Bà-La-Môn Nữ Cứu Mẹ - Lại thuở bất-khả-tư-nghị vô số kiếp về trước, lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai, Ðức Phật ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà-La-Môn, người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam-Bảo. Thuở ấy, mặc dầu Thánh Nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết thần hồn sa đọa vào Vô-Gián địa ngục.

Lúc đó, Thánh-Nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhơn quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ đức Phật Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng của đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.

Thánh Nữ chiêm bái tượng của đức Phật lại càng sanh lòng kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: 'Ðức Phật là đấng Ðại-Giác đủ tất cả trí-huệ, nếu đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào'.

Nghĩ đến đó, Thánh Nữ buồn tủi rơi lệ chăm nhìn tượng Như-Lai mà lòng quyến luyến mãi.

Bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: 'Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi'.

Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà vái rằng: 'Ðức thần nào đó mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ ngày đêm, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào?'.

Trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: 'Ta là đức Phật quá khứ Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai mà ngươi đương chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh, nên ta đến chỉ bảo'.

Thánh Nữ nghe nói xong liền té xỉu xuống, tay chân mình mẩy đều bị tổn thương. Những người đứng bên vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại rồi bạch cùng trên hư không rằng: 'Cúi xin đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!'.

Ðức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai bảo Thánh Nữ rằng: 'Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi'.

Lễ Phật xong, Thánh Nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai trải suốt một ngày một đêm. Bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia. Nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhẩy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia.

Thấy những trai cùng gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt.

Lại thấy quỉ Dạ-Xoa hình thù đều lạ lùng: hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu... răng nanh chỉa ra ngoài miệng bén nhọn dường gươm, lùa những người tội gần thú dữ. Rồi quỉ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội lại, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu.

Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.

Có một vị Quỉ-Vương tên là Vô-Ðộc, đến cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: 'Hay thay Bồ-tát! Ngài có duyên sự gì đến chốn này?'.

Thánh Nữ hỏi Quỉ-Vương rằng: 'Ðây là chốn nào?'

Quỉ-Vương Vô-Ðộc đáp rằng: 'Ðây là từng biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết Vi'.

Thánh Nữ hỏi rằng: 'Tôi nghe trong núi Thiết Viđịa ngục, việc ấy có thiệt như thế chăng?'.

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Thiệt có địa ngục'.

Thánh Nữ hỏi rằng: 'Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?'.

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Nếu không phải sức oai thần cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra ắt không bao giờ có thể đến đó được'.

Thánh Nữ lại hỏi: 'Duyên cớ vì sao mà nước trong biển này sôi sùng sục như thế, và có những người tội cùng với các thú dữ?'.

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Những người tội trong biển này là những kẻ tạo ác ở cõi Diêm-Phù-Ðề mới chết, trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, kẻ đó lại không làm được nhơn lành nào cả.

Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này.

Cách biển này mười muôn do tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ trong biển đó sắp bội hơn biển này.

Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội hơn.

Ðó đều là do những nghiệp nhơn xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy'.

Thánh Nữ lại hỏi Quỉ-Vương Vô-Ðộc rằng: 'Ðịa ngục ở đâu?'

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực kế đó có 500 chỗ đủ không lường sự khổ sở, bực kế nữa có đến nghìn trăm cũng không lường sự thống khổ.

Thánh Nữ lại hỏi đại Quỉ-Vương rằng: 'Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?'

Quỉ-Vương hỏi Thánh-Nữ rằng 'Thân Mẫu của Bồ-tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?'

Thánh Nữ đáp rằng: 'Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?'

Vô-Ðộc hỏi rằng: 'Thân Mẫu của Bồ-tát tên họ là gì?'

Thánh Nữ đáp rằng: 'Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà-La-Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi-La Thiện Kiến. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt-Ðế-Lợi'.

Vô-Ðộc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: 'Xin Thánh Nữ hãy về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt-Ðế-Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.

Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ-tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhơn Vô-Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả'.

Nói xong, Quỉ-Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.

Bấy giờ, Thánh Nữ dường chiêm bao chợt thức tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng:

- 'Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát'.

Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Quỉ-Vương Vô-Ðộc trước đó nay chính ông Tài-Thủ Bồ-tát. Còn Thánh Nữ Bà-La-Môn đó nay là Ðịa-Tạng Bồ Tát vậy'.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 229)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 507)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 496)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 469)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 540)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 338)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 457)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 798)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1128)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1450)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1178)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1099)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2310)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1508)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1785)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2181)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1895)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2602)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4742)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2634)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6314)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3250)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3050)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2900)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3676)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3176)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8081)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2842)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8492)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4399)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8121)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6705)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11188)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22816)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5245)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11734)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11366)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12565)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34595)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32747)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22159)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12506)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11848)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10357)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10835)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11796)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11690)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10917)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10687)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11385)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7191)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6525)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7225)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5729)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6416)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6013)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9364)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5897)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5876)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5634)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant