Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Hiển thể

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 16098)
II. Hiển thể


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

II. HIỂN THỂ (minh định thể tánh của kinh này)

 “Thể” là thể tánh (bản thể, bản chất). Thể tánh của một bản kinh được gọi là Giáo Thể, đôi khi còn gọi một cách tổng quát là Lý Thể. Theo đại sư Bân Tông: “Lìa hết thảy các tướng thì gọi là Tánh; chỗ hết thảy các nghĩa quy về gọi là Lý. Nghĩa trọng yếu của các pháp gọi là Thể”. Phô bày minh bạch yếu chỉ của một bản kinh, nêu rõ chỗ quy hướng của các giáo nghĩa được dạy trong kinh ấy thì gọi là “hiển thể”.

 Nói một cách khác, hiển thể một bản kinh chính là minh định chân lý sẽ được phô diễn bởi bản kinh ấy. Một bản kinh nếu không có Thể thì thành ra ma thuyết, ví như một kẻ chỉ có cái tên, chẳng có thân thể thật. Mỗi một câu, một chữ trong kinh Phật đều nhằm mục đích vận dụng ngôn ngữ, danh tự để người nghe lãnh hội được chân lý. Bởi vậy, muốn thể hội được huyền nghĩa của kinh, điều tiên quyết là phải nhận chân thể tánh của kinh ấy là gì.

 Nói chung, tất cả các kinh Ðại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Thể.

Thật Tướng chính là cái tâm hiện tiền của chúng ta, vô hình, vô tướng, chẳng sanh, chẳng diệt, rỗng rang, bao trùm vạn pháp, không sót một mảy gì. Muôn pháp sanh diệt chỉ là những điều hư vọng ảnh hiện trong tâm.

Chân tâm của ta dẫu suốt ngày ở trong vọng, nhưng luôn chân thường. Tâm ấy dẫu hằng tiếp xúc với muôn vật, muôn pháp, vẫn thường sáng tỏ, phân biệt mọi sự, mọi pháp rõ ràng không chướng ngại. Kinh thường diễn tả bằng câu “linh quang độc diệu, hồi thoát căn trần” (có thể tạm hiểu là: xét về bản thể, tâm ấy thiêng liêng, sáng suốt, duy nhất, chiếu rực, không vướng vào căn, trần. Gọi là thiêng liêngtác dụng nhận biết của tâm ấy luôn hiện hữu, không bị biến cải, không sai sót. Sáng suốt vì không bị trần cảnh làm ô nhiễm. Tâm ấy nhận thức rõ mọi pháp không ngăn ngại nên gọi bảo là chiếu rực. Tâm Phật và tâm chúng sanh đồng một thể nên gọi là duy nhất)

Thật Tướng có thể chia thành hai loại:

1. Vô Tướng Thật Tướng: lìa hết thảy tướng điên đảo, hư vọng chính là Thật Tướng chân như, bình đẳng.

2. Vô Bất Tướng Thật Tướng: trong các pháp sanh diệt, tồn tại một tánh bất sanh, bất diệt. Tướng sanh diệt hư vọng ấy chỉ là biệt tướng (tướng riêng của mỗi pháp). Những tướng sanh diệt hư vọng ấy dù thiên sai vạn biệt, nhưng đều không có thực thể, cho nên gọi là “vô tướng”. Nhưng tánh bất sanh bất diệt lại chân thật chẳng hư vọng, chúng sanh và Phật đồng một thể, thánh phàm chẳng hai. Cái Chân Như thật tánh bình đẳng ấy lại chẳng phải là vô tướng, nên gọi là “vô bất tướng”.

Ðể dễ hình dung xin mượn một thí dụ: sóng phát sanh từ nước, sóng chính là nước. Sóng có to nhỏ, nhưng tánh ướt chẳng đổi. Cũng thế, tánh Chân Như bình đẳng bất biến, nhưng tùy duyên có thể sanh khởi những tướng trạng sai biệt cho vạn vật, tùy duyên nhưng bất biến. Bởi thế, xét đến bản chất thì mọi tướng trạng sai biệt của vạn pháp, không tướng nào chẳng lấy tánh Chân Như bình đẳng làm thể.

Nếu xét tỷ mỉ, mỗi kinh lại lấy một khía cạnh của Thật Tướng làm thể. Chẳng hạn, kinh Hoa Nghiêm lấy “nhất chân pháp giới” làm thể, kinh Lăng Nghiêm lấy Như Lai Tạng Diệu Chân Như tánh làm thể.

Riêng về kinh Di Ðà, chư sư cùng đồng ý kinh này lấy Thật Tướng làm tổng thể. Pháp sư Văn Châu giải thích:

“Kinh này chú trọng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, đấy chính là Thật Tướng mà cũng chính là Chân Như. Vì thế, cũng giống như các kinh điển Ðại Thừa khác, kinh này lấy Thật Tướng ấn làm giáo thể...

Nếu xét trên phương diện sự tướng niệm Phật, phải lấy sự trang nghiêm của y báo, chánh báo cõi Cực Lạc làm Thể.

Ðối với bậc thượng căn lợi trí, từ hữu tướng niệm Phật, họ sẽ đạt đến vô tướng niệm Phật, hiểu thấu suốt một niệm hiện tiền chẳng phải ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải ngắn dài, vuông, tròn, thậm chí vô phi, bất phi, lìa hết thảy tướng tức là hết thảy pháp. Ngay khi đó, Pháp Thân hiển hiện, Tịch Quang hiển hiện, còn phân biệt gì là y báo, chánh báo trang nghiêm nữa! Bởi thế giáo thể của kinh này hoàn toànThật Tướng.

...Y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Phật Di Ðà đều phát xuất từ Chân Như tự tánh, cho nên kinh này lấy Chân Như Bình Ðẳng Thật Tướng làm Thể”.

Riêng về biệt thể, pháp sư Bân Tông cho rằng kinh này lấy bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh làm thể. Bân pháp sư giảng như sau:

“Vô sanh, vô diệt, thường hằng bất biến là Thường. Tịch diệt, vĩnh viễn an ổn, vĩnh viễn xa lìa các nỗi khổ là Lạc. Tự tại giải thoát, chân như vô ngại là Ngã. Lìa hết thảy trần, tuyệt các cấu nhiễm là Tịnh.

...Trước hết, minh định bốn đức của Y Báo:

- Cõi ấy không có thành, trụ, hoại không; ấy là Thường.

- Có lầu gác bảy báu, lưới giăng, cây báu mọc thành hàng, ao tắm, chim quý, thiên nhạc v.v... vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi đều vừa lòng thỏa ý. Ðó là Lạc.

- Thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng, việc gì cũng như ý, mọi thứ hóa hiện, không có cảnh trái nghịch, luôn có niềm vui tùy thuận. Ðó là Ngã (Ngã có nghĩa là Tự Tại).

- Thế giới Cực Lạc hoàng kim làm đất, bảy báu làm ao, tất cả mọi vật đều thanh tịnh trang nghiêm, có năm niềm vui thanh tịnh, không có nỗi khổ ngũ trược. Ðó chính là Lạc.

Tiếp đến minh định bốn đức của Chánh Báo:

- Thọ mạng của Ðức Phật và chúng sanh vãng sanh cõi ấy đều vô lượng, kéo dài bao kiếp chẳng tận. Ðó là Thường.

- Hết thảy hữu tình sanh về cõi ấy liền được thân tâm tịch chiếu, vĩnh viễn không có phiền não. Ðó chính là Lạc.

- Một phen đã vãng sanh cõi ấy, liền đoạn diệt được ngũ trụ (2), vĩnh viễn lìa khỏi nhị tử (phần đoạn và biến dịch sanh tử), được đại tự tại. Ðấy chính là Ngã.

- Trong thế giới Cực Lạc, chúng sanh niệm Phật được vãng sanh về đấy đều là liên hoa hóa thân, thanh tịnh, nhiệm mầu thù thắng, tướng hảo trang nghiêm; tấm thân ô uế do tứ đại giả hợp thành của chúng sanh cõi Sa Bà làm sao so sánh được! Ðấy chính là Tịnh.

 Lại nên biết rằng: tứ đức (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh) là tự tánh Di Ðà, mà cũng chính là Phật tánh sẵn có của mỗi người chúng ta, còn gọi là Pháp Thân. Mê thì là chúng sanh, ngộ thì thành chư Phật. Nếu ai phát tâm niệm Phật, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc, hoa nở gặp Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn, thân chứng Pháp Thân.

Pháp Thân ấy bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chính là Thường đức. Pháp Thân rốt ráo tịch diệt, vĩnh viễn lìa khỏi sanh tử, tức là Lạc đức. Pháp Thân tự tại vô ngại, rốt ráo giải thoát, tức là Ngã đức. Pháp Thân tuyệt các cấu nhiễm, vốn sẵn thanh tịnh, tức là Tịnh đức...

Hơn nữa, kinh chép: ‘Ðều được bất thoái chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’ là nghĩa Thường. Lại chép: ‘Không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui’ là nghĩa Lạc. Lại chép: ‘Tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Người ấy lúc mất tâm không điên đảo’ là nghĩa Ngã. Lại chép: ‘Nhất tâm bất loạn’ là nghĩa Tịnh”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 194)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 492)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 484)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 455)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 527)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 324)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 442)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 793)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1121)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1439)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1166)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1092)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2299)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1495)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1778)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2173)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1885)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2596)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4728)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2625)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6305)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3238)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3043)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2892)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3669)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3172)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8057)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2834)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8480)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4391)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8106)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6681)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11176)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22791)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5239)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11722)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11356)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12553)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34562)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32723)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22136)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12491)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11837)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10346)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10820)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11778)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11679)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10901)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10680)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11366)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7177)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6514)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7216)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5724)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6410)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6004)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9360)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5886)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5863)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5619)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant