Một Tiểu sử vắn tắt của
HUNGKAR DORJE RINPOCHE
Lạt Ma Sherab Dorje – Thanh Liên Việt dịch
Hungkar
Dorje Rinpoche là một Đạo sư được
xác nhận của dòng Nyingma và là Tu viện trưởng Tu viện Thubten Chokor Ling tại
Golok, Tây Tạng. Rinpoche
sinh năm 1970 trong một gia đình du cư gồm những yogin chứng ngộ vĩ đại ở
Golok. Cả hai bên nội ngoại của gia đình ngài đều là những vị trì giữ dòng
truyền thừa, những đại thành tựu giả và Đạo sư Phật Giáo vĩ đại được truy
nguyên nhiều thế hệ từ thời đại của Guru Rinpoche
ở Tây Tạng và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ.
Trong đời này Hungkar
Rinpoche sớm được những Đạo
sư Phật Giáo như H.H. Orgyen Kusum Lingpa, H.H. Dodrupchen Rinpoche, H.H. Penor Rinpoche, và sau này, H.H. Dalai Lama xác nhận
là Hóa Thân của Do Khyentse Yeshe Dorje và hiện thân về tâm của Jigme Lingpa.
Những dòng Hóa Thân Khyentse (chẳng hạn như Beru Khyentse, Dzongsar Khyentse,
Dilgo Khyentse, Khyentse Chokyi Lodro) từng là những bậc tiên phong trong việc
phát triển và bảo tồn truyền thống Nyingma ở Tây Tạng và những nơi khác
trong vài trăm năm.
Thời thơ ấu Rinpoche
gặp nhiều chướng duyên ngăn cản không cho ngài chú tâm vào việc nghiên cứu và
thực hành Phật Giáo. Thật may mắn là những Đạo sư Phật Giáo cao cấp khác đã che
chở ngài bằng cách giữ bí mật thân thế thiêng liêng của ngài, nhờ đó năm lên
chín tuổi, ngài có thể tới Tu viện Palyul ở Golok và hoàn tất việc tu tập căn
bản Phật Giáo, nó bao gồm trên mười năm nghiên cứu và thực hành Đại thừa và Kim
Cương thừa như Ngondro, Tsalung và Dzogchen. Trong thời gian này, Tulku Hungkar có may mắn được học tập với nhiều vị
Thầy gốc tôn kính ở Tây Tạng, kể cả Đạo sư vĩ đại Akong Khenpo.
Trong mùa đông năm 1989, đáp lại tiếng gọi của hứa nguyện
trong đời trước của ngài là một Đạo sư Phật Giáo không bộ phái, người truyền bá
những giáo lý của mọi dòng truyền thừa, Hungkar
Dorje đã trốn khỏi Golok và bí mật du hành xuyên qua Tây Tạng trong mùa đông,
gặp nhiều gian khổ và suýt chết, trước khi cuối cùng tới Tu viện Drepung của
dòng Gelugpa bên ngoài Lhasa. Ở đây, Rinpoche
đã nghiên cứu trong hơn hai năm trong khi những tu sĩ bảo vệ và che dấu chỗ ở
của ngài.
Năm 1991, với sự giúp đỡ của những Đạo sư Phật Giáo thâm
niên, Rinpoche rời Lhasa trốn sang
Ấn Độ. Một lần nữa, ngài đối mặt với nhiều gian khổ và thử thách khốc liệt khi
vượt qua rặng Himalaya, nhưng những trở ngại này đã được khắc phục nhờ sự gia
hộ của các Hộ Pháp. Nhiều câu chuyện kỳ diệu có thể được thuật lại từ cuộc hành
trình của ngài là bằng chứng của năng lực của Tam Bảo và chư vị Hộ Pháp.
Rinpoche
đã cư trú và thực hành trong ba năm tại thánh địa Varanasi (Ba La Nại), “Xứ của
Ánh sáng Linh Thánh,” gần Sarnath, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban bài thuyết
pháp đầu tiên sau khi Giác ngộ. Trong thời gian này, Rinpoche tiếp xúc mật thiết với H.H. Dalai
Lama, Người sắp xếp cho ngài tới Dharamsala để tiếp tục việc tu hành cao cấp
trong dòng Gelugpa. Năm năm sau, ngài tốt nghiệp thủ khoavới cấp bậc Geshe
(Tiến sĩ Phật Học). Mọi phí tổn trong việc sinh hoạt và nghiên cứu của ngài
được văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma bảo trợ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đức
Đạt Lai Lạt Ma.
Năm 1994, Rinpoche
được chính thức đăng quang là Hóa Thân của Do Khyentse Yeshe Dorje và Jigme
Lingpa. Lễ đăng quang được cử hành ở Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) dưới sự bảo trợ
của dòng Nyingma, H.H. Dalai Lama và những vị lãnh đạo cao cấp nhất của những
dòng truyền thừa Phật Giáo khác. Bài kệ “Lời Cầu nguyện Trường thọ cho Hungkar Dorje Rinpoche”(*)
được H.H. Dalai Lama biên soạn, biểu thị rõ ràng mối liên hệ của Hungkar Rinpoche
với những đời trước, và tiên đoán những thành tựu trong tương lai của ngài.
Sau khi tin tức của lễ đăng quang bay tới Trung Quốc, chính
quyền địa phương Trung Quốc tại Golok đã gởi một bức thư chấp nhận ngài trở về tu viện Thubten Chokor Lingcủa
ngài. Theo khẩn cầu của những cư dân Golok và theo hứa nguyện về Pháp của ngài
trong những đời trước, Rinpoche
trở về Golok, ở đó một lần nữa ngài được đăng quang, và từ lúc đó ngài đã cư
trú như Tu viện trưởng của Tu viện Thubten Chokor Ling. Tu viện có hàng
ngàn tu sĩ đang nghiên cứu và thực hành dưới sự hướng dẫn của Rinpoche, nhiều vị trong số đó là những hành
giả thành tựu cao cấp.
Nền tảng việc tu hành của Rinpoche
trong những truyền thống Phật Giáo Tây Tạng khác nhau đã khiến ngài nổi danh là
một Đạo sư Phật Giáo không bộ phái độc nhất vô nhị. Mọi người từ khắp nơi đổ
tới để nhận những giáo lý từ ngài. Golok là một môi trường khắc nghiệt ở độ cao
trên mười ngàn phút (khoảng ba ngàn mét) và dân chúng ở đó là những người du cư
nghèo khổ. Nó bị núi non và một con sông rộng ngăn cách với những vùng đất thấp
phát triển hơn. Thủa xưa, yếu tố này đã ngăn chặn những cuộc xâm lược của ngoại
quốc, nhưng nó cũng cắt đứt mối quan hệ phát triển thương mại và kinh tế giữa
Golok với thế giới bên ngoài. Rinpoche
đã làm việc không mỏi mệt để phát triển và vay mượn những nguồn tài chính nhằm
xây dựng một chiếc cầu kết nối Golok với những vùng thấp phát triển hơn. Cuối
cùng, vào năm 1999, cây cầu đã được xây dựng. Suốt từ đó tới nay, điều kiện
sinh sống của cư dân Golok đã được cải thiện rất nhiều.
Ước nguyện của Rinpoche
nhằm mang lại những cơ hội tốt hơn cho các hành giả Pháp và những cư dân Golok
cũng mang lại kết quả là đưa được nguồn điện vào Golok năm 2002. Rinpoche thường mỉm cười khi ngài nói về thời
mà các thế hệ tu sĩ trước đây phải học tập trong bóng tối dưới ánh nến, và sau
này thường kết thúc với những vấn đề về mắt. Giờ đây, với nguồn điện, các tu
sĩ, hành giả và những học viên có thể có nhiều thì giờ hơn để nghiên cứu và
thực hành mà không bị tổn hại thị lực của họ. Với sự hài hước đầy thiện tâm,
ngài nói: “Bây giờ thì chẳng có lý do gì để lười biếng nữa!”
Rinpoche
cũng đã không ngừng làm việc để hoàn thành và tiếp tục nhiều chương trình Pháp
quan trọng như:
• Hoàn thành Mạn đà la Guru Rinpoche
và Chùa Samye ở Golok.
• Trùng tu sự hư hại của Đại Tháp cho Hòa bình Thế giới tại
Golok.
• Xây dựng một Tháp Milarepa tại Golok.
• Thành lập một Học viện Giáo Pháp nơi các học viên sẽ tham
dự chương trình tu hành Phật Giáo cao cấp trong chín năm.
• Biên soạn và xuất bản nhiều sách văn học, nghệ thuật và
giáo lý Phật Giáo.
• Tổ chức, biên tập và dịch thuật những bản văn Giáo Pháp và
những giáo lý linh thánh của Lamasang, Rinpoche
và những Đạo sư dòng truyền thừa cao quý khác.
• Tổ chức và hướng dẫn lễ puja Shambala hàng năm ở Tây Tạng
từ năm 2004. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thỉnh cầu và trực tiếp bảo trợ cho việc cầu
nguyện và tổ chức lễ puja này.
• Thành lập Tổ chức Gesar vào năm 2004, là tổ chức, trong số
những họat động nhân đạo khác, đang thành lập một hệ thống trường học địa
phương trong những miền Tây Tạng truyền thống của Golok để giúp bảo tồn ngôn
ngữ, văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Tổ chức cũng sẽ bảo trợ những chương trình
giúp đỡ những người già cả và tàn tật, là những người hiện không nhận được sự
trợ giúp của chính phủ ở Tây Tạng.
• Sưu tầm, tổ chức, dịch thuật và xuất bản những giáo lý
Phật Giáo toàn thiện vì sự lợi lạc của những hành giả Phật Giáo trong thời đại
này và những thế hệ tương lai. Đây là một dự án khổng lồ hiện đang được thực
hiện với sự tham dự của hàng trăm tu sĩ và hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp
xã hội.
Tất cả những dự án quan trọng, đầy ý nghĩa này được thực
hiện với sự hồi hướng công đức cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh. Khi người
ta nói về những thành tựu và những đời trước của ngài, Hungkar Rinpoche
luôn luôn hết sức khiêm tốn và với một nụ cười dịu dàng trên khuôn mặt, ngài
thường trả lời rằng: “Tôi chỉ là một tu sĩ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với rất
nhiều điều phải học tập và hoàn thiện.” Mặc dù thế, nhiều người cảm thấy được
ban phước chỉ nhờ gặp được Rinpoche,
và kinh nghiệm sự giải thoát chân thực khỏi nỗi đau khổ và muộn phiền. Dưới sự
dẫn dắt đầy nhiệt tâm của Rinpoche,
nhiều người được rót đầy khả năng giác ngộ và hạnh phúc.
Ngày thứ Bảy và Chủ nhật tới đây, chúng ta được vinh dự tổ
chức buổi giảng dạy của Hungkar
Dorje Rinpoche tại Bay Area. Đây sẽ
là một cơ hội tốt lành cho bất kỳ ai muốn hội kiến và kinh nghiệm sự hiện diện
và hướng dẫn của bậc giác ngộ chân thực xuất hiện trong thân tướng của một tu
sĩ đơn sơ, khiêm tốn./.
(*) LỜI CẦU NGUYỆN TRƯỜNG THỌ
CHO HUNGKAR DORJE RINPOCHE
ZAB DANG GYA CHE YONG DZOG TUB PA’I TEN
Bởi ngài đã thành tựu sự chứng ngộ tuyệt hảo nhờ việc nghiên
cứu, quán chiếu và
TO SAM GOM PA’I TSUL SHIN LEG TOG NE
thiền định một cách đúng đắn về giáo lý sâu xa, bao la và
tuyệt đối của Đức Phật,
RI ME GYAL TEN DZIN CHING PEL PA LA
Thượng Tọa Khyentse Rigdzin Hung Kar Dorje,
KHYEN TSE RIG DZIN HUNG KAR DORJE TSAL
Chúng tôi cầu nguyện ngài được trường thọ như một thành tựu
giả vô song, siêu phàm
DA DREL DRUB PA’I CHOG TU SHAB TEN SOL
Để bảo tồn và truyền bá giáo lý không bộ phái của các Đấng
Chiến Thắng.
DRUB PA’I WANG CHUG LONG CHEN JIG DREL LING
Cầu mong cuộc đời ngài là một sự trải rộng của những khuôn
mẫu được sự tiếp nối mà những Vidyadhara (Trì Minh Vương) tạo nên,
TUL SHUG CHOD CHANG YESHE DORJE SOG
Giống như bậc vĩ đại nhất trong tất cả các thành tựu giả,
Đức Long Chen Jigdral Ling,
RIG DZIN GYUD PA’I NAM TAR JE KYONG TE
Yeshe Dorje, bậc dấn mình vào Những Giới luật Du già, và
những vị khác,
TSE SOD WANG TANG LUNG TA RAB GYE DZOD
Và cầu mong cuộc đời, sức khỏe, ảnh hưởng và năng lực của
ngài mãi mãi tăng trưởng!
Đức Đạt Lai Lạt Ma biên soạn thi kệ này tại Dharamsala vào
tháng Mười năm 1995 theo lịch Tây Tạng.
Lạt Ma Sherab Dorje dịch sang Anh ngữ ngày 10/4/2005.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên