Lá Thư Tịnh Độ
Ấn Quang Pháp Sư
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Dịch
Mấy Lời Bày Tỏ
Trong các hành môn của
đức Phật đã chỉ dạy, môn nào cũng có pháp nghi riêng biệt, từ cách thờ cúng, lễ
bái, trì tụng, sám hối, phát nguyện v.v... Như Mật Tông lại còn sự lập đàn,
kiết ấn nữa.
Riêng về tông Tịnh Độ, tôi thấy có nhiều người không biết nghi thức hành trì
cho đúng pháp. Lại có những vị không hiểu nghĩa chữ Hán, thành ra khi trì tụng
chỉ đọc suông theo thông lệ, khó phát lòng thành khẩn, không thể chuyển hướng
tâm niệm của mình y như lời văn. Nghĩ vì dòng đời cứ mãi trôi qua, người sau
càng ngày lại càng ít am hiểu văn từ Hán Việt, nên theo lời yêu cầu của một số
đông, tôi soạn dịch nghi thức tu Tịnh Độ ra Việt văn để giúp bạn đồng tu.
Về pháp nghi Tịnh Độ, có ba bậc: thượng, trung, hạ. Để không quá đơn giản và
khỏi phiền toái, tôi căn cứ theo pháp nghi của ngài Từ Vân trong Tịnh Độ Thập
Yếu, soạn dịch nghi thức theo bậc trung. Về cách trì danh, vẫn có nhiều đường
lối, theo chỗ kinh nghiệm và so với thời cơ, tôi chọn pháp Thập Niệm Ký Số.
Về pháp nghi Tịnh Độ, thuở xưa chia làm năm môn, tôi ước kết lại thành ba môn:
lễ bái, trì tụng và phát nguyện hồi hướng. Vả lại, pháp môn Tịnh Độ có chuyên
tu và kiêm tu; có vị chuyên niệm Phật, có vị lại kiêm tụng kinh, trì chú, sám
hối hoặc tham thiền. Theo Ấn Quang Pháp Sư, thì người tu tịnh nghiệp phải lấy
sự niệm Phật làm phần chính, mấy món kia làm phần phụ, phần chính cố nhiên phải
giữ cho nhiều hơn. Riêng về tụng kinh, trì chú, nếu dùng để giúp cho phần niệm
Phật và chí tâm hồi hướng, cầu vãng sanh, cũng có thể gọi là chuyên tu.
Trên pháp môn trì danh, sự hơn kém thật ra không phải ở nơi nghi thức, mà ở
chỗ: âm thanh rành rõ hay lờ mờ, tâm niệm thành khẩn hay thờ ơ tán loạn, công
trì tụng sâu nhiều hay cạn ít. Nếu người biết tu thì một lượt chiêm lễ, một câu
xưng danh, công đức cũng hơn kẻ không biết tu rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không
có pháp nghi cho đúng, thì công đức hành trì thì cũng khó phát huy đến chỗ viên
mãn. Và vì thế tôi mới soạn ra nghi thức nầy.
Xưa và nay cách nhau, chúng sanh căn cơ sở thích đều sai khác, tôi không dám
gọi việc làm nầy là hợp với mọi người, cũng không dám cho nghi thức đây là hơn
những pháp nghi đã có, chỉ tùy chỗ mong cầu mà lạo thảo viết ra vậy thôi.
Liên Du Thích Thiền Tâm
Lời Bạt
Trong quyển nầy, ta thấy
Ấn Quang Pháp Sư, về cách khuyến hóa, chỉ dùng lời lẽ bình thường chân thật, mà
điểm cốt yếu duy ở một chữ thành. Người học đạo biết đặt chân từ chỗ bình thật
đi vào, thì không còn vọng cầu xa xôi; có chí thành khẩn thiết tất dễ cảm thông
với Phật. Sự huyền diệu của đạo chính là ở chỗ đó. Cho nên thuở xưa, một vị Tổ
Sư đã bảo: 'Tâm bình thường là đạo.' Nhưng, trên đường giải thoát, các tông
khác tuy cũng dùng tâm bình thường thanh tịnh làm căn bản, song chỉ nương ở tự
lực, riêng môn Tịnh Độ đã chuyên dùng tự lực lại kiêm chú trọng về tha lực. Như
bên tông Thiền tuy tham cứu câu niệm Phật, nhưng chỉ dùng đó để ngăn làn sóng
vọng tưởng, trở về tâm thanh tịnh; bên tông Mật như phái Lạt Ma giáo ở Tây
Tạng, cũng có người chuyên trì danh hiệu của một đức Phật, một bậc Bồ Tát hay
một vị thần, song họ chỉ xem đó là một câu chú, hoặc một đấng ủng hộ mà thôi.
Tuy nhiên, nếu đem so sánh, ta thấy bên Mật có điểm thắng hơn bên Thiền, vì bên
Mật trong khi tu niệm đã biết giữ ba nghiệp thanh tịnh (tam mật tương ưng) để
tiêu trừ vọng tưởng đồng thời lại dùng công đức, năng lực của chân ngôn hay
hiệu Phật, giúp sức phá tan hoặc nghiệp, để mau chứng quả Bồ Đề. Nhưng đó là
những lối tu hành của bậc thượng căn, hơn nữa chúng sanh từ kiếp vô thỉ đến nay
gây nên nghiệp chướng vô lượng vô biên, dù có tu được, cũng khó hy vọng trong
một đời phá hết phiền hoặc, thoát đường sanh tử. Và một khi nghiệp hoặc còn
chừng một mảy tơ, cũng bị luân hồi, mà đã luân hồi tất dễ quên mất túc căn, bị
trần cảnh mê mờ lôi cuốn vào trong lục đạo! Khác hơn thế, môn Tịnh Độ bậc căn
cơ thượng, trung, hạ đều có thể tu; cách tu chỉ dùng tâm thanh tịnh làm nền
tảng, rồi từ nơi đó khởi công năng chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Nếu đủ lòng tín nguyện trì danh, không luận người đã dứt hết
phiền não, dù cho kẻ nghiệp nặng như biển cả non cao, trong một đời cũng được
Phật tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ. Khi niệm Phật chí thành, trong ấy có ba năng
lực: sức Phật, sức Pháp và sức công đức không thể nghĩ bàn của tự tâm. Sức Phật
là được Phật phóng quang nhiếp thọ, thường thường hộ trì. Sức Pháp là hồng danh
A Di Đà vẫn đầy đủ muôn đức, chí thành niệm một câu tất sẽ tiêu tội nặng sanh
tử trong tám mươi ức kiếp, phước huệ tăng thêm. Sức công đức của tự tâm là tâm
ta có đủ mười pháp giới, trong khi ta niệm Phật thành khẩn, thì pháp giới ác bị
tiêu ngưng, pháp giới lành biến chuyển lớn mãi cho đến khi thành thục, kết quả
lúc mạng chung sẽ hóa sanh trong liên bào nơi cõi Tây Phương. - đây, ta cần nên
phân biệt có hai lối niệm Phật tương tợ như Tịnh Độ mà không phải thuộc về tông
Tịnh Độ: 1/ Niệm Phật tương tục mong đàn áp vọng tưởng chứng ngộ bản tâm, không
cầu vãng sanh, giống như tông Thiền. 2/ Niệm Phật như trì một câu thần chú,
mong Phật ủng hộ cho xa lìa ma chướng, tiêu hoặc nghiệp, hiện đời phước huệ
tăng thêm, mà không cầu vãng sanh, giống như tông Mật. Niệm Phật như thế là lạc
với đường lối của Tịnh Tông, chỉ được kết quả nhỏ mà mất sự lợi ích lớn. Nếu
người biết trì niệm hiệu như giữ gìn bổn mạng, chỉ tha thiết cầu sanh Tây
Phương, thì tuy không cầu dứt phiền não mà phiền não tự tiêu, không cầu sanh
phước huệ mà phước huệ tự nhiên thêm lớn, cho đến không cầu chứng ngộ mà hoặc
sớm hoặc chầy cũng được chứng ngộ; kết quả trong một đời sẽ thoát vòng luân
chuyển, lên vị Bất Thối nơi cõi bảo liên. Thế thì chỉ thành tâm niệm Phật cầu
vãng sanh, trong ấy đã có đủ Thiền và Mật rồi. Cho nên „n Quang Đại Sư thường
nói: 'Pháp môn Tịnh Độ thống nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, cao siêu hơn Thiền,
Giáo, Luật.'
Môn Niệm Phật xem giản dị mà có công năng rất huyền diệu như thế, nên một hạng
người học Phật vì nhận thức không thấu đáo, sanh tâm tự cao, bài báng, khinh
thường. Bởi thế, có kẻ dẫn câu niệm Phật đem về lý tánh, cho lời nói trong các
kinh Tịnh Độ là tượng trưng. Lại có một hạng người nhiều chủng tử ngoại đạo,
đem sáu chữ niệm Phật bố khắp chi thể, hoặc hợp câu niệm Phật với phép luyện
khí cho đi tuần hoàn trong châu thân, hoặc dùng câu niệm Phật tụ hỏa nơi ấn
đường. Họ lại lầm cho đó là quí báu, chỉ mật thọ nhau trong phòng kín không dám
tuyên dương, sợ e lạm truyền. Sự lầm lạc ấy khiến cho nhiều người mang chứng
lớn bụng, mờ mắt, đau đầu, kết cuộc chỉ có tổn hại không được lợi ích. Nên biết
pháp môn Tịnh Độ chính do đức Thích Ca Mâu Ni nói ra, sáu phương chư Phật đều
khen ngợi; các bậc Đại Bồ Tát, Đại Tổ Sư như đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ đều tuân giữ; các Kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bảo
Tích, Đại Bát Nhã đều tuyên dương. Kẻ ngoại đạo vì tà kiến, hủy báng môn Tịnh
Độ, vẫn không đáng nói; hàng Phật tử nếu sanh tâm tự cao hủy báng, tức là vô
tình hủy báng ngôi Tam Bảo, ngăn lấp con đường giác ngộ của mọi người. Tại sao
thế? Vì môn Tịnh Độ là cửa mầu giải thoát duy nhất, yên ổn nhất của chúng sanh
đời mạt pháp; chính đức Phật đã từng có lời huyền ký thuở xưa.
Trên đây, không phải tôi cố ý phân biệt môn Tịnh Độ giữa các tông phái, hay
thiếu mỹ cảm với những kẻ đã lầm lạc, mà chính vì tưởng niệm ân sâu của Phật,
muốn cho mọi người đồng được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trên đường đạo, sở
thích của mỗi người có khác nhau, khúc nhạc hương quê chưa dễ cảm được lòng du
khách! Xem quyển nầy, ai có mến Ấn Quang Pháp Sư, cũng nên theo Ngài mà đọc bài
ca quy khứ:
Phải nên phát nguyện, nguyện vãng sanh,
Đất khách sơn khê mặc người luyến?
Tự không muốn về, về sẽ được,
Quê xưa trăng gió có ai tranh?
Người Bạn Sen,
Liên Du Thích Thiền Tâm
Thơ đáp Cư Sĩ Bao Sư Hiền
Hỏa hoạn ở Ôn Châu nghe qua thê
thảm! Tai trời nạn nước thật không biết đâu là cùng! Cảnh khổ ấy đủ làm bằng
chứng cho lời kệ: 'Ba cõi không an, dường như nhà lửa' trong Kinh Pháp Hoa, và
cũng là một duyên nhắc nhở rất thiết cho sự tín, nguyện, niệm Phật cầu sanh về
Cực Lạc.
Niệm Phật chẳng quy nhất, do bởi không tha thiết đối với việc sống chết luân
hồi. Nếu tưởng mình bị nước cuốn lửa thiêu không ai cứu vớt, hoặc đang ở vào
giờ phút lâm chung sắp đọa địa ngục, thì tâm tự quy nhất, chẳng cần phải tìm
phương pháp chi nhiệm mầu. Vì thế, trong kinh thường nói: 'Nên nghĩ sự khổ nơi
địa ngục, phát lòng Bồ Đề.' Đây là lời chỉ dạy rất thiết yếu của đấng đại giác
Thế Tôn, tiếc vì người đời không chịu thật tâm tưởng nghĩ đến. Sự khổ nơi địa
ngục sánh với thảm họa nước lửa, còn gấp không lường, không ngằn lần đau đớn
hơn! Tưởng đến lửa thiêu nước cuốn thì sợ hãi, nghĩ đến địa ngục lại thờ ơ đó
là người trí lực kém tối không thể quan sát rõ ràng sự khổ. Giả sử được một
phen tận mắt trông thấy cảnh ấy, chắc bất giác lông tóc dựng đứng, xương lóng
đều rung, không tự kiềm chế được.
Thơ đáp Cư Sĩ Bộc Đại Phàm
Từ xa đón bức văn chương, riêng lòng
không khỏi hổ thẹn! Ấn Quang từ nhỏ thiếu học, nên kiến thức mù mờ, bấy lâu nổi
trôi đất khách, chỉ ăn gởi ở Phổ Đà. Hôm nay không ngờ được các hạ, một bậc
hiểu sâu tâm tông Nho, Phật, từng tham vấn các phương tri thức, học hạnh siêu
quần chẳng xem là quê mùa để lời hỏi đến, lại quá vì khen ngợi, khiến cho người
bối rối không an. Thầm nghĩ các hạ học vấn rộng rãi, thấy hiểu cao xa, đâu có
lẽ còn hoài nghi với mấy điều tầm thường như thế, chắc là không ngoài bản ý
muốn làm gương mẫu để dẫn phát cho kẻ đồng tu đó thôi. Tuy nhiên các hạ đã lấy
biết làm không biết, tôi cũng chẳng ngại gì lấy không biết làm biết, xin tùy
lời giải đáp, đâu dám bắt chước ông quan già phê án, mà chính là học trò dâng
nạp vở thi. Vậy những lời bày tỏ sau đây, nếu có sai lầm, xin nhờ phủ chính.
1. Niệm Phật tuy quí tâm niệm, nhưng cũng không nên bỏ sự đọc tụng ra tiếng, vì
thân, miệng, ý giúp đỡ lẫn nhau. Dù rằng tâm có thể nhớ nghĩ, song nếu thân
không lễ kính, miệng chẳng trì tụng, thì cũng khó được lợi ích. Như người đời
khi khiêng đồ vật nặng còn phải dùng tiếng giúp sức, huống là việc muốn nhiếp tâm
để chứng Tam Muội hay sao? Cho nên Kinh Đại Tập nói: 'Niệm lớn thấy Phật lớn,
niệm nhỏ thấy Phật nhỏ.' Cổ đức cũng bảo: 'Niệm lớn tiếng thì thấy thân Phật
cao lớn, niệm nhỏ tiếng thì thấy thân Phật bé nhỏ.' Với hạng phàm phu, tâm
thường hôn trầm, tán loạn, nếu không nhờ sức thân lễ miệng tụng, tất khó được
nhứt tâm.
2. Chỗ chân lý thực tế mới không còn sanh diệt, ngoài ra, trong Phật sự có pháp
nào chẳng phải là sanh diệt? Bậc Đẳng Giác Bồ Tát phá bốn mươi mốt phẩm vô
minh, chứng bốn mươi mốt phần bí tạng cũng không ngoài sự lấy, bỏ, sanh, diệt,
huống nữa là việc niệm Phật đối với phàm phu ư? Nhưng sanh diệt tuy là cội sanh
tử, mà cũng là gốc Bồ Đề, có sanh diệt hay không, chỉ do nơi người mà thôi.
Nhiếp cả sáu căn, nối liền tịnh niệm, chính là đem sự sanh diệt bỏ giác hiệp
trần, đổi thành sự sanh diệt bỏ trần hiệp giác, để kỳ chứng được Phật tánh chơn
như không sanh diệt vậy.
3. 'Niệm niệm * Tịnh Độ mới được vãng sanh' là thuộc về thân phận của bậc vãng
sanh thượng phẩm. Nếu chấp định nghĩa này tự cầu thượng phẩm thì còn chi hay
hơn, bằng chấp định để dạy hạng căn cơ trung, hạ, tất cả sẽ làm trở ngại sự
thăng tấn của người chẳng ít. Tại sao thế? Vì lẽ họ cho pháp này quá cao, rồi
cam phận thấp kém, không chịu tu trì. Lại, phép niệm Phật tuy thuộc ý thức,
nhưng cũng đủ cả các thức, trong kinh văn há chẳng nói: 'nhiếp cả sáu căn' đó
ư? Sáu căn đã nhiếp thì sáu thức để làm gì? Tức như chuyển câu niệm Phật vào
hàm tàng thức cũng không ngoài công dụng của sáu thức.
4. Đoạn luận vấn về mục 'Niệm Phật tương tục, dao chém chẳng đứt' vẫn không còn
ngờ; nhưng vì các hạ chưa phân biệt giới hạn của Thiền Tông, Tịnh Độ, và tự
lực, tha lực, nên thành một khối hoài nghi. Pháp môn Niệm Phật là nương nhờ sức
Phật ra ba cõi, sanh về Tịnh Độ, nay đã chẳng phát nguyện tất cũng không có
lòng tin. Nếu không tín nguyện, chỉ niệm danh hiệu Phật, vẫn thuộc về tự lực,
và bởi thiếu tín nguyện nên không thể thông cảm với sức hoằng thệ của đức A Di
Đà. Thảng như trừ được phiền não kiến, tư, còn có thể vãng sanh, nếu chưa trừ,
hoặc trừ chưa hết, thì gốc nghiệp vẫn còn và phải bị luân hồi. Về điều này ông
Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh là những bằng chứng xác thật. Phải biết, nếu bỏ
tín nguyện mà niệm Phật, thì có khác nào sự tham cứu của nhà tu thiền. Và nếu
được vãng sanh, chẳng hóa ra nhân quả không phù hợp hay sao? Ngài Ngẫu Ích bảo:
'Được sanh cùng chăng, toàn do nơi lòng tín nguyện có, không; phẩm vị cao thấp,
đều b*i công trì danh sâu, cạn' là một luận án chắc chắn không thay đổi. Trong
Kinh A Di Đà, câu: 'Một lòng không loạn' là nương theo đoạn công đức y, chánh,
* văn trước khuyên sanh lòng tin, và nối theo đoạn: 'Nếu có chúng sanh nào nghe
kinh này, phải nên phát nguyện cầu sanh về nước kia' chính là bảo phải phát
nguyện. Hơn nữa, về điểm tín nguyện, trong mấy đoạn văn sau cũng lập lại nhiều
lần. Các hạ cắt đứt mấy đoạn văn ấy, chỉ nhìn vào câu 'một lòng không loạn' xem
sự nhất tâm có tín nguyện cùng không tín nguyện đồng như nhau, nên mới thắc mắc
về chỗ: 'Niệm Phật đến trình độ dao chém chẳng đứt tức là thuần nhứt rồi, tại sao
lại không được vãng sanh?'
5. Ngoài câu niệm Phật, nếu có niệm khác tức là xen tạp. Những niệm ấy rất
nhiều khó kể hết được, chỉ nêu phần chánh như: niệm cầu đại triệt, đại ngộ,
niệm mong được đại tổng trì, v.v... chớ không phải chỉ cho sự phát nguyện là
xen tạp. Nên biết pháp môn Tịnh Độ lấy Tín Nguyện, Hạnh làm tông chỉ. Hạnh như
cỗ xe, Nguyện như người phu xe, Tín như kẻ dẫn đường, đủ cả ba mới thành tựu sự
tấn thú của xe. Vì thế người tu Tịnh Độ hôm sớm phải phát nguyện. Lại chớ nên
chấp nê rằng những lúc không niệm Phật, hoặc khi phát nguyện là cắt đứt, xen
tạp, tịnh niệm không thành. Thử hỏi: tâm niệm ấy có từng trải qua những cảnh
thấy, nghe, mặc áo, ăn cơm, cùng các sự cử động khác hay không? Nếu có, với mấy
điều này đã không thấy cắt đứt, xen tạp, sao lại cho những việc kia là tạp
loạn? Cho nên, dù niệm Phật đến cảnh cảnh giới 'một niệm muôn năm' cũng không
ngại gì tới sự kh*i cư hằng ngày. Bằng tuyệt nhiên không cả, hoặc ra chỉ có
pháp thân Bồ Tát mới đảm đương nổi. Nhưng các bậc Đại Sĩ tuy * yên một chỗ mà
hiện vô số thân trong cõi vi trần, làm vô lượng Phật sự, nếu quả có xen h* tạp
loạn, thì chắc không biết là bao nhiêu? chư Phật, Bồ Tát có thể đồng thời khắp
đến mười phương, song đây chỉ là một việc, thật ra tâm ta vẫn đủ các lý, ứng
muôn sự, không phải như thế mà thôi đâu!
6. Ước theo nghi thức xưa nay, sự phát nguyện thường * vào khoảng sớm mai và
tối. Nhưng cũng có người khi niệm Phật xong thời nào, liền hồi hướng phát
nguyện ngay lúc ấy. Các hạ đã hiểu sâu tánh, tướng mà còn cho rằng: 'niệm Phật
và niệm cầu sanh không thể đi đôi', thì dường như đối với viên lý sự vô ngại,
chưa được tin chắc. Lại bảo: 'Nếu có thể đi đôi tất tâm niệm sẽ chia làm hai:
một nửa về Phật, nửa về nguyện, thế thì một người ưng thành hai vị Phật.' Xin
hỏi, cơn bình thường, có lúc nào các hạ đương lúc mắt thấy sắc mà tai vẫn nghe
tiếng cho đến ý vẫn suy nghĩ hay không? Nếu quả có thế, tại sao riêng với việc
này các hạ hãy còn ngờ? Vậy nên biết, tâm niệm công dụng không lường; tám thức
há chẳng phải là thể dụng của một tâm ư? Kia đã không thành tám vị Phật, tại
sao đây lại thành hai vị Phật?
7. Bình sanh tuyệt không tín nguyện, khi lâm chung khó được nhờ sức Phật. Đã
nói: 'Lúc nghiệp lành dữ đồng thời đều hiện', thì chẳng những câu niệm Phật
không hiện không được vãng sanh, dù có hiện cũng không được vãng sanh. Tại sao
thế? Vì không phát nguyện vãng sanh, vì không cần Phật tiếp dẫn. Kinh Hoa
Nghiêm nói: 'Giả sử nghiệp ác có hình tướng, mười phương hư không chẳng thể
dung chứa.' Cổ đức bảo: 'Tâm nghiệp rất nhiều, ngã về mối nặng như người mắc
nợ, chủ mạnh kéo đi.' Nay nghiệp lành dữ đều hiện, b*i không tín nguyện, tất
phải bị nghiệp lực lôi cuốn mất sự chủ trương. Thế thì biết, nương cậy sức
mình, dù hoặc nghiệp còn một mảy tơ cũng không thoát khỏi sanh tử, lựa là nhiều
ư? Niệm Phật đến nhứt tâm mà không tín nguyện, trong vô số người, hoặc may có
được một vài kẻ vãng sanh. Rất không nên đem điều ấy giáo hóa làm mất căn lành
Tịnh Độ của tất cả chúng sanh đời sau. Vì nếu chỉ nương tự lực niệm cho đến
nghiệp dứt tình không, chứng Vô Sanh Nhẫn thì khắp thế gian khó được một đôi
người. Thảng như ai nấy đều y theo thuyết này mà tu trì, không chú trọng đến
tín nguyện, tất vô lượng chúng sanh sẽ nổi chìm trong biển khổ, bặt nẻo thoát
ly, ấy cũng vì một lời nói gây nên tổn hại. Mà người chủ trương thuyết trên kia
lại còn nghênh ngang tự đắc cho rằng lời mình rất cao; đâu biết đó là cuồng
ngôn làm dứt mất huệ mạng Phật, khiến chúng sanh lầm lạc nghi ngờ! Thương thay!
Pháp môn Tịnh Độ phải xem là đặc biệt, không nên đem sánh với giáo nghĩa thông
thường. Ví như đức Phật chẳng mở môn này, chắc trong đời mạt pháp không có ai
thoát khỏi đường sanh tử! Bộ Di Đà Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích, lý sự đều đến
chỗ cực điểm, nếu các hạ y theo đó hành trì, thì ngày kia trên phẩm vị vãng
sanh không ai sánh kịp. Người xưa tu hành đều có thể chứng đạo, trái lại người
đời nay ít kẻ minh tâm. „y b*i căn cơ có thấp kém ư? Hay là do lòng cung kính,
khinh mạn khiến nên như thế? Tôi xem nhiều truyện ký, thấy những bậc cao nhân
đều trọng kinh tượng như Phật sống, sự kính sợ của các Ngài dù cho tôi trung,
con thảo, cũng không thể phư*ng phất được một đôi phần. Vì lòng thành kính cùng
cực, nên các vị ấy có thể dứt hoặc chứng chơn, vượt thẳng lên cõi thánh. Thử
xem một việc Nhị Tổ Thần Quang đứng hầu dưới tuyết, chặt cánh tay cầu pháp *
Thiếu Lâm, cũng đủ thấy lòng thành kính của Ngài dường nào! Người đời nay xem
tượng Phật như gỗ đất, kinh Phật như giấy cũ, dù có lòng tin thọ trì, chẳng qua
là đọc tụng làu thông nơi đầu mồm mà thôi, có điều thật ích gì đáng bàn luận!
Tuy rằng như thế cũng gieo được viễn nhân, nhưng tội khinh lờn thật không thể
tư*ng nghĩ! Các hạ là bậc luận giỏi học nhiều, khi đề xướng Phật Pháp, xin nhắc
nhở điều này, để mọi người cùng được lợi ích. Như thế, pháp môn và chúng sanh
sẽ hân hạnh biết bao!
Thơ đáp Cư Sĩ Cừu Bội Khanh (1 - 2)
- 1 -
Sự nóng giận như thế là do tập tánh
từ kiếp trước. Nay các hạ đã biết nó chỉ vô ích, lại thêm có hại, thì đối với
tất cả việc trái ý đều nên dùng độ lượng rộng rãi như trời biển mà bao dung. Đó
là phương pháp dùng lòng quảng đại để chuyển biến tánh hẹp hòi. Nếu không đối
trị thì tập tánh giận hờn càng ngày càng tăng thêm, sự tai hại không phải ít.
Đến như niệm Phật, phải tùy nơi tinh thần sức khỏe của mình mà niệm ra tiếng
lớn, nhỏ, niệm thầm, hoặc niệm theo lối Kim Cang (chỉ sẽ động môi, niệm có
tiếng nhưng người ngoài không nghe được), sao lại quá dùng sức để cho mang bệnh
ư? Tâm quá mãnh liệt ấy cũng còn lỗi dục tốc đó! Nay đã không niệm ra tiếng
được, cũng có thể niệm thầm trong tâm, sao lại chỉ hạn có mười niệm? Vả lại,
khi bệnh nằm nơi giường, tấm lòng đâu thể vắng lặng như hư không, nếu tưởng
nghĩ việc khác, thôi thà tốt hơn là chí tâm niệm Phật! Nên đem việc cần yếu
giao phó cho người nhà, thường tưởng rằng mình sắp chết, sắp đọa địa ngục,
trong lòng tuyệt không vướng vít một điều gì. Rồi dùng tâm thanh tịnh ấy tưởng
nhớ tượng Phật, thầm niệm danh hiệu, và kiêm tưởng niệm thánh tượng cùng danh
hiệu đức Quán Âm. Quả được như thế, quyết định nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, căn
lành thêm lớn, tật bệnh mau thuyên và thân tâm yên ổn. Căn bệnh của các hạ vẫn
thuộc về túc nghiệp, bởi duyên niệm Phật mãnh liệt nên phát hiện, không phải
hoàn toàn do quá dùng sức mà có ra. Giả sử không gặp nhân duyên niệm Phật quá
sức ấy, nó cũng sẽ phát hiện bằng một nhân duyên khác. Giữa đời, người không
niệm Phật rất nhiều, đâu phải tất cả đều không đau yếu, suốt đời mạnh khỏe đó
ư? Hiểu rõ điều nầy, sẽ chẳng còn nhận lầm cho rằng niệm Phật thành bệnh, kết
cuộc chỉ có tổn hại không được lợi ích.
Ấn Quang cùng các hạ chưa gặp mặt nhau lần nào mà có những lời thành thật chí
thiết hôm nay vì xem các hạ như người thân thuộc. Bởi kẻ tu hành vẫn thể theo
lòng từ bi của Phật, muốn cho người hữu duyên đều được vãng sanh ngay trong
hiện đời. Pháp môn niệm Phật, nếu các hạ chưa tường tất, mỗi ngày nên xem qua
vài thiên Văn sao để làm sự dẫn đạo cho đường tu. Thế mới không uổng một phen
tri ngộ nhau trong thơ từ qua lại.
- 2 -
Các hạ đã tin nơi tôi, nên làm y
theo lời tôi mới có thật ích. Chẳng thế thì tuy có tín tâm, chỉ gieo nhân lành
về sau mà thôi. Chúng ta ở trong vòng sống chết luân hồi trải qua nhiều kiếp,
gây nên nghiệp ác vô lượng vô biên. Nếu chỉ nương sức tu trì của mình, mong dứt
hết phiền não, hoặc nghiệp để thoát nẻo luân hồi, việc ấy còn khó hơn lên trời.
Như có thể tin pháp môn Tịnh Độ của đức Phật chỉ dạy, dùng lòng tín nguyện chơn
thiết niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu sanh Tây Phương, thì không luận nghiệp
lực lớn, nhỏ, đều được nương nhờ từ lực vãng sanh Cực Lạc. Ví như một hột cát
nhỏ để vào nước liền chìm, trái lại, tảng đá dù nặng ngàn muôn cân, được chở
trên chiếc thuyền to, cũng có thể đem đi nơi khác. Tảng đá là dụ cho nghiệp lực
sâu nặng của chúng sanh, thuyền to là dụ cho từ lực rộng lớn của đức A Di Đà.
Nếu không niệm Phật, chỉ nương sức tu trì của mình để thoát sanh tử, phải đợi
đến địa vị nghiệp dứt tình không mới được. Chẳng thế thì dù có dứt được phiền
hoặc chỉ còn như một sợi tơ, cũng không thể giải thoát. Đó là dụ cho hột cát
tuy rất nhỏ, nếu không có vật gì chở, khi để vào nước tất phải bị chìm. Các hạ
nên sanh lòng tin, niệm Phật cầu sanh về Tây Phương đừng khởi những tư tưởng gì
khác. Quả được như thế, thì tuổi thọ chưa hết bệnh sẽ mau lành, vì công đức chí
thành niệm Phật, có thể dứt trừ ác nghiệp đời trước, như vầng hồng đã hiện,
sương tuyết liền tan. Nếu số phần đã mãn, tất được vãng sanh, vì do tâm niệm
chuyên nhất nên đạo cảm ứng giao thông, nhờ Phật xót thương tiếp dẫn. Như các
hạ tin hiểu thấu đáo những lời trên đây, thì sống cũng được nhiều an vui, chết
cũng được lợi ích hơn.
Lòng nóng giận là tập tánh từ kiếp trước, muốn đối trị, nên tưởng như mình đã
chết. Thế thì mặc ai bôi hương thoa lọ, nơi ta nào có can gì? Dù gặp những cảnh
trái lòng đến đâu nữa, cũng cứ tưởng rằng mình đã chết, tự nhiên tánh giận hờn
không thể nổi lên. Đây là món 'cam lồ pháp thủy' của đức Như Lai truyền dạy, để
rửa hết kết nghiệp của tất cả chúng sanh. Nay tôi vì các hạ thuật lại, không
phải tự tôi đặt điều ức thuyết. Nếu không niệm Phật cầu về Tây Phương, tuy sanh
lên chỗ cực tôn quí như trời Phi Phi Tưởng, khi phước báo đã hết, vẫn bị luân
chuyển trong sáu đường. Như dùng hết lòng thành khẩn niệm Phật, dù sắp đọa vào
địa ngục A Tỳ, cũng có thể nhờ Phật tiếp dẫn. Vậy muôn lần xin chớ tự coi là
thấp kém, cho rằng mình nghiệp nặng e không được vãng sanh. Nếu cố giữ quan
niệm ấy thì quyết định chẳng được sanh Tây Phương, vì bởi thiếu sự tín nguyện
chơn thiết nên không do đâu để cảm đến Phật.
Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật đã từ lâu, chỉ vì lòng từ bi sâu thiết nên hiện
thân trong chín pháp giới, dùng đủ phương tiện để độ thoát chúng sanh. (Chín
pháp giới: Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ
quỉ, địa ngục). Riêng về pháp giới cõi người, Bồ Tát lại hiện nhiều thân sai
khác, hoặc làm vua, quan, hoặc làm thường dân ẩn dật, hoặc làm phụ nữ, hoặc làm
kẻ ăn xin... không nhất định. Vị chân tượng của Bồ Tát tốt đẹp nhiệm mầu, người
đời không thể hình dung được, nên khi vẽ ra phần nhiều giống với người nữ, chớ
chẳng phải Bồ Tát nguyên là nữ thân. Nếu muốn cúng dường, nên đến đường Bắc
Kinh, xóm Trường Khang, chỗ lưu thông Kinh Phật, thỉnh bức tượng Tây Phương Tam
Thánh thứ bản đá, mua khung kính đem lồng vào. Như thế là vẹn toàn, vì có đủ
đức Phật A Di Đà, Quán Âm và Thế Chí. Nơi phòng ngủ nếu không được tinh khiết,
nên đem tượng Phật thờ ở tịnh thất, mỗi ngày qua lạy và chiêm ngưỡng một đôi
lần, thì trong tâm có thể ghi nhớ!
Niệm Phật tuy quí ở sự thanh khiết, nhưng với người bệnh có nhiều điều không
thuận tiện, chỉ đem hết lòng thành niệm thầm hoặc ra tiếng, công đức cũng đồng
nhau. Vì đức Phật vẫn rộng lòng thương xót, như cha mẹ đối với con. Khi con có
bệnh không đem những nghi thức bình thường quở trách, mà còn xoa rờ thân thể
gội rửa chỗ hôi nhơ. Nếu khi con bệnh đã mạnh, mà còn bắt cha mẹ hầu hạ như khi
đau yếu, đó là trái phép, trời đất sẽ không dung. Vậy các hạ không nên cho rằng
nằm nơi giường bệnh niệm Phật thầm là có tội lỗi. Người mạnh khỏe khi nằm nghỉ
còn nên niệm thầm, huống chi là người bệnh ư?
Cư Sĩ Cao Thiệu Lân (1 - 2)
- 1 -
Trong bức thơ gửi đến, thấy nói cư
sĩ đang nhiếp tâm niệm Phật, lạy Kinh Pháp Hoa, và gắng trừ lỗi mà chưa được
như ý, nghĩ muốn y theo phép công quá cách để tự kiểm điểm mỗi ngày. Bao nhiêu
điều ấy, đủ chứng sự tu hành của cư sĩ gần đây là thiết thật vì mình, không như
những kẻ tự khi dối người, phô trương bề ngoài để cầu danh dự. Như thế còn gì
hay hơn, tôi xin tùy hỷ.
Phép lễ tụng trì niệm, phải lấy lòng thành kính làm chủ. Nếu thành kính cùng
cực, dù ở địa vị phàm phu công đức chưa được viên mãn, nhưng kết quả cũng khó
nghĩ bàn! Trái lại thì, tuy lễ tụng, xét ra khác gì múa hát, dù có bày nét khổ,
vui, thương cảm, đều là giả trang vì chẳng phải tự nơi đáy lòng phát lộ. Nếu có
công đức, chẳng qua là si phước ở cõi trời, người, mà chính đó là chỗ y cứ để
gây nghiệp ác, gieo nên quả khổ vô lượng về sau. Nên đem điều nầy tỏ khắp với
đồng bạn, khuyên nhau chơn thật tu hành để sự lợi ích được lan rộng. Cách thức
lạy kinh của cư sĩ lập ra, về lý vẫn không ngại, nhưng về sự, nếu lạy suông,
phải niệm: 'Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Pháp Hoa Hội Thượng Phật,
Bồ Tát.' Niệm xong cúi xuống lạy, vừa tưởng bài kệ lễ kinh:
Pháp tánh chơn không tợ hư không,
Pháp Bảo thường trụ khó nghĩ bàn!
Nơi trước Pháp Bảo hiện bóng con,
Như pháp một lòng nương kính lạy.
Lại tưởng toàn bộ kinh và chư Phật, Bồ Tát ở trong kinh đều phóng ánh sáng soi
đến thân mình cùng các loài hữu tình trong pháp giới. Nếu lạy từng chữ, phải
niệm: 'Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (...) tự Pháp Bảo.' Cứ lạy chữ
nào thì niệm chữ ấy, từ chữ: 'Như, thị, ngã, văn...' cho đến hết bộ kinh đều
niệm như thế. Nhưng phép quán tưởng chẳng phải dễ, nếu hiểu lý không rành hoặc
tâm thức rối loạn, sợ e bị những việc ma. Điều cần yếu phải lấy sự chí thành
cung kính làm chủ, nếu quán tưởng được thì quán, bằng không, nên đem hết lòng
thành mà lạy, công đức cũng vô lượng. Theo chương trình của cư sĩ đã lập: đối
trước kinh mà lạy, khi lạy xuống tưởng kệ, lúc đứng lên niệm Phật, quán
Phật..., tốt hơn là nên để kinh trước bàn Phật cúng dường rồi chuyên nhất lễ
Phật A Di Đà. Chớ cho rằng công đức duyên tưởng một vị Phật không rộng lớn bằng
duyên tưởng nhiều vị Phật. Nên biết Phật A Di Đà là pháp giới tạng thân, bao
nhiêu công đức của chư Phật trong mười phương pháp giới, nơi một đức Phật A Di
Đà đều đầy đủ cả. Ví như lưới châu của trời Đế Thích, ngàn châu hiện đủ trong
một hột châu, một hột châu in bóng khắp ngàn châu, mỗi châu đều dung nhiếp lẫn
nhau, không dư không thiếu. Nếu bậc Đại Sĩ tu hành đã lâu, không ngại gì duyên
cảnh rộng nhiều, cảnh càng nhiều tâm càng chuyên nhất. Trái lại kẻ mới học đạo,
nếu duyên cảnh nhiều tâm thức sẽ rối loạn, và người chướng sâu huệ cạn có khi
còn bị những việc ma. Vì lẽ ấy, Thế Tôn ta và chư Tổ đều bảo phải một lòng
chuyên niệm Phật A Di Đà, đợi khi nào chứng được Tam Muội thì trăm ngàn pháp
môn, không lường diệu nghĩa thảy đều đầy đủ. Người xưa nói: 'Tắm được biển cả,
tức là dùng nước trăm sông; đến điện Hàm Ngươn còn hỏi Trường An chi nữa?' Lời
này có thể gọi là một tượng trưng rất đúng cho lẽ trên đây vậy.
Đến như sự dứt dữ làm lành, thành thật kiểm điểm lấy mình, tuy không chi hay
hơn phép công quá cách; nhưng nếu tâm không chuyên chú nơi sự thành kính, dù
mỗi ngày có ghi công chép lỗi cũng là việc suông. Sổ công quá cách ở vùng này
chưa thấy có. Cứ theo chỗ hiểu của tôi, chỉ nên giữ lòng thành kính trong tất
cả thời, đừng để một niệm không tốt nổi lên, khi đối đãi với người phải luôn
luôn gìn lòng trung thứ. Được như thế, dù vọng niệm có thoạt khởi cũng liền tự
biết, biết rồi liền trừ, tất ba nghiệp không bị lôi cuốn vào đường lầm lạc.
Những kẻ tiểu nhơn bề ngoài hiền lành, trong lòng ác độc, cho rằng không ai
biết mình; đâu ngờ người phàm dù không biết, song bậc tu hành đắc đạo, thấy
hiểu rõ ràng. Lại, chư thiên, quỉ thần tuy chưa đắc đạo, nhưng nhờ quả báo có
tha tâm thông, nên cũng hiểu biết được. Nói gì là các bậc Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát và chư Phật, tha tâm đạo nhãn thấy suốt ba đời như xem nơi lòng
bàn tay đó ư? Muốn không biết, chỉ có mình không biết thì được, nếu mình biết
thì trời đất, quỉ thần, Phật, Bồ Tát tất rõ biết. Hiểu nghĩa này, tuy ở nơi nhà
tối, chỗ vắng cũng không dám móng niệm ác. Kẻ ngoan cố nếu được biết lý trên
đây cũng tự hổ thẹn, lựa người chơn tu hay sao? Như muốn bớt lỗi phải ghi nhớ
điểm này, hằng đem lòng kính sợ. Nhưng đây là ước theo chỗ hiểu biết cạn cợt
của tình đời mà nói, thật ra tâm ta cùng mười phương pháp giới đồng thể dung
hợp, vì ta mê nên sự thấy biết chỉ cuộc ở riêng mình. Mười phương chư Phật
chứng suốt tạng tâm, tất cả chúng sanh trong pháp giới khởi lòng động niệm, các
Ngài đều thấy biết rõ rệt như hình tượng in bóng trong gương. Đó là vì chư Phật
đã vào bản thể bình đẳng chân như, mình và người không khác.
Nếu cư sĩ rõ suốt nghĩa này, có thể tự dè dặt sợ hãi, giữ lòng kính thành,
trước tiên còn gắng sức trừ vọng, lâu ngày vọng niệm sẽ tiêu mòn không khởi
nữa.
- 2 -
Được thơ, biết gần đây cư sĩ tu trì
thân thiết, xét mình sửa lỗi noi dấu thánh hiền, chẳng phải cầu lấy hư danh,
tôi lấy làm vui đẹp! Muốn học Phật, Tổ, thoát sanh tử, những điểm đầu tiên là:
hổ thẹn, sám hối, dứt dữ, làm lành, giữ trai giới và thường tự răn nhắc. Lại
cần phải đạt đến chỗ thật, hết sức mà làm, bằng không thì thành sự dối ở trong
giả dối. Cho nên, biết không khó, làm mới chính là khó! Nhiều bậc thông minh
giữa đời, vì nói có làm không, thành thử luống qua một kiếp, uổng chơi non báu
đi về tay không, thật rất đáng đau tiếc! Vọng niệm lẫy lừng là do bởi chưa chơn
thiết giữ gìn chánh niệm, nếu cứ chuyên chú một cảnh thì vọng tưởng sẽ đổi
thành chánh trí. Cho nên, trị đắc sách thì giặc cướp đều là con đỏ, trị thất
sách tuy kẻ tâm phúc cũng hóa oan gia. — địa vị phàm phu, ai lại không có
nghiệp hoặc? Nhưng khi bình thường nếu đề phòng trước, lúc gặp cảnh duyên,
phiền não mới không bạo phát; dù phát khởi cũng có thể liền tự biết mà dứt trừ.
Những cảnh làm duyên để khởi phiền não rất nhiều. Nhưng mạnh nhứt là tiền của,
sắc đẹp và chuyện ngang trái bất thường. Nên biết của tiền phi nghĩa hại hơn
rắn độc, thì không còn lòng tham muốn khi thấy của. Giúp đỡ người chính là xây
đắp nền phước đức cho mình về sau, biết như thế, khi có ai hoạn nạn cầu cứu,
không vì tiếc của không cho, mà khởi lòng phiền não. Về sắc đẹp, lúc đối trước
người xinh tốt như hoa, tợ ngọc, cho đến kẻ kỹ nữ, nên tưởng đó là chị, hoặc em
ruột, sanh lòng cứu độ xót thương, tất không bị sắc làm động niềm ái dục. — gia
đình, chồng vợ phải kính nhau như khách, nên xem thê thiếp là người ơn giúp đỡ
lẫn nhau và vì sự nối dõi dòng họ, mới không bị sắc dục hại mình. Đến như gặp
việc ngang trái nên sanh lòng xót thương dung thứ cho kẻ không biết lỗi lầm,
chớ tranh chấp hơn thua. Lại tưởng rằng: kiếp trước mình đã từng làm khổ hại
người, hôm nay bị việc này là trả nợ tiền khiên; nghĩ như thế tự nhiên vui vẻ,
không sanh lòng nóng giận muốn báo cừu. Song, những phương pháp trên đây là để
áp dụng với kẻ sơ cơ, nếu bậc Đại Sĩ tu hành đã lâu, bao nhiêu phiền não đổi
thành tạng tâm sáng suốt, muôn cảnh vẫn không thật tánh, những việc tổn hại lợi
ích đều tự nơi người mà thôi.
Đến như luận về pháp môn Niệm Phật thì Tín, Nguyện, Hạnh là tông yếu. Ba món
nầy đầy đủ, quyết định được vãng sanh. Về phần Tín, Nguyện, nên để tâm chú
trọng, phải một lòng cầu về Tây Phương, chớ mong kiếp sau trở lại làm người
hưởng sự giàu sang. Chẳng những không muốn thọ thân vua ở cõi trời, người, dù
cho thân một vị cao tăng nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, mở rộng pháp
hóa làm lợi ích chúng sanh, cũng xem như gốc tội không khởi niệm ưa thích (vì
đó là ngộ chớ chưa phải chứng, vẫn còn bị luân hồi và có thể đọa lạc). Được như
thế thì tín nguyện của ta mới cảm đến Phật, và thệ nguyện của Phật mới có thể
nhiếp thọ ta. Nên biết cõi Cực Lạc chẳng những sức phàm phu không thể đến, mà
chính bậc thánh Tiểu Thừa cũng không đến được, vì nơi ấy là cảnh bất tư nghì
của Đại Thừa. Bậc tiểu thánh hồi tâm về Đại Thừa mới có thể đến, còn phàm phu
nếu không tín nguyện cảm Phật, dù cho có tu tất cả thắng hạnh và hạnh mầu trì
danh cũng không thể vãng sanh. Cho nên, tín nguyện rất là cần yếu. Ngài Ngẫu
Ích nói: 'Được sanh cùng chăng, toàn do tín nguyện có hay không; phẩm sen cao
thấp, đều bởi trì danh sâu hoặc cạn.' Đây là một luận án sắt, dù ngàn Phật ra đời
cũng không thay đổi. Với lẽ này, nếu cư sĩ nhận chắc, mới có phần nơi cõi Tây
Phương.
Như niệm Phật khó quy nhất, phải nhiếp tâm niệm kỹ. Phép nhiếp tâm không gì hơn
chí thành, tha thiết, nếu không chí thành mà muốn quy nhứt ấy là điều rất khó.
Đã chí thành niệm còn chưa thuần, phải lắng tai nghe. Không luận niệm thầm hay
ra tiếng, đều phải niệm khởi từ nơi tâm, tiếng ra từ nơi miệng rồi lại vào tai
(dù niệm thầm nơi ý vẫn có tướng miệng niệm). Tâm và miệng rành rẽ, tai nghe rõ
ràng nhiếp tâm như thế, vọng niệm tự dứt. Nếu làn sóng vọng tưởng nổi trào quá
mạnh, nên dùng phép Thập Niệm Ký Số đem hết tâm lực chuyên vào câu niệm Phật,
thì vọng tưởng bị đàn áp không có chỗ xen hở để nổi lên. Phép này nhiếp tâm rất
tuyệt diệu, thuở xưa những vị hoằng dương tông Tịnh Độ chưa nói đến là vì căn
cơ người thời ấy còn sáng lẹ, không cần dùng cách này vẫn có thể niệm Phật được
quy nhứt. „n Quang tôi vì tâm khó điều phục, nhiều phen dùng thử mới biết là
hay, nguyện cùng những người độn căn đời sau y theo tu tập để được đồng sanh về
Cực Lạc. Thập Niệm Ký Số là khi niệm Phật phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười
câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần mãi. Nhưng phải niệm
trong vòng mười câu mà thôi, không được hai hoặc ba mươi câu, lại không nên lần
chuỗi, chỉ dùng tâm ghi nhớ. Nếu nhớ niệm luôn một mạch mười câu thấy khó, thì
phân làm hai đoạn, từ một đến năm, từ sáu đến mười. Nếu hoặc còn thấy kém sức
lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười. Cần để ý: Niệm,
nhớ và nghe phải rõ ràng, vọng niệm mới không xen vào được. Dùng phép này lâu,
sẽ được nhất tâm. Nên biết phép Thập Niệm Ký Số cùng phép Thập Niệm của ngài Từ
Vân, về phần nhiếp vọng thì đồng, phần dụng công lại rất khác. Phép Thập Niệm
tùy theo hơi người dài ngắn, không luận được bao nhiêu câu Phật, cứ một hơi kể
là một niệm. Về phép này mỗi buổi sớm mai, chỉ dùng trong mười niệm mà thôi,
nếu quá số ấy lâu ngày sẽ thành bị lao hơi. Phép Thập Niệm Ký Số thì niệm một
câu biết một câu, mười câu biết mười câu, từ một đến mười rồi trở lại, dù cho
mỗi ngày niệm cho đến mấy muôn câu cũng ghi nhớ như thế. Niệm như vậy không
những trừ được vọng, lại có thể dưỡng thần, vì tùy sức tùy ý, hoặc chậm hoặc
mau, không chi trở ngại. Lại, so với cách niệm lần chuỗi ghi số, phép Thập Niệm
Ký Số lợi ích hơn nhiều vì lần chuỗi thân mõi nhọc, tinh thần xao động, còn
cách này thì thân nhàn mà tâm an. Chỉ những khi nào làm việc, hoặc khó ký số,
nên khẩn thiết niệm suông, đợi lúc xong việc lại nhiếp tâm ký số. Như thế thì
vọng tưởng không còn tung hoành, tâm cảnh an trụ vào câu niệm Phật.
Đức Đại Thế Chí Bồ Tát nói: 'Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn, được Tam Ma
Địa, đây là bậc nhứt.' Lời này với hạng lợi căn thì không cần luận, nếu kẻ độn
căn như chúng ta, bỏ phép Thập Niệm Ký Số mà muốn nhiếp sáu căn, nối tịnh niệm,
thật khó vô cùng! Cách niệm Phật lần chuỗi chỉ nên dùng trong những khi đi
đứng, còn lúc tịnh dưỡng thần, nếu lần chuỗi thì do tay động, thần cũng không
an, lâu ngày có thể sanh bịnh. Khác hơn thế, phép Thập Niệm Ký Số lúc đi, đứng,
nằm, ngồi đều dùng được, nhưng khi nằm chỉ nên niệm thầm, nếu ra tiếng đã không
cung kính lại bị lao hơi, nên nhớ kỹ.
Cư sĩ tuổi đã năm mươi, nếu muốn được giải thoát trong hiện đời, phải chuyên
chú nơi môn Tịnh Độ. Kinh Kim Cang, Pháp Hoa nên tạm gác một bên, đợi khi nào
lý Tịnh Độ thông suốt, niệm Phật được nhứt tâm rồi sẽ hay. Nếu bây giờ vừa
nghiên cứu vừa tu hành, e cho thời gian có hạn, trí lực không kham, bên nào
chẳng thành bên nào, hai sự lợi ích cùng bị mất cả.
Thơ đáp Cư Sĩ Châu Trí Mậu (1 - 3)
- 1 -
Được thơ, biết ngươi sanh lòng tin,
muốn quy y Phật Pháp. Song, quy y Tam Bảo phải dứt điều ác, làm việc lành, gắng
giữ trọn luân thường, phát lòng tín nguyện cầu sanh về Tây Phương. Lại phải có
lòng thương xót hộ sanh, đừng giết hại, và trì lục trai hoặc thập trai. Nếu
chưa có thể dùng thanh đạm trọn đời, cũng chớ nên quá tham trong sự ăn uống.
Như thế mới không trái với tâm từ bi của Phật. Ngươi tên Châu Mộc, vậy nay ta
đặt cho pháp danh là Trí Mậu. Bởi tâm tánh ví như cây, do lửa phiền não thiêu
đốt nên cây ấy héo khô. Nếu có trí huệ thì phiền não không sanh, và cây tâm
tánh tự nhiên tốt tươi thạnh mậu.
Muốn thọ năm giới, trước nên xét lại tâm mình, như có thể giữ được mà không
phạm, thì hỏi cư sĩ Hóa Tam về cách tự thọ giới trước bàn Phật, y sẽ chỉ lại
cho. Đã quy hướng Phật Pháp, phải xem kỹ Văn Sao của ta, y theo thực hành, mới
không bị kẻ dung thường làm mê hoặc, khiến cho sanh tâm cầu phước báo đời sau,
hoặc mong thành Tiên rồi tu phép luyện đơn vận khí. Nếu có thể lãnh hội ý nghĩa
trong bộ Văn Sao, thì dù có trăm ngàn ngoại đạo cũng không thể lay chuyển được
tâm ngươi. Chớ cho rằng bộ ấy không đủ y cứ, phải biết những lời trong đó đều
do theo ý nghĩa Kinh Phật, hoặc thành ngôn của các bậc Tổ Sư, thiện tri thức mà
thuật lại, không phải tự ta bịa đặt viết ra.
Nên nhận xét kỹ, sự lợi ích sẽ được nhiều.
- 2 -
Ngươi ý chí rất kém, tâm lại quá
cao, tuy nói vâng lời ta, thật ra toàn là y theo thiên kiến của mình. Trong môn
Tịnh Độ, lòng tin là cội gốc. Tin được chắc, kẻ phạm tội ngũ nghịch thập ác đều
có thể vãng sanh; tin chưa vững, bậc thông tông thông giáo còn hoặc nghiệp cũng
không duyên phận. Ngươi đã chẳng phải là bậc thông tông giáo, có thể nương sức
mình trừ hoặc nghiệp để khỏi sanh tử, lại không tin nơi sức Phật và công đức
của tự tánh đều không thể nghĩ bàn, thì làm sao để giải thoát? Phải biết, nếu
đủ tín nguyện sâu thiết cầu về Tây Phương, không người nào chẳng được vãng
sanh. Niệm Phật là pháp tròn tắt mau lẹ để thoát nẻo luân hồi; với sự hướng
thượng của môn nầy, người còn chưa biết, lại sanh lòng háo thắng đi nghiên cứu
Khởi Tín Luận! Luận Khởi Tín tuy là cương yếu của Phật Pháp, nhưng khó đem sự
lợi ích cho người căn tánh kém và kẻ sơ cơ. Dù cho nghiên cứu Luận Khởi Tín
được thông suốt không còn nghi, đến khi dụng công lại phải y theo phép niệm
Phật cầu sanh mới là ổn thỏa. Nếu nói về lý giải, lại còn có những nghĩa của
pháp tướng, thiền, giáo rất nhiệm mầu, ngươi làm sao thông suốt cho hết được?
Tâm ngươi cao như thế, mà không biết hạn lượng sự cao theo sức mình! Ngươi tự
cho rằng 'căn tánh hèn kém, khó mong sanh về Tây Phương, chỉ cầu không đọa tam
đồ cũng vui lòng', đâu biết nếu chẳng được vãng sanh, tương lai sẽ bị đọa vào
ác đạo? Quan niệm ấy đã không hợp với giáo huấn của Phật, lại trái lời khuyên
bảo của ta, mà gọi: 'vâng theo thực hành, một lòng niệm Phật', là thế nào?
Nay ngươi chức nghiệp tầm thường, tư cách chưa phải là bậc cao thượng, sự lập
chí như thế, thật khiến cho người đáng than thở và buồn cười? Nên dứt hẳn mối
cao vọng cầu làm bậc đại thông gia ấy đi, rồi chuyên tâm nghiên cứu các kinh
sách Tịnh Độ và xem lại mấy bức thơ ta gửi cho Cao Thiệu Lân, Từ Nữ Sĩ trong
Văn Sao, y theo đó thực hành. Chớ nên vì mình căn tánh hèn kém mà nâng cao sự
vãng sanh, để việc ấy ra vòng ngoài. Phải dùng câu niệm Phật làm bổn mạng ngươn
thần, tùy lúc động tịnh đều nắm chắc đừng buông bỏ. Lại, những tâm niệm, hành
vi phải giữ sao cho hợp với tông chỉ: dứt các điều ác, làm những việc lành.
Ngoài ra, nếu có sức dư, không ngại gì tụng trì kinh chú, nên lấy sự chí thành
làm cội gốc, đừng gấp muốn suốt thông nghĩa lý. Nếu trước vội muốn thấu hiểu,
chẳng chuyên nơi sự tụng niệm chí thành, dù có thấu hiểu cũng không thật ích,
huống chi khó thấu hiểu ư? Đến như các môn pháp tướng, thiền, giáo, nghiên cứu
trọn đời cũng khó nắm được chỗ quy thú, dù được, còn phải dứt sạch hết hoặc
nghiệp mới thoát khỏi luân hồi. Nói đến việc nầy, e rằng mộng không thành mộng
đó thôi! Bộ Văn Sao của ta, ngươi xem chưa kỹ, nên lời nói ra, cao thì tới mây
xanh, thấp lại tận đáy biển thẳm. Trong ấy, luôn luôn nhắc đến những kinh sách
nên xem, cách thức xem như thế nào, và sự khó được lợi ích của các môn pháp
tướng, thiền, giáo. Sở dĩ có sự khó dễ vì pháp môn Tịnh Độ nương nhờ sức từ của
Phật, các pháp môn khác chỉ dùng sức mình. Những môn kia đều là giáo lý thông
thường, như sĩ phu trong đời do tài đức mà làm quan cao thấp. Môn Tịnh Độ là
giáo lý đặc biệt, như thái tử mới sanh đã tôn quí hơn quần thần. Vì thế, hai
bên không thể sánh nhau, mà phàm phu nghiệp chướng vẫn nhiều, há chẳng dè dặt
trong sự lựa chọn pháp môn để tu hành ư?
Ngươi đã tự nhận năng lực kém hèn, kiếp người có hạn, sao còn mãi theo cao vọng
của mình? Việc ấy ta không ép, nếu ngươi làm được bậc đại thông gia thì cũng
hân hạnh cho Phật giáo, sợ e khi làm chẳng xong, môn Tịnh Độ lại chưa tin chắc,
rồi ra hỏng mất cả đôi. Giả sử đời nay có tu được chút ít công đức, kiếp sau
nhất định sẽ lạc vào vòng phước báo của thế gian. Ngươi thử nghĩ: người giàu
sang đã mấy ai không tạo nghiệp? Như ngày nay vận nước nguy biến, dân chúng lầm
than, đều do bởi ảnh hưởng phước báo của những người đời trước tu hành không
trí huệ. Khi đã lạc vào kiếp sau, ngươi làm thế nào bảo đảm được mình khỏi mê
lầm, không đọa ác đạo? Nếu chẳng sanh về Tây Phương, một đời không đọa còn có
thể, hai đời không đọa rất ít lắm đó!
- 3 -
Phật nói kinh chú rất nhiều, đâu có
ai thọ trì cho hết được. Nên người xưa chỉ lựa những thứ cần yếu để làm nhật
khóa. Sớm thì tụng Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập Chú, Tâm Kinh, xong lại niệm Phật
hồi hướng Tây Phương. Tối đến tụng Kinh Di Đà, văn Đại Sám Hối, Mông Sơn, rồi
niệm Phật hồi hướng. Hiện nay các chùa đều bớt công phu, thời mai chỉ tụng Lăng
Nghiêm, Tâm Kinh; thời hôm tụng Kinh Di Đà, văn Mông Sơn, cách ngày lại tụng
Kinh Đại Sám Hối, Mông Sơn. Ngươi nói nghi nhật tụng trong tòng lâm kinh chú
rất nhiều, đó là những thứ phụ lục ngoài hai thời khóa. Người cư sĩ tại gia có
thể y theo thời khóa của nhà thiền, hoặc tùy ý mình lập riêng. Như sớm tối đều
tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật; hoặc sớm tụng chú Đại Bi, niệm Phật,
tối tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật, hay trì Kinh Kim Cang cũng được.
Nhưng không luận tụng niệm kinh chú chi, đều phải niệm Phật hồi hướng, mới hợp
với tông chỉ tu Tịnh Nghiệp.
Những điều ngươi bày tỏ, tuy cũng là ý tốt, song thật ra không có chủ định, chỉ
theo hoàn cảnh đổi dời. Kinh nào, chú nào, lại chẳng ngợi khen công đức thù
thắng? Theo quan niệm của ngươi, tụng kinh nầy sẽ mất kinh kia, trì chú này tất
buông chú nọ, bỏ hết nghĩ tiếc uổng, tụng trì cả sức lại không kham. Như thế có
được gọi là người chơn tu hiểu lý hay chăng? Suy rộng ra, nếu ngươi gặp nhà tu
Thiền khen pháp Thiền, bác Tịnh Độ, cũng bắt chước họ tham thiền; cho đến các
môn khác như: Thiên Thai, Mật Tông, Pháp Tướng, Hiền Thủ, mỗi khi gặp bậc tri
thức đề xướng, tất ngươi sẽ mất chủ định bỏ đây theo kia. Chẳng biết ngươi căn
tánh bậc nào, mà muốn thông suốt hết các pháp như thế? Ta chỉ e cho ngươi
nghiệp sâu trí cạn, khi làm nhà đại thông gia không được, lại bỏ luôn cả pháp
nương sức Phật vãng sanh của môn Tịnh Độ, để lúc lâm chung nếu chẳng đi đến vạc
dầu lò lửa, quyết lạc vào bụng ngựa thai lừa! Giả sử may mắn không mất thân
người chăng nữa, lại do đời nay tuy có công tu song thiếu chánh trí, nên nhân
đó hưởng được si phước, rồi tạo nghiệp ác, khi vô thường đến, cũng đi thẳng vào
tam đồ. Chừng ấy muốn nghe tên trời, đất, cha, mẹ còn không được, huống nữa là
biết pháp môn Tịnh Độ ư? Ngươi xem Văn sao của ta hiểu như thế nào? Phải biết,
một câu A Di Đà Phật, nếu trì niệm đến chỗ cùng cực, thành Phật còn có dư.
Ngươi cho rằng tụng Kinh Di Đà và niệm Phật, không thể diệt được định nghiệp
hay sao? Phật Pháp cũng như tiền, tại người khéo dùng; ngươi có tiền, làm việc
gì lại không được? Nếu ngươi có thể chuyên tu một pháp, cầu sự chi lại chẳng
thành? Lựa là phải khăng khăng trì chú này tụng kinh kia mới được công đức như
thế, ngoài ra không được những công đức khác hay sao? Nếu khéo thể theo lời ta,
tự nhiên hiểu một việc rõ trăm việc; bằng chẳng thế, dù nói cho nhiều, tâm
ngươi cũng không chủ định, nào có ích gì?
Phàm phu ở trong mê, lòng tin không vững, nên thường có những việc khi tu hành
khi tạo nghiệp, thoạt tin tưởng thoạt nghi ngờ. Đó cũng bởi lúc ban sơ người
dạy không biết cách, nếu trước tiên đem việc nhân quả thiển cận chỉ bảo lần
lần, thì đâu đến đỗi có sự mê lầm trái ngược như thế! Nhưng tội đã qua tuy rất
nặng, nếu hết lòng sám hối sửa đổi, y theo sự hiểu biết chơn chánh, chí quyết
tu tịnh nghiệp, lợi mình lợi người, thì tội chướng tiêu mòn, tâm tánh sáng tỏ.
Nên kinh nói: 'Trong đời có hai bậc anh dũng, một là người không tạo tội, hai
là kẻ đã tạo mà biết sám hối.' Một chữ hối phải tự đáy lòng phát lộ, nếu không
thật tâm ăn năn chừa cải, dù nói lắm cũng là thừa. Ví như người đọc phương
thuốc mà không chịu uống, làm sao bệnh được lành? Nếu có thể y theo cách trị
dùng thuốc, chắc chắn bệnh sẽ tiêu trừ, thân tâm yên ổn. Chỉ lo cho kẻ lập chí
chẳng bền, thành ra cảnh một ngày phơi nắng mười ngày để lạnh, rồi cũng luống
có danh suông, không phần thật ích mà thôi!
Thơ đáp Cư Sĩ Châu Mạnh Do (1 - 10)
- 1 -
Từ thân của ngươi tuổi đã cao, đối với pháp môn Tịnh Độ chưa có thể nhận chân mà tu trì. Nên thường đem nỗi khổ trong sáu nẻo luân hồi, sự vui ở cõi Cực Lạc và những lẽ siêu thăng khó, sa đọa rất dễ, giảng nói cho người nghe. Nếu chẳng được về Tây Phương, đừng nói là ở cõi người không đủ trông cậy, dù sanh lên cõi trời hưởng sự vui vẻ lâu dài, một khi phước lực đã hết, vẫn trở lại đọa xuống nhân gian và ba đường ác mà chịu khổ. Nếu không biết Phật Pháp thì cũng đành vậy, nay đã được hiểu Phật Pháp đâu nên đem sự lợi ích lớn lao ấy nhường cho người? Và đâu nỡ tự mình cam chịu chìm nổi mãi trong biển khổ luân hồi, không mong ngày giải thoát ư? Ngươi nên thường giảng nói như thế, may ra có thể khiến cho lệnh từ phát được căn lành đời trước, tin chịu tu hành. Bồ Tát ra đời độ sanh đều thuận theo cơ nghi, trước tùy sở dục mà dắt dẫn, sau khiến cho vào trí Phật. Nếu ngươi có thể gắng tu hiếu đạo và đem pháp môn Tịnh Độ khuyên dẫn trong hàng quyến thuộc cùng tất cả người hữu duyên, để đồng làm bạn tốt nơi Liên Trì, thì công đức lớn lắm?
- 2 -
Người đời khi có bệnh hoặc gặp những
sự nguy hiểm tai nạn, thường thường không biết niệm Phật làm lành, lại lầm lạc
muốn cầu cứu với quỉ thần. Do đó nên giết hại sanh mạng gây thêm tội nghiệp,
thật rất đáng thương! Bệnh khổ cùng những tai họa, phần nhiều đều do nghiệp đời
trước gây ra; nếu niệm Phật, sám hối, làm lành, thì tội chướng sẽ tiêu, bệnh
được mau mạnh. Loại quỉ thần kia chính họ hãy còn ở trong biển nghiệp, đâu có
thể khiến cho người tiêu nghiệp? Dù cho hạng chánh thần có oai lực lớn chăng
nữa, oai lực ấy so với thần lực của Phật, Bồ Tát chẳng khác chi lửa đom đóm
sánh cùng ánh sáng mặt trời! Người Phật tử không chịu nương tựa Phật, Bồ Tát,
trở lại cầu cứu với quỉ thần, đó là tà kiến.
Tất cả chúng sanh đều là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị lai, nên thương
xót hộ trì. Chớ noi theo tập tục sai lầm, mặc ý giết hại, rồi bảo rằng: phải
cần có thức ngon bảo để phụng dưỡng song thân mới là đạo hiếu. Người chưa hiểu
Phật Pháp, không biết sự lý luân hồi, nên mê mờ lầm lạc chẳng nói làm chi. Nếu
kẻ đã nghe Phật Pháp, mà còn giết hại cha mẹ đời trước để phụng dưỡng cha mẹ
đời nầy và dùng huyết nhục làm nhu cầu cho sự tang tế, chẳng những không phải
hiếu thuận, lại chính là ngỗ nghịch vậy. Cho nên những bậc thông đạt, khi nghe
được nghĩa chân thật của đạo Phật, đều không chịu làm theo quyền pháp ở đời,
bởi pháp quyền tạm ấy do chiều thuận theo mê tình của thế gian mà lập, không
phải là đạo lý thông suốt nhân quả ba đời của Như Lai. Nếu các người muốn nhận
thức sâu hơn, hãy xem những bài 'giới sát' trong quyển Văn Sao của ta sẽ tự rõ.
- 3 -
Người niệm Phật khi có bệnh, phải một lòng đợi chết, nếu thọ mạng chưa dứt, sẽ được an lành. Vì khi buông cả toàn thân mà niệm Phật, thì nghiệp chướng tiêu rất mau, nghiệp tiêu tất nhiên bệnh được lành mạnh. Nếu chẳng buông bỏ muôn duyên, chỉ mong mau lành mạnh, thảng như bệnh không hết, thì phần vãng sanh sẽ phải mất, bởi vì không có tâm nguyện cầu sanh. Như không hiểu rõ đạo lý này, đâu có thể nhờ từ lực của Phật tiếp dẫn ư? Về bệnh căn của lệnh từ, các ngươi nên khuyên người buông bỏ tất cả để cầu vãng sanh. Như thọ mạng chưa dứt, thì cầu vãng sanh trái lại mau bình phục, vì do dùng tâm chí thành, nên được nhờ sức Phật gia bị. Ngươi nên đem lời lẽ trên đây mà khuyên nhủ từ thân, đừng học theo thường tình, nói những điều không lợi ích.
- 4 -
Tiếp được thơ, biết lệnh từ chưa thật phát tâm cầu sanh Cực Lạc. Hiện thời người còn đang trong cơn bệnh, thôi hãy tạm hoãn đừng đề cập đến việc ấy. Chỉ nên khuyên người chí thành niệm Phật, để được nhờ từ lực gia bị, khiến cho thân tâm an vui. Đợi đến khi lệnh từ khỏe lại rồi, sẽ dùng lời lẽ khéo léo dẫn giải rành rẽ, làm cho người thật phát tâm cầu sanh thì mới có lợi ích. Nhờ ngươi chuyển lời cùng lệnh từ, nói ta thăm người được an lành. Và nên nói lại rằng: ta khuyên người buông cả muôn duyên một lòng niệm Phật, đó là điều cần yếu để tự cứu độ. Ngoài ra việc chi khác, để phần con cháu lo, nếu còn nghĩ tưởng đến, tức là có hại cho công phu niệm Phật của mình vậy.
- 5 -
Châu Quần Tranh xem rõ:
Lệnh từ hiện đang có bệnh, quyết không nên đi vắng trong lúc người chưa lành.
Nhưng ta xem tình trạng, e người chẳng hưởng thọ được lâu. Vậy phải dùng Mạnh
Do và Trí Chiêu mỗi ngày thay phiên nhau ở bên giường bệnh mà niệm Phật, khiến
cho người niệm theo, nếu không thể niệm thì khuyên người yên lặng lắng nghe
cũng được. Làm như thế, nếu lệnh từ thọ mạng đã hết, quyết định sẽ vãng sanh,
như số phần chưa mãn, cũng được tiêu trừ nghiệp chướng thêm lớn căn lành.
Về phần ngươi, nên đổi ý định lên núi Phổ Đà bằng cách vâng theo lời ta mà thực
hành là tốt hơn. Như thế mới lưỡng toàn không hại. Hiện thời từ thân của ngươi
bệnh chưa mạnh, rất không nên phát tâm nguyện xuất gia, nếu phát thì đối với
đời và đạo đều thành trái nghịch. Người sắp mạng chung, như được trợ niệm, chắc
có phần vãng sanh; nếu thiếu trợ niệm, hoặc dùng sự khóc lóc làm phát động
những niệm tình ái giận hờn, thì khó khỏi đọa lạc. Điều này rất quan hệ, nguy
hiểm, nên nhớ kỹ. Nếu ngươi có thành tựu sự vãng sanh cho mẹ, đó cũng là chánh
nhân tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời. Và đó chính là làm Phật sự giữa
trần lao, công đức ấy sánh với việc làm tầm thường, muôn phần rộng lớn. Phải
bàn tính với Mạnh Do, thực hành phương pháp trợ niệm, và khuyên lệnh từ nên
nghe theo những lời của ta. Đến như việc vì mẹ giảng giải Phật Pháp, vẫn là
điều rất hay, nhưng sự định tỉnh cùng an ủi cũng nên nhiều phần để ý.
- 6 -
Lệnh từ phát nguyện gởi tiền cho ta để tùy ý làm các việc công đức và giúp phần ấn loát bộ Văn Sao. Theo ý ta, làm việc công đức phải lấy sự mở mang trí thức của người làm điều cần yếu, nên ta định đem số tiền ấy in quyển Quán Âm Tụng để phổ biến khắp xa gần. Việc nầy có mục đích khiến cho mọi người được biết đức Quán Âm Đại Sĩ là đấng nương tựa của chúng sanh trong pháp giới. Đại Sĩ tùy loại hiện thân, tìm tiếng cứu khổ, và phụ giúp đức A Di Đà tiếp dẫn người niệm Phật sanh về Cực Lạc. Hiện nay nhân loại đang ở trong đường hoạn nạn, không biết phương pháp chi phòng ngừa, nếu mọi người được xem quyển sách ấy, sẽ cảm ân đức của Đại Sĩ, muốn nhờ oai lực của Ngài để thoát khỏi tai họa. Và, một khi đã phát tâm tín ngưỡng nương tựa nơi Đại Sĩ, tất sẽ giữ lòng từ thiện sửa lỗi làm lành, để mong cho được cảm thông với Ngài mà nhờ sự chở che giúp đỡ. Cõi đời chẳng yên, vì lòng người hiểm ác, nếu mọi người đều ngưỡng mộ đức từ bi của Đại Sĩ thì thế giới lần lần chuyển ra cảnh vui vẻ thanh bình. Cho nên quyển sách này nếu được lưu thông, sự lợi ích sẽ vô cùng, sánh với các loại sách hữu ích tạm thời, thật cách nhau rất xa. Hơn nữa lệnh từ cũng nương nhờ công đức ấy, tiêu tội nghiệp, thêm phước huệ, khi sống được an vui, lúc chết sanh về Cực Lạc. Đến như quyển Văn Sao, mọi người xem rồi phát tâm làm lành niệm Phật rất nhiều, ở đây không thể nói hết.
- 7 -
Lệnh từ vì sao bệnh không được lành? Âu là do túc nghiệp gây ra, khiến đổi quả nặng thành nhẹ, chuyển hậu báo làm hiện báo, để trả cho xong tất cả đó chăng? Thuở xưa, Huyền Trang Pháp Sư khi lâm chung cũng bị chút ít bệnh khổ, Ngài nghi ngờ cho những kinh mình phiên dịch hoặc có chỗ sai lầm. Đang khi suy nghĩ như thế, thoạt thấy một vị Bồ Tát an ủi rằng: 'Do sự khổ nhỏ nầy, tội báo kiếp trước của ông đều được tiêu diệt, chớ đem lòng hoài nghi.' Vậy ngươi hãy đem duyên sự này an ủi lệnh từ, khuyên người nên vui mừng, chớ sanh lòng buồn giận. Như thế, quyết định có thể nhờ Phật gia bị, thọ mạng chưa dứt sẽ mau an lành, số phần đã mãn được sanh về Cực Lạc. Con người trong cơn bệnh khổ, nên tưởng thối lui một bước, sẽ thấy an vui không cùng! Gần đây binh lửa liên miên, chúng ta may mắn chưa gặp tai nạn ấy, dù bị bệnh khổ còn có thể nhân đó tự thức tỉnh để tìm đường giải thoát. Trong trường hợp ấy chỉ nên cảm khích chuyên tu, tự nhiên sẽ được lợi ích. Thế chẳng hơn là oán trời trách người để gây thêm tội nghiệp cho mình ư? Nên khuyên thân mẫu ngươi đừng ôm lòng oán trách, gắng định tâm niệm Phật thì nghiệp tiêu mau như tuyết gặp nước sôi. Ta từ khi trở về núi, mỗi ngày trong thời khóa tụng đều có hồi hướng cầu nguyện Tam Bảo gia bị cho lệnh từ, nếu thọ mạng chưa dứt, được mau an lành, như số phần đã mãn, sớm sanh về Tịnh Độ.
- 8 -
Tiếp được thơ, biết lệnh từ đã niệm Phật vãng sanh vào ngày mùng hai. Là đệ tử Phật, các ngươi phải y theo Phật Pháp khiến cho thần thức của từ thân được lợi lạc, chẳng nên quá buồn thương, thành ra kẻ còn người mất đều luống vô ích. Đến như việc tang tế phải dùng toàn đồ chay, chớ nên tùy theo tập tục. Dù có những người không hiểu Phật Pháp, bài xích nói là sai quấy, cũng mặc cho họ chê cười. Trong đám táng không nên quá phô trương bày vẽ, và làm Phật sự chỉ nên niệm Phật mà thôi. Anh em ngươi phải đốc xuất người nhà đều khẩn thiết niệm Phật, thì thần thức của lệnh từ, cả trong gia quyến, cho đến bà con bè bạn, sẽ được sự lợi ích, chân thật. Nếu tài lực có dư, cũng nên làm các điều công đức; như sự độ dụng vừa đủ, chỉ lo xong việc táng là được. Chớ nên làm quá long trọng, để rồi sau phải thiếu thốn là điều không hay.
- 9 -
Được thơ, thấy lệnh từ khi lâm chung
rất tốt. Đó âu cũng là sự hiệu nghiệm do căn lành bản nguyện của người, và công
trợ niệm của anh em ngươi cùng trong quyến thuộc. Thuở bình sanh, con người có
thể che giấu các việc, duy lúc sắp chết quyết không thể giả dối. Lệnh từ đã
không lòng ái luyến, có sắc vui tươi ngồi yên mà qua đời, nếu tịnh nghiệp chẳng
thành thục, đâu được như thế ư? Mong anh em ngươi và toàn gia quyến nên niệm
Phật để truy tiến. Như thế chẳng những thân mẫu các ngươi được lợi ích, mà công
đức niệm Phật của chính mình lại càng lớn thêm. Đức Phật đã dạy: 'Khi tụng
kinh, trì chú, niệm Phật hoặc làm các công đức, nên hồi hướng cho pháp giới
chúng sanh.' Lúc bình thời còn vì chúng sanh không can thiệp chi đến mình mà
hồi hướng, huống chi mẹ mất đâu nỡ chẳng hết lòng niệm Phật cầu nguyện cho
người ư? Nếu có thể vì chúng sanh hồi hướng, tức là hợp với thệ nguyện bồ đề
của chư Phật, như đem một giọt nước gieo vào biển thì giọt nước ấy đồng sự sâu
rộng như biển cả. Như chưa được dung hợp cùng biển, đừng nói một giọt nước, dù
cho sông dài hồ rộng, đối với biển vẫn cách biệt như đất với trời. Thế thì, khi
đem công đức hồi thí cho cha mẹ và tất cả chúng sanh, chính là bồi cội phước
cho mình. Biết được nghĩa này, người hiếu thảo lòng hiếu càng tăng thêm, kẻ kém
hiếu tâm cũng phát lòng thảo thuận.
Thỉnh chúng tăng tụng niệm trong bảy tuần thất, việc ấy rất tốt, nhưng khi đó
anh em các ngươi cũng phải có người đồng tụng niệm theo. Những phụ nữ trong nhà
bất tất phải theo thứ lớp đứng sau chư tăng mà tụng niệm, vì e lâu ngày thân
thiện nhau, sẽ gây mối hiềm nghi cho người ngoài. Hàng phụ nữ nếu có tụng niệm,
nên ở sau màn hoặc lập riêng một chỗ khác, các cửa ra vào hai bên đều không
thấy nhau. Đó là nêu khuôn phép và mở thông nghi thức cho người trong hương ấp.
Nếu thờ ơ không phân giới hạn, kẻ khác sẽ bắt chước theo, về sau sanh mối tệ.
Cách lập pháp của người xưa, dù bậc thượng thượng cũng lấy pháp thức của kẻ hạ
hạ mà làm phạm vi, nên không có sự tệ hại. Nếu các ngươi có thể y như thế vì mẹ
niệm Phật, lại kiêm ấn thí các quyển Quán Âm Tụng, Văn Sao, thì chẳng những
khiến cho từ thân phẩm sen thêm cao, mà ông bà cho đến thân phụ các ngươi cũng
được đồng nhờ pháp lợi, siêu sanh Cực Lạc. Mấy điều ta nói vẫn căn cứ đúng theo
tình lý, không phải là những lời bông lông cốt để vừa lòng đẹp ý các ngươi đâu!
- 10 -
Về phép hỏa táng, thuở đời Đường,
Tống, Phật Pháp còn thạnh, người tại gia phần nhiều cũng có dùng. Nhưng hiện
thời, nên theo thông tục mà chôn cất, vì e có chấp nê sanh ra nhiều điều nghị
luận. Thật ra thì thiêu hóa thi hài mau tiêu tan hơn, và qua bốn mươi chín ngày
thiêu hóa lại càng ổn tiện. Còn chôn cất, hoặc khi lâu năm hài cốt bị bộc lộ.
Tang chế ba năm không làm lễ nhạc, điều ấy vẫn nên tuân giữ. Đời nay luân
thường hiếu đạo bị gác bỏ một bên, phép tắc giữ gìn trong kỳ tang chế còn đáng
chi để luận bàn?! Tuy nhiên, cũng nên nương theo lễ giáo xưa châm chước mà làm,
đừng vội sửa đổi hoặc quá nê chấp. Cách dò thăm hơi nóng để nhận định thần thức
thác sanh về cõi nào, thật đáng y cứ. Nhưng ta sợ những kẻ không biết, cứ mãi
thăm dò, nên ý nói: 'người đủ tín nguyện, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng, thì
có thể vãng sanh, chẳng cần phải y theo một lệ, lấy sự lạnh nóng làm bằng cứ.'
Điều này cần nên để ý, vì nếu cứ rờ thăm hơi nóng, e phát động đến tâm luyến
ái, giận hờn của người sắp chết, làm cho hỏng mất sự vãng sanh.
Những thuyết 'thai sanh, nghi thành' trong Kinh Đại Bảo Tích, nơi pháp hội của
đức Vô Lượng Thọ Như Lai nói, là chỉ cho người niệm Phật đọa vào lỗi hối hận,
nghi ngờ. Đây chính là ước theo nghĩa bị ngăn che, cách ngại, mà lập tên 'thai
sanh, nghi thành', vì bị ở trong hoa sen năm trăm năm không được thấy Phật nghe
pháp, chớ đâu phải có sự thật? Sao lại cứ chấp chặt theo chữ mà giải nghĩa, cho
rằng hạng người ấy không thuộc vào chín phẩm sen? Nên biết ở Tây Phương không
có thai sanh cũng không thành quách, đó là ước theo nghĩa: không được liền ra
khỏi liên bào, bị cách ngăn với Phật, để thí dụ cho thai và thành thế thôi? Bởi
ngươi chấp định danh từ nên mới cho là ngoài chín phẩm, nếu quả vậy thì bậc hạ
trung cùng hạ hạ bị ngăn cách sáu kiếp và mười hai kiếp thai và thành lại càng
dầy đặc biết bao nhiêu? Mười hai kiếp kia còn thuộc về chín phẩm, huống nữa là
chỉ có năm trăm năm đó ư? Sao ngươi không xem tiếp tám chữ: 'ở trong hoa sen
không được xuất hiện...' hoa sen ấy không liệt vào sen chín phẩm hay sao?
Phật Pháp nghĩa rộng vô cùng, nếu chấp định thì không việc sanh việc, thành ra
phí hết bút mực thôi. Đó đều bởi tự mình để chân vào trong thành nghi, thành ấy
còn dầy hơn ngục Thiết Vi nữa. Nếu hiểu biết rõ ràng, tự nhiên cõi đất lặng
chìm, ngục Thiết Vi tiêu tan mất cả. Thầy Mạnh Tử nói: 'Dùng ý nghịch chí, đó
gọi là được'; chữ nghịch đây cũng là nghi thành. Nếu biết nghịch tức là ý nghĩa
nghinh hiệp, thì nghi thành sẽ rã tan. Một hạng người vì cố chấp, nên tuy giảng
nói, trọn ngày vẫn ở trong vòng mâu thuẫn. Đó là bởi căn bệnh chấp trước chưa
tiêu, thành ra khó được sự lợi ích thiết thực.
Cư Sĩ Đặng Bá Thành (1 - 2)
- 1 -
Từ buổi tương ngộ đến nay, thấm
thoát đã sáu năm, không những tuyết sương thay đổi, mà vận nước cũng khác xưa.
Cảnh đời vô thường, thật nên thương cảm! Tiếp được thơ, biết cư sĩ không xao
lãng tịnh nghiệp, tôi rất vui mừng! Nhưng trong thơ thấy nói thân tâm không an
vì cảnh nhà thiếu thốn, hay đau yếu dây dưa mà không an chăng...?
Nếu cảnh nhà thiếu kém, thiết tưởng cư sĩ nên lui một bước. Phải nghĩ rằng:
giữa đời, người hơn ta vẫn nhiều, song kẻ thua ta cũng không ít; chỉ cầu khỏi
đói lạnh, mơ chi đến giàu sang? Thảng như cư sĩ biết vui theo số phận, an với
cảnh duyên, hãy còn có thể chuyển phiền não thành Bồ Đề, lo gì không đổi được u
buồn thành vui đẹp? Nếu đau yếu dây dưa, nên thống niệm thân là cội khổ, sanh
lòng chán lìa, gắng tu tịnh nghiệp để cầu quyết sanh về Cực Lạc. Các đức Như
Lai đều lấy sự khổ làm thầy mới thành đạo Phật, chúng ta cũng phải lấy đau bệnh
làm thuốc để cầu giải thoát khỏi nẻo luân hồi. Nên biết phàm phu đủ nghiệp hoặc
ràng buộc, nếu không có những nỗi khổ cơ cùng tật bệnh... tất sẽ theo đuổi theo
trường sắc, thinh, danh, lợi, khó mà buông bỏ. Trong lúc đắc ý như thế, ai chịu
quay đầu nhìn lại, tưởng đến sự chìm đắm về sau ư? Thầy Mạnh Tử nói: 'Người nào
sắp lãnh một trọng trách thiêng liêng, trước tiên phải nhọc thân, khổ trí, hoặc
đói khát, khốn cùng, việc làm thất bại. Có như thế, kẻ ấy mới rèn luyện được ý
chí nhẫn nại, vững bền, tài năng cao siêu xuất chúng.' Thế thì biết, con người
được thành lập, phần nhiều nhờ nghịch cảnh, và trong trường hợp ấy, ta chỉ nên
an lòng thuận chịu mà thôi. Nhưng trọng trách của thầy Mạnh nói, chỉ là tước vị
ở đời, mà còn phải khổ nhọc như thế mới làm nên; huống nữa kẻ phàm phu thấp
thỏi như chúng ta, muốn gánh vác công việc trên thành đạo Phật, dưới độ chúng
sanh đó ư! Nếu như không bị một chút điên đảo vì nghèo bệnh, thì tình trần lừng
lẫy, tịnh nghiệp khó thành, gương lòng sẽ bị tối mờ, nhiều kiếp trôi lăn trong
ác đạo, sự giải thoát buổi tương lai chưa biết đâu là kỳ hạn!
Người xưa đã bảo: 'Ví chẳng một phen sương thấm lạnh. Hoa mai chi dễ thoảng mùi
hương!' Lời này là ý tứ trên đây vậy.
Cư sĩ nên bền chí niệm Phật để mau tiêu túc nghiệp, chớ sanh lòng phiền não rồi
oán trời trách người, cho nhân quả là hoang đường, chê Phật Pháp không linh
nghiệm. Nên biết chúng ta từ vô thỉ đến nay, gây nghiệp ác vô lượng vô biên,
như Kinh Hoa Nghiêm nói: 'Giả sử nghiệp ác có hình tướng, mười phương hư không
chẳng thể dung chứa hết.' Thế thì sự tu trì lơ là chút ít, đâu dễ dứt trừ hoặc
chướng hết được. Đức Thích Ca, A Di Đà vì thương xót chúng sanh không đủ sức
dứt nghiệp, riêng mở pháp môn 'nương nhờ Phật lực, đới nghiệp vãng sanh.' Ân
đức ấy thật vô cùng rộng lớn, dù trời đất cha mẹ cũng khó sánh trong muôn một.
Vậy cư sĩ nên hết lòng sám hối, tự có thể nhờ Phật gia bị khiến cho nghiệp
tiêu, thân tâm yên ổn. Như bệnh khổ bức bách không thể nhẫn chịu, thì hôm sớm
ngoài thời niệm Phật, cư sĩ nên chí thành niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Vì
với bổn nguyện tầm thinh cứu khổ, Bồ Tát hiện thân khắp mười phương quốc độ;
chúng sanh trong lúc nguy biến nếu có thể trì tụng kính lạy, Ngài sẽ tùy cơ cảm
mà giúp đỡ, khiến cho thoát khổ được vui.
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí
thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích
chân thật. Nếu bê trễ biếng lười, không chút chi kính sợ, tuy cũng gieo nhân
giải thoát về sau, nhưng quả báo của tội khinh lờn thật không thể tưởng nghĩ!
Dù có chút ít phước dư khỏi đọa vào ác đạo, được sanh về cõi trời, người, cũng
quyết khó dự nơi Liên Trì hải hội.
Đến như tượng Phật, phải tôn kính như Phật sống không nên xem là đất, gỗ, giấy,
đồng. Kinh điển là thầy của chư Phật ba đời, là pháp thân xá lợi của Như Lai,
cũng phải kính như Phật, không nên xem là loại giấy mực. Khi đối trước kinh
tượng, phải như tôi trung thờ chúa thánh, con thảo đọc di ngôn. Được như thế
tội nghiệp nào không tiêu, phước huệ nào chẳng đủ? Hiện nay hàng sĩ phu học
Phật vẫn nhiều, song hầu hết đều đọc văn giải nghĩa để cung cấp cho nguồn biện
luận, tỏ ra mình là một nhà thông hiểu giáo lý; xét về chỗ chí thành cung kính,
y giáo tu trì, thật là ít có người! Tôi thường cho rằng: Muốn được sự thật ích
của Phật Pháp, phải tìm nơi lòng cung kính. Có một phần cung kính thì tiêu một
phần tội nghiệp, thêm một phần phước huệ, hai ba phần cho đến mười phần cung
kính cũng như vậy. Trái lại, nếu càng khinh thường thì tội chướng càng thêm,
phước huệ càng suy giảm. Như thế chẳng đáng kinh sợ đau tiếc lắm ư? Khi gặp bè
bạn, cư sĩ nên đem ý này khuyên bảo nhau, đó là một món pháp thí rất lớn. Pháp
môn Tịnh Độ, như thông hiểu được, vẫn là điều rất quí, bằng có chỗ chưa rõ,
cũng cứ tin chắc lời của Phật, Tổ chớ nghi ngờ, nghi thì cùng với Phật cách xa,
khi lâm chung quyết khó được tiếp dẫn. Cổ đức cho rằng: 'Pháp môn Tịnh Độ chỉ
có Phật với Phật mới rõ cùng tận, bậc đăng địa Bồ Tát cũng không thể thấu hiểu
hết.' Như bậc đăng địa Đại Sĩ còn không thể thấu hiểu hết, ta đâu nên đem tâm
lượng phàm phu mà ức đoán sai lầm ư? Nếu muốn nghiên cứu, nên xem Tịnh Độ Thập
Yếu; quyển này do ngài Ngẫu Ích Đại Sư rút những tinh hoa trong các kinh sách
Tịnh Độ soạn ra, rất hợp thời cơ, đáng liệt vào bậc nhất. Mở đầu quyển là tập
Di Đà Yếu Giải, từ trước đến giờ về Kinh A Di Đà, chỉ có những lời chú thích
này là siêu tuyệt, phải tuân giữ không nên khinh thường. Người thông minh đời
nay, tuy học Phật Pháp nhưng vì chưa gần gũi với bậc cụ nhãn tri thức, nên hầu
hết đều chuyên trọng lý tánh, bác bỏ sự tu và nhân quả. Họ đâu biết, nếu sự tu
nhân quả đã mất, lý tánh cũng không còn. Lại có những kẻ tài cao, văn từ quỉ
thần kinh động mà xét đến hành vi thì không khác chi hạng vô trí thức, truy
nguyên đều do bác bỏ sự tu nhân quả mà ra. Mối tệ ấy khiến cho nhiều người lầm
lạc noi theo, đó là dùng thân báng pháp, tội lỗi không ngằn! Bậc thượng trí
thấy thế càng thêm xót thương đau đớn! Bộ Pháp Uyển Châu Lâm nói rõ nhân quả,
sự lý đều đầy đủ, những tích báo ứng cũng tinh tường, có thể khiến cho người
xem kinh sợ, dù ở nơi nhà tối cũng như đối trước Phật, trời, không dám khởi
niệm ác. Với bộ này, bậc thượng, trung, hạ đều được lợi ích, chắc không đến nỗi
lầm đường, chấp lý bỏ sự mà theo thói tà vạy, ngông cuồng. Ngài Mộng Đông đã
bảo: 'Người khéo nói tâm tánh, quyết không bỏ nhân quả; kẻ tin sâu nhân quả tất
rõ suốt tâm tánh, đó là lẽ đương nhiên.' Lời của Ngài là một chí luận ngàn đời,
cũng là mũi kim đâm trên đỉnh đầu những kẻ cuồng huệ.
Bộ Pháp Uyển, các nơi lưu thông Phật Pháp đều có bán. Về sự lợi ích, khi đọc
xong sẽ tự rõ, cư sĩ nên khuyên tất cả bạn tri giao mua xem. Mùa thu rồi, lệnh
đệ lên viếng Phổ Đà, tôi có đem những điều thành kỉnh để khuyên nhau, nhưng
không biết y có cho lời tôi là thiết thực chăng?
- 2 -
Được thơ, xem qua dễ khiến cho người
vui đẹp! Thuở xưa Cừ Bá Ngọc đến năm mươi tuổi, nhìn lại năm bốn mươi chín,
thấy mình còn sai lầm. Đức Khổng Tử lúc gần bảy mươi, ước được sống thêm lâu để
học tinh tường bộ Kinh Dịch, cho khỏi điều lỗi lớn. Sự học của thánh hiền thật
đã đi cùng đến chỗ khởi tâm động niệm! Học giả đời nay ưa theo từ chương, ít ai
nghĩ đến điểm chánh tâm, thành ý. Bởi thế, tuy trọn ngày đọc sách mà không rõ ý
chỉ của thánh hiền, ngôn ngữ hành vi so với chỗ học trái rất xa, như sáng, tối,
vuông, tròn không thể cùng dung hợp. „y là chưa nói đến lỗi lầm của tâm niệm,
nếu kể ra được thì biết bao nhiêu!
Kinh Phật dạy người thường tu phép sám hối, để kỳ cho dứt hết vô minh, thành
đạo Bồ Đề. Cho nên, đức Di Lặc tuy đến ngôi đẳng giác, còn phải ngày đêm sáu
thời lễ mười phương Phật, để cầu vô minh hết sạch, tròn chứng pháp thân, huống
nữa là hạng phàm phu nghiệp lực sâu nặng ư? Nếu không biết hổ thẹn, sám hối,
tuy bản tánh đồng với chư Phật, nhưng bị hoặc nghiệp che lấp, không thể hiển
hiện, ví như tấm gương báu lâu đời, chẳng những không ánh sáng mà thể gương
cũng bị khuất mất. Nếu biết gương sẵn tánh sáng, gia công lau chùi mãi, ánh
sáng lần phát cho đến khi rực rỡ cùng cực, thành ra một vật rất quí trong đời.
Nên biết ánh sáng ấy sẵn có, không phải lau chùi mà được, nếu được thì lau đá
gạch cũng ưng chói sáng. Lại phải biết gương tuy sẵn đủ ánh sáng, nhưng nếu
không lau chùi thì cũng không thể chói sáng được. Tâm tánh chúng sanh cũng thế,
tuy đồng với Phật, nhưng nếu chẳng đổi dữ làm lành, bỏ trần hiệp giác, thì tánh
đức sẵn đủ không thể lộ bày. Đem tâm thức sẵn đủ tánh Phật tạo nên nghiệp khổ
nhiều kiếp đắm chìm, cũng như nhà tối có chứa của báu, đã không dùng được lại
bị tổn thương, há chẳng đau tiếc lắm ư? Pháp môn Niệm Phật chính là phép mầu bỏ
trần hiệp giác trở lại cội nguồn vậy. Người tại gia vì bị việc đời ràng buộc,
khó nỗi ở trong tịnh thất tham thiền tụng kinh, với pháp môn này rất là tiện
lợi. Mỗi người đều có thể tùy sức tùy phần lễ tụng trì niệm để hồi hướng vãng
sanh. Ngoài giờ khóa tụng chánh thức, khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động,
tịnh, ăn cơm, mặc áo, tất cả thời, tất cả chỗ, đều nên niệm Phật. Nhưng, ở nơi
sạch sẽ, khi nghiêm kính, niệm thầm hay ra tiếng đều được. Nếu ở chỗ không sạch
sẽ (như nơi đại tiểu tiện), hoặc khi không nghiêm kính (như lúc ngủ nghỉ, tắm
gội), chỉ nên niệm thầm. Khi nằm nghỉ, nếu niệm ra tiếng, đã không cung kính
lại lao hơi, lâu ngày thành bịnh. Niệm thầm công đức đồng như niệm ra tiếng,
nhưng cần phải rõ ràng, tha thiết và đừng xao lãng.
Cư sĩ biết phát lộ sám hối điều ấy rất hợp với pháp môn Tịnh Độ, vì lẽ tâm tịnh
thì cõi Phật mới thanh tịnh. Nhưng đã sám hối, tất cả phải sửa lỗi làm lành,
nếu không thì thành ra nói suông chẳng được thật ích. Đến như muốn không tham
luyến cảnh ngoài, chuyên niệm Phật, được nhất tâm, cũng chẳng có pháp chi kỳ
lạ, chỉ đem một chữ chết dán nơi đầu, treo nơi lông mày, thường nghĩ rằng: 'Ta
từ vô thỉ đến nay, gây nghiệp ác không lường, không ngằn, giả sử nghiệp ấy có
hình tướng, mười phương hư không, chẳng thể dung chứa. Duyên đâu may mắn, nay
được thân người lại nghe Phật Pháp, nếu không một lòng niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, khi hơi thở dứt rồi, do nghiệp ác cũ chắc khó khỏi sa đọa vào địa ngục.
Chừng ấy phải chịu những sự khổ cùng cực, như vạc dầu lò lửa, rừng kiếm non
đao, không biết trải bao nhiêu kiếp mới xong. Khi ra khỏi địa ngục, bởi nghiệp
chưa dứt, lại đọa vào loài ngạ quỉ, bụng rất to lớn, cổ họng nhỏ như cây kim,
trong miệng thường tuôn ra lửa, nhiều kiếp đói khát, không nghe được tên nước
uống, cùng không có lúc tạm no lòng. Hết kiếp ngạ quỉ, lại đọa vào nẻo súc
sanh, hoặc để cho người dùng cỡi chở, hoặc bị bán vào lò thịt. Khi được làm
người thì ngu si không trí, dễ bề tạo nghiệp, khó nỗi làm lành, chẳng mấy lúc
lại bị đọa nữa. Nghiệp cũ trả chưa xong đã tạo nghiệp mới, cứ mãi luân hồi
trong sáu đường trải qua kiếp số nhiều như bụi nhỏ, mênh mang biển khổ không
biết đâu là bến bờ.' Nếu thường xét nghĩ như thế, sự tu hành sẽ được chuyên
nhất. Thuở xưa Thương Thiện Hòa, Trương Chung Quì lúc sắp chết, tướng địa ngục
hiện, niệm Phật vài tiếng, liền thấy Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Sự lợi ích
như thế, trọn một đời giáo hóa của Phật, trong trăm ngàn muôn ức pháp môn, chỉ
thấy ở môn Niệm Phật. Tôi thường cho rằng: 'Chín cõi chúng sanh rời pháp nầy,
trên khó nỗi viên thành quả giác. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này, dưới
không thể độ khắp quần mê.' Nếu cư sĩ lòng tin thấu đáo, tha thiết vì sự sanh
tử không móng một niệm nghi hoặc, thì tuy chưa ra khỏi đời ác trược, đã chẳng
phải là người ở lâu trong cõi Ta Bà, tuy chưa đến Liên bang, nhưng sẽ là khách
mới của miền Cực Lạc. Từ đây, khi thấy người hiền phải gắng làm cho bằng, gặp
việc nhơn đừng nên thua nhượng, đâu nỡ dần dà trễ nải để lầm một lúc, lỡ muôn
đời hay sao? Người có huyết tánh, chắc không chịu sống làm thây đi thịt chạy,
chết đồng mục nát với cỏ cây. Vậy cư sĩ phải nên cố gắng.
Lại, niệm Phật tuy quí ở chuyên nhất, nhưng cư sĩ trên còn cha mẹ, dưới có vợ
con, đành rằng không nên quá vọng cầu sự giàu sang, song bổn phận trong gia
đình cũng lo sao cho tròn, không phải tu hành là bỏ tất cả. Nếu bỏ tất cả mà
cha mẹ vợ con không thiếu thốn thì được, bằng chẳng thế, đã trái với đời lại
trái với đạo, điều ấy cũng nên biết qua. Phận làm con, phải đem sự tu hành
khuyên cha mẹ, nếu song thân biết niệm Phật, được sanh về Tây Phương thoát nẻo
luân hồi, thì đạo hiếu ở đời không sao sánh kịp. Như có kẻ nào đem pháp môn
Tịnh Độ khuyên nhiều người tu niệm thì công đức giáo hóa sẽ về phần mình, sen
vàng buổi tương lai chắc ở nơi thượng phẩm.
Cư Sĩ Đặng Tân An
Lời thỉnh ích của cư sĩ, tôi thật
khó đối đáp! Tại sao thế? Vì chí hướng của cư sĩ lớn, kiến thức của tôi nhỏ,
lớn nhỏ không đồng, cơ giáo tất khó hợp nhau. Tuy nhiên, trong thật tướng Nhất
Thừa, tìm tướng lớn nhỏ không thể được. Nơi ấy, nói lớn thì lớn, nói nhỏ thì
nhỏ, lớn nhỏ vẫn đầy đủ tánh pháp giới. Cái nhỏ của tôi biết, lại bao trùm tất
cả pháp trong mười cõi pháp.
Ngài Thiện Đạo Hòa Thượng nói: 'Nếu muốn học về Giải, tất cả pháp từ phàm phu
đến Phật địa đều nên học. Như muốn học về Hạnh, nên lựa một pháp hợp lý hợp cơ,
gắng sức tinh chuyên mới mau được thật ích. Chẳng thế thì dù trải qua nhiều
kiếp cũng khó thoát ly.' Pháp hợp lý hợp cơ ấy không chi hơn dùng lòng tín
nguyện, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương. Muốn tìm học, nên y theo Kinh
Di Đà Yếu Giải và các sách Tịnh Độ.
Phật giáo là một pháp công cộng trong mười phương pháp giới, ai cũng nên tu và
đều có thể tu. Bởi chưa thấy rõ bản sắc của Phật giáo, một nhóm Nho sĩ lập luận
mù quáng rằng: Đạo Phật bỏ nhơn luân, hại chánh lý! Tại sao mà biết họ sai lầm?
Vì đức Phật đối với kẻ làm cha nói lành, với con nói thảo, với vua nói nhân,
với tôi nói trung, cho đến chồng vợ kính yêu, anh em hòa thuận; tất cả lời hay
hạnh tốt ở đời, trong Kinh Phật đều nói rành rẽ. Thế thì cùng với Nho giáo có
khác chỗ nào? Hơn nữa, về điểm chỉ rõ lý nhân quả ba đời, trong đạo Nho không
thấy nói. Đến như những việc: dứt hoặc chứng chơn, đầy đủ Bồ Đề, về nơi vô đắc,
thì Nho giáo phải kém thua xa. Tiếc cho hàng Nho sĩ kia chưa thấy, nếu họ được
xem kỹ và hiểu sâu lý ấy, chắc sẽ đau thương rơi lệ, tiếng khóc động cõi đại
thiên, hối hận vì mình đã khinh báng Phật giáo! Nhưng dùng lời báng pháp tội
nhỏ, dùng thân báng pháp tội lớn vô cùng! Đời nay có những người ưa nói Đại
Thừa cho rằng mình đã ngộ đạo, bảo: 'Ta chính là Phật, cần gì phải niệm Phật?
Phiền não tức Bồ Đề, cần gì dứt phiền não? Dâm, giận, mê là giới, định, huệ,
cần gì trừ bỏ dâm, giận, mê?' Lời nói của họ thật cao trên chín từng mây, việc
làm xét lại ở dưới chín lớp đất! Những người như thế, gọi là oan gia của nhà
Phật, so với kẻ không biết Phật Pháp mà khinh báng, tội còn nặng hơn muôn phần.
Với hạng sau này, luận về công họ nghiên cứu Phật Pháp chẳng phải toàn là vô
ích, nhưng chỉ làm cái nhân được độ về sau. Còn tội dùng thân báng pháp quyết
phải chịu khổ trong đường ác đạo không biết bao nhiêu kiếp số.
Cư sĩ nên nghiên cứu kinh luận Đại Thừa cho chỗ hiểu biết được đầy đủ. Về phần
tu, phải lấy tín nguyện, trì danh làm chánh hạnh. Đến như lúc cư xử bình
thường, hoặc sợ làm tội không hay, giảm phước không biết, nên đọc bộ An Sĩ Toàn
Thơ và Pháp Uyển Châu Lâm tất sẽ nắm được khuôn phép để giữ gìn, tâm niệm không
dám buông lung nữa. Thảng hoặc còn sợ mình kiểm soát không kịp, nên y theo phép
công quá cách của đức Phù Hựu Đế Quân mà thực hành, thì có thể vượt phàm lên
thánh, dứt hoặc chứng chơn. Như thế, ở nước Trung Hoa này, cư sĩ sẽ là người ít
ai hơn được.
Thơ đáp Cư Sĩ Dương Đức Quan
Về việc ông Hoàng Hậu Giác, hiện
tượng ấy rất có lợi ích cho người học Phật. Sự kết quả được vãng sanh hay bị
đọa lạc của ông, hãy tạm gác qua một bên; nếu quả người niệm Phật biết đến hiện
tượng của ông lúc lâm chung, quyết không dám hững hờ với con đường giải thoát.
Xem qua thành tích, dường như ông là người có tâm chí thành. Nhưng nhìn vào
cảnh tượng hiện ra lúc lâm chung, ta xét thấy lúc bình thời ông chưa thật tâm
dụng công trong sự tu niệm. Hiện tượng ấy phần nhiều là do những nghiệp bỏn sẻn
tiền của hoặc lời nói lầm hại mạng người xui khiến ra. (Bỏn sẻn lời nói lầm hại
mạng người là như mình biết chỗ kia có giặc và biết nơi khác có thể trốn lánh
được, mà vì không lòng từ bi, ưa thấy người mang họa, nên không chịu nói ra.
Tâm hạnh ấy làm xúc động sự hờn giận của quỉ thần, nên khiến cho khi lâm chung
hiện ra cảnh tượng: nói không được và ghét nghe tiếng niệm Phật). Lại nữa, sự
hiện ra tướng trạng một đôi giờ trăn trở không chịu chết, để đợi đến khi những
người trợ niệm đi rồi, chưa bao lâu liền chết, hoàn toàn hợp với cảnh nghiệp
của kẻ bỏn sẻn tiền của cùng lời nói lầm hại mạng người. Trạng thái ấy chứng tỏ
dù không đọa vào loài ngạ quỉ, cũng là khí phần của ngạ quỉ. Một vị nào đó căn
cứ nơi sức trợ niệm bằng chú lực của cư sĩ Diệc Tử Tuấn bảo rằng ông Giác được
vãng sanh, song theo ý tôi: chú lực tuy không thể nghĩ bàn, nhưng nếu nghiệp
lực nặng cũng không dễ gì được lợi ích. Nếu như ông Giác được vãng sanh, tất
phải có tướng trạng gì khác để chứng thật, vậy cũng không nên ức đoán sai lầm.
Có vị lại quả quyết rằng, ông ấy đã đọa vào đường ngạ quỉ. Theo như hiện tượng
của ông Giác, thì lời nói sau nầy tợ hồ có chỗ y cứ. Nhưng hoặc nhờ con cháu
thành khẩn và các cư sĩ trợ niệm, hoặc do chính ông ấy sám hối trong tâm, có
thể tội của ông được giảm khinh, không đến nỗi đọa ngay vào đường ngạ quỉ.
Hiện thời, việc đáng làm là con cái cùng quyến thuộc của người quá vãng phải
nghĩ đến sự khổ của vong nhân, phát lòng lợi mình lợi người thay vì kẻ chết
niệm Phật, cầu Phật thương xót tiếp dẫn vãng sanh. Nếu lòng thành khẩn được đến
cùng thì sự vãng sanh có thể dự đoán, bởi lẽ cha con thiên tánh quan hệ lẫn
nhau, và tâm Phật có cảm tất liền ứng. Như người trong quyến thuộc lơ lơ láo
láo làm cho xong việc thì vong nhân nghiệp chướng không tiêu và khó mong được
tiếp dẫn. Điều nầy quan hệ phi thường vì sai một ly lạc đi ngàn dặm.
Việc trên đây nhắc nhở cho ta biết người niệm Phật đối với mình phải thiết thật
sửa trừ tâm tánh xấu xa, với người phải dùng phương tiện giúp đỡ. Những điều
đáng nói, tuy kẻ cùng ta có oán thù cũng phải vì họ nói, khiến cho kẻ ấy sanh
phước khỏi họa, lìa khổ được vui. Lúc bình thời phải khăng khăng thiết thiết vì
người nói việc luân hồi nhân quả, niệm Phật vãng sanh. Lại nên dạy dỗ con cái,
vì nó lập nền tảng vững chắc an lành. Phải giữ làm sao cho lời nói không mơ hồ,
tâm như dây cung thẳng, việc làm không trái lẽ trời, tấm lòng có thể phô trương
cùng thần quỉ. Được như thế thì khi lâm chung quyết không có hiện tượng đáng
thương xót kia. Và như thế thì ông Hoàng Hậu Giác lại chính là bậc thầy khuyên
dẫn của các người niệm Phật; các vị nhờ ông mới được sự lợi ích lớn về sau, mà
ông cũng nhờ tâm lực của các vị, được hết tội, sanh về Cực Lạc. „n Quang tôi
nói đây chẳng phải là lời bông lông, chính là một định luật không hề sai suyển.
Như có ai chẳng cho là phải, thì xin chất chánh với bậc cao minh Pháp Sư, hoặc
thỉnh vấn nơi bậc thần thông đại thánh....
Thơ đáp Cư Sĩ Hoàng Hàm Chi
Tiếp được thơ, không xiết vui mừng!
Tôn phu nhân kiếp trước có nhiều căn lành, nên mới có cảm đến các hạ giúp cho
được vãng sanh, và bảo con cháu trong nhà vì người niệm Phật lâu ngày để truy
tiến. Như thế chẳng những người chết được lợi ích, mà bao nhiêu kẻ trợ duyên
cũng trồng sâu căn lành. „y mới gọi là thật lòng thương xót, khác hơn tập quán
mê lầm của người đời, khi thân nhân bất hạnh liền sát sanh để cúng tế, khiến
cho vong linh kẻ chết bị câu trệ nơi u đồ. Việc của Tôn phu nhân như thế là vẹn
toàn, nhưng còn Thái phu nhân tuổi đã tám mươi ba, các hạ nên khuyên người sanh
lòng tín nguyện niệm Phật. Song với người tuổi đã cao, sự tu hành lại đang ở
vào bước đầu, năng lực của thân và tâm đều kém yếu, sợ e không thể niệm được
trọn ngày. Trước kia, tôi muốn đặt ra pháp thức để trợ niệm trong lúc hiện tiền
cho những người như thế, nhưng nghĩ mãi chưa được. Một hôm, nhân thấy quan Trấn
Thủ Vương Duyệt Sơn đem mẹ và quyến thuộc đông đảo lên núi để chiêm bái, tôi
bỗng tìm được một cách trợ niệm rất hay. Phương pháp ấy tôi đã lược thuật cho
Vương Trấn Thủ, nay cũng xin vì các hạ tỏ bày:
Quyến thuộc của các hạ, về phần nam đều có chức nghiệp riêng, về phần nữ như
dâu, con gái cho đến kẻ nhũ mẫu thì không việc chi cần yếu lắm. Các hạ nên bảo
mấy người ấy thay nhau ở bên Thái phu nhân, cao tiếng niệm Phật mỗi phiên độ
nửa giờ. Mỗi ngày cứ luân phiên như thế đừng cho tiếng niệm hở dứt. Thái phu
nhân có thể niệm theo vẫn tốt, bằng không chỉ khuyên người nhiếp tâm nghe kỹ,
thì cũng được thường không rời Phật. Những người trợ niệm chẳng mấy gì phí sức,
bởi mỗi ngày bất quá chỉ một đôi phiên là nhiều, lại gieo được nhân lành giải
thoát nữa. Các hạ nên mượn phương pháp ấy để làm tròn hiếu đạo, dù Thái phu
nhân thọ hơn trăm tuổi, cũng cứ giữ tiếp tục y như thế, thì lợi ích không thể
nghĩ bàn. Và, khi gặp những người có tín tâm muốn thành tựu sự vãng sanh cho
cha mẹ, đều nên đem cách thức này chỉ bảo. Các hạ mắc rộn ràng vì việc quốc
chánh, không thể định thời niệm giúp, nhưng nếu có lúc nào rỗi rảnh, cũng nên
niệm một phiên để nêu gương, khiến cho con cháu tinh tấn vui mừng.
Theo ý tôi, làm như thế có nhiều tiện lợi. Nên đem phương pháp này viết thành
một bài phụ vào đoạn cuối của quyển Văn Sao, để cho những người có lòng báo
hiếu không đến đỗi luống than câu: 'Muốn trả ơn sâu, trời cao không cùng!'
Thơ đáp Cư Sĩ Hoàng Tụng Bình
Bệnh do thân sanh, thân do nghiệp
sanh, muốn cho bệnh mau lành, các hạ nên tha thiết sám hối để tiêu trừ túc
nghiệp. Với việc phòng thất, cũng phải tự răn cấm thì bệnh mới khỏi tăng thêm.
Bất luận bệnh gì, nếu không răn chừa sự vợ chồng chung chạ, tất nhiên khó được
lành.
Hàng ngoại đạo rất nhiều có đến trăm ngàn phái, nhưng cách dụng công của họ đều
không ngoài việc vận khí luyện đơn. Bên ngoại đạo dù có bảo người xem kinh niệm
Phật, cũng là việc bề ngoài, chính họ cũng không cho đó là đạo. Khi truyền
giáo, các ngoại đạo thường lựa vào lúc ban đêm, đóng kín các cửa lớn cửa sổ,
bên ngoài phái người qua lại canh tuần, chỉ để một người thọ giáo vào thất.
Trước khi được điểm đạo, người thọ giáo phải phát lời thề rất độc địa thảm ác.
Nếu kẻ nào trái với lời dạy bảo của họ, sẽ phải chịu kết quả của lời thề ấy.
Khi phát thệ rồi, họ lại chỉ khiếu điểm huyệt hoặc ở đầu, ở mặt, ở thân. Những
huyệt nơi thân cần phải cởi áo mới chỉ điểm được. Việc làm như thế thật là một
bức sáo để mê hoặc người. Họ lại thêm rằng một phen truyền qua, không tu cũng
có thể đắc quả. Giả sử bỏ hẳn những việc chỉ điểm bí mật cùng phát lời thề, mà
đem công bố rõ ràng ra cho mọi người tự do lựa chọn, tất hạng ấy không còn căn
cứ đứng vững. Trong Phật Pháp không có việc bí mật truyền lén nhau, cũng không
dạy người phát lời thề độc ác, kẻ nào tin thì theo, không tin thì thôi.
Các hạ đã niệm Phật mà còn sợ lạc vào ngoại đạo, ấy cũng bởi chính mình không
phân minh sự tà chánh giữa đôi bên, chỉ bắt chước theo người phát sanh tín tâm,
thật ra chưa có lòng tin chân thật. Nếu có lòng tin chân thật thì chỉ gắng sức
tu trì, cần gì phải lo ngoại đạo đông nhiều và sợ mình đi lạc lối? Các hạ đã tự
nhận có nhiều túc nghiệp nên mang bệnh dữ, thế thì cần phải ăn chay niệm Phật
và vì những oan gia đời trước mà làm việc siêu độ. Nói siêu độ đây, cũng không
cần phải thỉnh tăng chúng làm Phật sự, chỉ tự mình thành thật khẩn thiết niệm
Phật và niệm Quán Âm mà thôi. Các hạ chớ nên nghĩ rằng; chỉ niệm một đức Phật,
một vị Bồ Tát sợ e không lành bệnh. Nên biết niệm Phật là pháp rất tròn mau
thẳng tắt trong Phật Pháp, sự lợi ích vượt hơn tất cả pháp môn. Nếu có sai biệt
là do tâm mình chí thành cùng không chí thành, chẳng phải pháp có linh nghiệm
hoặc không linh nghiệm.
Thơ gởi Cư Sĩ Tạ Dung Thoát
Nơi quê hương của các hạ được biết
pháp môn Niệm Phật, là do Lâm Giới Sanh thỉnh kinh sách Tịnh Độ đem về truyền
bá. Nếu trong đời trước các vị cư sĩ không trồng căn lành đối với pháp môn ấy,
thì đâu có thể lấy gương xưa làm thầy, sau khi nghe rồi liền sanh lòng tín
nguyện, tự tu và khuyên người ư? Và, đâu có thể trong vòng không đầy mười lăm
năm, đạo pháp lan rộng như thế ư?
Xét về thiên tư và cảnh duyên của các hạ đối với thời cơ pháp vận hiện nay, thì
chỉ nên giữ năm giới để hộ trì Tam Bảo, truyền Tịnh Độ mà khuyên chúng vãng
sanh, là hợp lý hợp thời và cần yếu hơn hết. Tại sao tôi lại nói như thế? Vì,
các hạ tuổi đã hơn bốn mươi, căn tánh chưa phải là bậc thượng, nếu muốn nghiên
cứu Tạng Kinh, tham hỏi hàng tri thức, e cho pháp môn quá rộng, ngày tháng
chẳng nhiều, rồi khi trở tay không kịp, có sự ăn năn. Lại hiện nay tuy có bậc
tri thức, song tăng chúng phần nhiều đều ô lạm, bạn đồng hạnh ít người (đồng
hạnh: bạn giúp đỡ về phần tu tập, có thể khiển trách lẫn nhau, khiến cho đạo
hạnh tiến thêm), nếu khi chí hướng thượng suy kém, tất sự biếng trễ cũng nương
theo, khó bề gắng gượng. Như tôi năm hai mươi mốt tuổi, từ cha mẹ xuất gia,
cũng có thể gọi là lập chí mạnh và phát tâm chơn. Nhưng đến nay tuổi đã năm
mươi ba, mà bên tông bên giáo đều không sở đắc chi cả. Nghĩ tủi thẹn luống phụ
ơn mẹ cha, uổng làm con đức Phật! Song cũng may, đối với môn Tịnh Độ, khi mới
xuất gia học Kinh A Di Đà, tôi đã sanh lòng tin, thật chưa nhờ bậc tri thức nào
chỉ dạy. Vì lúc đó thầy thọ nghiệp và các vị tri thức chỉ chuyên về sự tham
cứu, những lời khai thị đều phá môn Tịnh Độ. Tôi lượng biết sức mình, nên không
lay chuyển theo ai, dù Phật, Tổ hiện thân cũng chẳng đổi ý, huống nữa là lời
nói của bậc tri thức bên tông Thiền? Lại hiện nay, chánh yếu tà mạnh, việc hộ
trì Phật Pháp, với tục thì dễ, với tăng lại khó. Nếu các hạ giữ chắc năm giới,
chuyên niệm Phật, về phần tu thân lời và hạnh hiệp nhau, thì có thể truyền bá
chánh pháp, làm lợi ích cho mọi người. Song chớ nên ở địa vị thầy mà tự cao, và
thọ tiền của để lợi dưỡng. Phải đem lẽ chánh khuyên bảo những kẻ thân sơ, tất
mọi người đều mến đức vâng theo lời. Đó gọi là: 'sửa mình được chánh, tuy không
bảo người cũng theo, như cỏ ở trước ngọn gió tất phải thuận chiều vậy.' Lệnh
lang không tin đạo Phật, cũng chẳng nên ép, đợi khi nào cảnh ngộ đẩy đưa khiến
cho tánh thiên chơn phát lộ, chừng ấy chỉ dùng một lời nhắc bảo, tự nhiên tấm
lòng của y sẽ phơi phới hướng về chánh pháp, khó nỗi cản ngăn.
Liên xã mới mở phải có quy tắc nhất định và thận trọng về việc cho người nữ dự
vào. Chẳng nên bắt chước theo các nơi khác, thờ ơ không kiểm ước, để đến đỗi
một pháp vừa lập trăm mối tệ sanh theo, điều ấy rất cần yếu. Không cơ duyên
được lễ bái xá lợi và gần gũi tòng lâm, việc ấy có hại gì? Nếu khi thấy tượng
Phật, tưởng như Phật sống, thấy Kinh Phật, lời Tổ, tưởng như Phật, Tổ đối trước
mình chỉ dạy, tấm lòng kỉnh sợ không dám biếng trễ, tức là trọn ngày được thấy
Phật và gần gũi các bậc Bồ Tát, Tổ Sư, thiện tri thức. Như thế, xá lợi và tòng
lâm có thấm vào đâu? Về tập quán thô lỗ, đừng nói hàng cư sĩ, nếu người xuất
gia mà không chơn tu, lại còn quá hơn thế tục. Muốn trừ bỏ tánh ấy, trước phải
nhận rõ các pháp giữa đời đều là khổ, không, vô thường, vô ngã, hoặc nhơ nhớp,
thì ba ngọn lửa tham, giận, mê, sẽ dịu tắt lần. Nếu chưa dứt được, phải dùng
lòng ngay thật, xót thương, nhẫn nhục, tha thứ mà đối trị. Thảng hoặc còn chưa
dứt, cứ tưởng rằng mình đã chết, thì bao nhiêu sự nóng bức đều hóa thành mát mẻ
tươi nhuần. Kinh Báo Ân dạy phải lần lượt thọ giới, người xuất gia khi thọ giới
cũng y theo thứ đệ: giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát. Nhưng người xưa thọ giới là
phát tâm vì dứt sự sanh tử, trái lại, người đời nay phần nhiều đều muốn cho ra
vẻ một vị đại tăng, đắc giới hay không, chẳng cần nghĩ đến. Vì thế, mấy ông sư
thiếu học thiếu tu bên ngoài, đều là những người đã thọ qua ba đàn đại giới cả.
Sự tệ đó do bởi vua Thế Tổ nhà Thanh bỏ độ điệp, bãi lệ thí tăng mà ra. Cho đến
những kẻ xưng là thầy người, song chỉ cầu danh lợi, tham quyến thuộc, cũng xuất
phát từ nguyên nhân ấy. Tôi e chư tăng ở quí địa không rõ điều nầy, bảo rằng độ
người xuất gia là việc rất tốt, để cho hạng vô lại lẫn vào cửa Phật phá hủy
chánh pháp, nên chẳng sợ tị hiềm mà nói thẳng ra.
Môn Tịnh Độ là pháp rất mầu nhiệm, viên đốn nhất trong một đời thời giáo của
đức Như Lai. (Viên đốn: một pháp đủ tất cả pháp là viên, hiện đời tu, hiện đời
giải thoát là đốn). Hạng phàm phu thấp kém đều được dự vào, bậc Đẳng Giác Bồ
Tát cũng không thể vượt ra ngoài pháp ấy. Thật là con đường rất tắt để mau đi
đến quả Phật cho thượng thánh hạ phàm. chư Phật, chư Tổ đều dùng môn nầy làm
chiếc thuyền từ để độ khắp tất cả chúng sanh. Đối với một pháp như thế mà chẳng
sanh lòng tin, hoặc tin mà không chơn thiết, đó là người nghiệp chướng sâu
nặng, không ưng được giải thoát, sẽ phải chịu khổ luân hồi không biết lúc nào
ra khỏi. Khi đã ở trong vòng sanh tử, dù có được làm thân trời, người cũng ngắn
ngủi như lữ khách nghỉ nơi quán trọ. Trái lại, phần đọa vào ác đạo, thời gian
rất lâu dài, như người ở yên nơi quê nhà. Mỗi khi tôi nghĩ đến điều này, bất
giác cả sợ, nên chẳng nài mỏi nhọc, khẩn thiết tỏ với đồng nhân. Nay xin dẫn
một bằng chứng rõ ràng, để các hạ phát thêm lòng tín nguyện và đem ra khuyên
bảo mọi người.
Những kinh chuyên nói về tông Tịnh Độ, có ba quyển: Phật Thuyết A Di Đà, Quán
Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Thọ Kinh. Ngoài ra, các kinh điển Đại Thừa phần nhiều
đều phát minh pháp môn nầy. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đức Phật mới thành đạo,
vì các bậc pháp thân Đại Sĩ trong bốn mươi mốt vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, nói pháp cao cả về giới ngoại, hàng phàm phu và
nhị thừa đều không thể biết được. Sau rốt, trong phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài
đồng tử vâng lời dạy của đức Văn Thù, đi tham phỏng khắp các bậc tri thức.
(Đồng tử: danh từ xưng tặng bậc dứt hoặc chứng chơn, phá vô minh trở về bản
tánh, tâm hạnh trong sạch chân thật ví như kẻ đồng tử. Người đời không biết, vẽ
hình tượng nhi đồng là sai lầm. Như đức Văn Thù, trong Kinh Hoa Nghiêm có chỗ
gọi là Văn Thù Đồng Tử. Các kinh khác đôi khi cũng dùng danh từ nầy để xưng
những bậc Bồ Tát). Ban đầu Đồng Tử ra mắt ngài Đức Vân nghe pháp môn Niệm Phật,
liền chứng bậc Sơ Trụ. Kế đó lần lượt tham học mọi nơi đều được chứng, cho đến
vị tri thức thứ năm mươi ba là đức Phổ Hiền. Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền dùng oai
thần gia bị, khiến cho chỗ chứng của Đồng Tử bằng mình và chư Phật, (đây gọi là
Đẳng Giác Bồ Tát) rồi khuyên ngài Thiện Tài cùng hải chúng Bồ Tát trong cõi Hoa
Tạng phát mười nguyện rộng lớn, đem công đức ấy hồi hướng về Tây Phương Cực
Lạc, để cầu mau phương tròn quả Vô Thượng Bồ Đề. Lại, chương Hạ Phẩm Hạ Sanh
trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Những chúng sanh tạo năm tội nghịch, mười
điều ác, làm đủ những việc chẳng lành, sẽ phải đọa vào địa ngục, trải qua nhiều
kiếp chịu sự khổ vô cùng. Nhưng nếu kẻ ấy khi sắp chết gặp bậc thiện tri thức
khuyên bảo niệm Phật, liền vâng lời niệm đủ mười câu, tức thì tội chướng tiêu
trừ, được vãng sanh.' Như Trương Thiện Hòa, Trương Chung Quì, trong Long Thơ
Tịnh Độ Văn chính là hạng người đó. Thế thì, trên như đức Văn Thù, Phổ Hiền là
những bậc Đại Bồ Tát, dưới như kẻ phạm năm nghịch mười ác sắp đọa tam đồ, đều
thuộc về cơ nhiếp hóa của môn Tịnh Độ. Bao nhiêu đó cũng đủ thấy pháp môn này
quảng đại không bỏ sót một ai, và đức A Di Đà hạnh nguyện rộng sâu, xem chúng
sanh bình đẳng. Tôi thường có đôi liễn:
'Bỏ đường tắt Tây Phương, chín cõi chúng sanh khó thể được tròn nên quả giác.
Rời cửa mầu Tịnh Độ, mười phương chư Phật không vẹn toàn độ khắp hàng mê.'
Các hạ gắng phát lòng mạnh mẽ tinh tiến, đảm đương pháp này. Nên đem những ngôn
luận hợp cơ về sự truyền dương Tịnh Độ của người xưa, giảng lại cho trong thôn
ấp nghe. Làm sao cho ở trần không nhiễm, nơi tục tu chơn, mới hợp với danh
nghĩa hai chữ dung thoát. Vì dung thoát là lẫn với trần mà thoát khỏi trần vậy.
Đó là ý kiến quê hèn của tôi, các hạ nghĩ thế nào? Xin suy gẫm lại.
Thơ đáp Cư Sĩ Hà Huệ Chiêu
Được thơ, biết ngươi túc căn rất
sâu, hiện hạnh lại tinh thuần nên mới có những cảnh tượng lạ ấy. Nhưng người
đời nay phần nhiều hay ưa danh vọng, có được nửa phần một phần, liền nói đến
trăm ngàn muôn phần. Như trong quyển ký lục của vị cư sĩ nọ, những cảnh giới
của y đều do tự ý vẽ vời ra khác hẳn với sự thật. Ngươi đã không nói dối, nhưng
e hoặc khi có tập quán đó thì lầm lỗi rất nhiều! Đức Phật đem tội nói dối liệt
vào trong năm giới căn bản, chính là để phòng ngừa mối tệ ấy. Như về việc
thường, không thấy nghe nói thấy nghe, tội hãy còn nhẹ. Nếu cố ý muốn xây dựng
lâu các giữa hư không, dối nói những cảnh giới nhiệm mầu, chưa chứng đắc bảo
rằng chứng đắc, tức là đại vọng ngữ, tội này nặng hơn giết, trộm, dâm trăm ngàn
muôn ức lần. Người đã phạm, nếu không hết sức sám hối, tất sẽ bị đọa vào ngục A
Tỳ, vì lời nói ấy làm cho chúng sanh nghi lầm, có thể phá hoại Phật Pháp. Vậy
ngươi cần phải thận trọng với những cảnh đã thấy, chớ nên nói thêm bớt một mảy
ly. Nếu thêm bớt tức là có lỗi, vì bậc tri thức chưa chứng được tha tâm đạo
nhãn, chỉ dùng lời nói làm bằng cớ để phán đoán mà thôi. Đem những cảnh giới
như thế tỏ với bậc trí thức để cầu quyết trạch sự chơn, giả, chánh, tà, thì
không lỗi. Nếu không vì việc chứng minh quyết trạch, ý muốn tự khoe cũng có
lỗi. Lại, chỉ nên tỏ cùng bậc tri thức cầu xin chứng minh, ngoài ra chớ nên nói
với ai, nếu lộ bày thì có hại, vì về sau không còn được thấy cảnh giới ấy nữa.
Đây là điều quan hệ thứ nhất của người tu hành, mà trong Thai giáo thường nói
đến. Cho nên người niệm Phật đời nay phần nhiều hay bị ma dựa, đều do dùng tâm
vọng động mong được những cảnh lạ thường. Đừng nói cảnh ấy là ma, dù có thắng
cảnh, nếu sanh lòng vui mừng tham trước cũng bị tổn hại, huống chi vị tất quả
thật là thắng cảnh ư? Nếu người có công hàm dưỡng, dứt hẳn tâm vọng động, khi
thấy các cảnh giới, không vui mừng, tham trước, sợ hãi, nghi ngờ, thì dù gặp ma
cảnh cũng được lợi ích, nói gì là cảnh nhiệm mầu? Sở dĩ được như thế, là bởi
không bị ma chuyển nên có thể tiến triển thêm. Những điều trên đây ta ít hay
đem nói với người, nay nhân vì ngươi có việc ấy nên phải dẫn bày chỉ rõ.
Trước tiên, ngươi lễ Phật, bỗng thấy tượng Quán Âm Đại Sĩ hiện ra là không đích
xác. Nếu quả đúng cảnh Phật thì không đến đỗi nhân khi suy nghĩ: 'Tượng cùng
Quán Kinh không hợp', liền ẩn hình. Nhưng do đó lòng tin của ngươi càng tha
thiết, thì cũng là nhân duyên tốt. Song chẳng nên thường muốn thấy hình tượng,
chỉ thành tâm lễ bái mà thôi. Như thế mới khỏi lo có sự rủi ro khác.
Khi ngươi sắp ngủ, thấy trước mắt có ánh sáng trắng và lúc lễ Phật, thấy hình
Phật đứng lơ lửng giữa hư không, tuy thuộc về cảnh tốt, song chớ nên tham trước
mong cầu, vì nếu thế, về sau cảnh ấy không còn hiện nữa. Xem căn tánh của ngươi
dường như kiếp trước đã từng tu tập thiền định, nên mới thường có những tướng
ấy. Đời nhà Minh, ông Ngu Thuần Hi tịnh tu ở núi Thiên Mục, chỗ tử quan của Cao
Phong Diệu Thiền Sư thuở xưa, lâu ngày tự biết việc quá khứ vị lai, hay nói
trước những cơn mưa nắng và sự họa phước của người. Liên Trì Đại Sư nghe được
việc ấy, gửi thơ cực lực bài xích, cho rằng đó là lưới ma. Thuần Hi tỉnh ngộ, quả
nhiên về sau không còn đoán trước được nữa. Cho nên người học đạo phải để tâm
lo việc lớn, nếu chẳng thế tất sẽ bị việc nhỏ làm tổn hại. Đừng nói chi những
cảnh giới ấy, dù cho được ngũ thông cũng phải gác bỏ bên ngoài, mới có thể
chứng lậu tận thông. Nếu một bề tham trước thì công phu khó tiến, hoặc có khi
thối lui, điều nầy cần phải biết.
Ngươi nằm mơ thấy vào điện Phật, nhớ hai câu kinh, cũng thuộc về cảnh lành.
Song hai câu ấy nghĩa lý rất rõ ràng không chi khó. 'Phản hư y giác lộ. Quy
chơn ngộ thường không' (Bỏ giả theo đường giác. Về chơn ngộ thường không), là ý
nói: Chúng sanh vì nhận lầm sự vật giữa đời đều có thật, nên mới mê man xoay
vần trong nẻo luân hồi. Nếu có thể quán sát biết sự vật đương thể vốn không,
thì liền ra khỏi lối mê, nương theo đường giác, trở về bản tánh, ngộ được lý
thật tướng, chơn không, chơn thường. Hai câu ấy chưa thấy ở đâu, cũng có khi đó
là câu văn đã ghi nhớ đời trước, chưa chắc chính thực văn kinh. Muốn phân biệt
ma cảnh hay thánh cảnh, phải xét lại cảnh ấy xem có hợp với lời dạy trong kinh
chăng? Và như quả là thánh cảnh, thì khiến cho người khi trông thấy tâm liền
thanh tịnh, không vọng động chấp trước; nếu là ma cảnh thì tâm liền vọng động
chấp trước không được thanh tịnh. Lại nữa, quang minh của Phật tuy sáng ngời
song không làm xót con mắt, nếu không đúng thế, tức là ma trá hình. Khi Phật
hiện, dùng lý: 'các tướng hữu vi, đều là giả dối' mà gạn, thì càng hiện rõ. Nếu
ma trá hiện, dùng lý ấy xét gạn thì liền ẩn hình. Đây là phương châm rất vững
chắc để khán nghiệm sự chơn giả vậy. Ban đêm, ngươi thấy ánh sáng trắng và cảnh
trong ngời giữa hư không đó là do tâm thanh tịnh hiện ra, đâu nên cho là tướng
pháp giới tịch chiếu không hai? Nếu nghĩ như thế là đem phàm lạm thánh, tội lỗi
chẳng ít. Người tu tịnh nghiệp như chẳng lấy các cảnh giới làm mong cầu, thì
cũng không có hiện cảnh chi nhiều. Nếu trong lòng chuyên muốn thấy cảnh, tất
cảnh giới hiện ra phức tạp. Lúc ấy, như không khéo dụng tâm, hoặc có khi bị tổn
hại, phải để ý nhớ kỹ điều này.
Pháp môn Tịnh Độ dùng Tín, Nguyện, Hạnh làm tông. Có tín nguyện, không luận
công hạnh nhiều ít, cạn sâu, đều được vãng sanh. Không tín nguyện, dù cho tu
đến cảnh quên cả năng sở, thoát hẳn căn trần, cũng khó hy vọng được về Cực Lạc.
Bởi vì, nếu quả chứng được thật lý của cảnh ấy, có thể dùng tự lực để thoát
sanh tử, thì không cần luận. Như chỉ có công phu dẹp trừ vọng chấp tỏ thấy lý
ấy, chưa được thật chứng, tất nhiên khó vãng sanh khi thiếu Tín Nguyện. Nhà
tham thiền khi bàn luận Tịnh Độ, đều bỏ tín nguyện đem về tông thiền. Như y
theo đó mà tu, cũng có thể khai ngộ, nhưng nói đến sự thoát sanh tử, e cho mộng
tưởng không thành, bởi vì chưa dứt hoặc nghiệp. Nên biết phàm phu được về Tịnh
Độ, đều do lòng tín nguyện cảm Phật, nên nương nhờ từ lực, đới nghiệp vãng
sanh. Nếu không phát tín nguyện, lại dẫn câu niệm Phật đem về tự tâm, thì làm
sao cảm được Phật? Đạo cảm ứng đã không hợp, tất chúng sanh cùng Phật riêng
cách, dùng môn hoành siêu làm pháp thụ xuất, sự lợi ích cạn mà tổn thất lại
sâu. Lợi ích, là tu y theo nhà Thiền nói, cũng có thể tỏ ngộ; tổn thất, là bỏ
tín nguyện nên không được tiếp dẫn vãng sanh. Vì thế người chơn thật tu Tịnh Độ
không dùng được lời khai thị của nhà tu Thiền, bởi pháp môn và tông chỉ đều
riêng khác.
Vậy ngươi nên xét kỹ lại. Như chẳng cho lời ta là phải, thì cứ thỉnh cầu nơi
bậc đại thông gia, hoặc may có thể hợp với tâm chí của ngươi. Về việc ấy, „n
Quang này vẫn không chấp trước chi cả.
Thơ đáp Cư Sĩ Lâm Giới Sanh
Đã mấy năm không gặp nhau, tấc lòng
hằng tưởng nhớ đến cư sĩ. Mùa thu rồi, nhân lệnh huynh Lâm Chi Phân đi dự kỳ
hương thí, có đem thơ đến Phổ Đà, tôi mới được biết sự tu trì của cư sĩ trong
thời gian gần đây. Nghe nói trong nhà bất hạnh, mất đứa con yêu, nên cư sĩ hôm
sớm thương buồn không an, tôi muốn nói rõ sự lý nhân quả, nhưng vì công việc
biên soạn quá gấp, nên chỉ viết thơ kể sơ lược qua. Ngày rằm hôm nay, thầy
Triệt Quyền lên núi thăm, trong câu chuyện lại nói đến tình trạng oán trách của
cư sĩ, và những tà thuyết của một vài người tục dựa vào đó bảo: làm lành mang
họa, tu hành không lợi ích chi... Tôi nghe xong bất giác ngậm ngùi, e rằng bậc
thượng trí nhân việc này trễ nải sự tu, kẻ hạ ngu lại dám làm ác, nên không nại
quê hèn, xin đem lời ngay để cùng nhau bày tỏ.
Trong Kinh Phật thường nói: Quả báo thông ba đời và người sanh con cái lược có
bốn nhân. Quả báo thông ba đời gồm có: hiện báo, sanh báo và hậu báo. Hiện báo
là đời nay làm dữ, lành, đời nay được họa phước; như sĩ tử cần học tập, hiện
thân được công danh. Việc này mắt phàm đều có thể thấy. Sanh báo là đời nay làm
dữ lành, đời sau được họa phước; như ông cha trọng văn chất, con cháu mới phát
đạt, hiển vinh (sanh báo ước nơi bản nhơn và việc cách đời khó chỉ rõ, là tạm
mượn thí dụ để cho dễ hiểu, xin đừng nhân lời mà hại ý). Việc này mắt phàm
không thấy, thiên nhãn còn có thể thấy được. Hậu báo là đời nay làm dữ, lành,
đến đời thứ ba, thứ tư, hoặc ngàn muôn đời, cho đến vô lượng vô biên hằng hà sa
kiếp về sau mới được họa phước; như vương nghiệp của đời Thương, Châu, thật ra
m* đầu từ ông Tắc, ông Khiết. Việc ba, bốn đời thiên nhãn còn thấy được, nếu
việc trăm ngàn kiếp thiên nhãn không thể thấy, nhưng đạo nhãn của hàng Thanh
Văn thấy biết rõ ràng. Đến như việc vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp, chỉ có
đấng Như Lai ngũ nhãn tròn sáng mới nhìn sáng suốt trước sau. Cảnh ấy còn không
phải là nhãn giới của Thanh Văn, huống chi là thiên nhãn, nhục nhãn? Biết được
quả báo ba đời, thì sự làm lành được phước, dữ mang họa, lời thánh vẫn không
sai, và giàu nghèo, sang, hèn, thọ, yểu, cùng, thông đều có số phần, đâu từng
thiên lệch? Như hình đẹp xấu thế nào, bóng hiện trong gương cũng như thế ấy,
người trí biết sửa đổi hình, kẻ ngu luống ghét hờn với bóng! Cảnh nghịch vẫn
thuận chịu, là biết vui số phần; không oán trời trách người, mới có thể lập
mạng.
Con cái có bốn nhân: báo ân, báo oán, trả nợ, đòi nợ. Báo ân là con đối với cha
mẹ đời trước có mang ân, vì báo ân nên đến làm con, trọn đời phục dịch nhọc
nhằn, khiến cho song thân khi sống còn được phụng dưỡng an vui, lúc qua đời
được chôn cất, cúng tế. Cho đến hoặc con làm những việc giúp nước an dân, danh
nêu thanh sử, để cho thiên hạ đời sau nhân kính người mà mến trọng cả cha mẹ
như các ông: Tăng Lỗ Công, Trần Trung Túc, Vương Quy Linh, Sử Đại Thành... Đời
nay những con thảo cháu hiền đều thuộc về hạng ấy.
Báo oán là cha mẹ đối với con đời trước có điều phụ nghĩa, nó mới đến làm con
để báo oán. Khi còn nhỏ con đã sanh lòng ngỗ nghịch, lớn lên lại gây họa làm
lụy cho cha mẹ; khi song thân còn sống, không cung phụng, lúc chết, để nhục lây
đến kẻ cửu tuyền. Thậm chí có khi, con nắm quyền chức trọng yếu rồi làm điều
trái phép, khiến cho nhà cửa nát tan, dòng họ diệt tuyệt, mồ mả bị đào xiềng,
để thiên hạ đời sau nhân thóa mạ người mà ghét luôn cả cha mẹ, như bọn Vương
Mãng, Tào Tháo, Đổng Trác, Tần Cối...
Trả nợ là đời trước con có thiếu tiền của nơi cha mẹ, vì trả nợ nên đến làm
con, nếu số thiếu nhiều thì trả đến mãn đời song thân, thiếu ít hoặc đến nửa
chừng rồi đi. Như con học vừa thành danh thoạt chết mất, buôn bán mới được lợi
bỗng lìa trần.
Đòi nợ là đời trước cha mẹ có thiếu tiền nơi con, nay nó đến làm con để đòi
lại. Như số nợ nhỏ thì cha mẹ chỉ tốn tiền cho con ăn mặc, thuốc men, học hành,
cưới gả, và dạy bảo đủ điều muốn cho mai sau thành lập, nhưng vì kỳ hạn đã mãn,
nó liền qua đời. Nếu số nợ lớn, có khi đứa con xài phá tiêu tan hết sự sản của
cha mẹ mới thôi.
Nay tôi xem lệnh tử dường như đòi nợ mà đến, may vì số nợ có ít, nên vừa lớn
khôn đã vội từ trần. Vậy cư sĩ nên sám hối nghiệp đời trước, gắng sức tu hành.
Do sự bồi phước ấy, chắc có lẽ rồi đây cư sĩ sẽ sanh được đứa con quí làm rực
rỡ tông môn chớ chẳng không! Xem như đức Khổng Tử là thánh nhơn mà người con
một mất thu* trung niên, thầy Nhan Uyên là bậc đại hiền, song lại tuổi xuân
ngắn ngủi, ông Nguyên Hiến nghèo xơ xác, thầy Tử Lộ bị tuẫn nạn. Bá Di, Thúc Tề
chết đói nơi núi Thú Dương, còn ngài Cừ Bá Ngọc cùng khốn * nước Vệ. Cư sĩ cho
rằng thánh hiền do tu đức mà bị trời phạt ư? Hay là sống chết, giàu sang đều có
số mạng? Vậy cư sĩ chỉ nên trách đức mình chưa đủ, chớ hỏi điều họa phước làm
chi. Được như thế kiết thần sẽ đến, tai tinh tự nhiên lánh xa.
Trong đời sống, con người có đủ tám sự khổ, dù sanh lên cõi trời cũng khó khỏi
năm tướng suy, chỉ thế giới Cực Lạc * phương Tây là thuần vui không khổ. Biết
đâu do cư sĩ có công hoằng dương pháp môn Tịnh Độ nên thánh thần đem đứa con
không phước thọ ấy, làm một mũi kim thống tỉnh đâm trên đỉnh đầu, để cư sĩ thấy
rõ ba cõi như nhà lửa không an, các sự khổ dẫy đầy rất đáng sợ, kiếp người vô
thường mau như chớp, khi đại hạn đã đến không ai cầm giữ được ai. Tất cả pháp
hữu vi như mộng huyễn, bóng bọt, bây giờ chưa tỉnh ngộ cần tu tịnh nghiệp thì
có khác nào gỗ đá vô tình? Người có ý chí đâu chịu làm khối thịt biết đi, chạy,
để ngày kia đồng chết mục với cỏ cây? Đâu nỡ tự cam ở cảnh phàm ngu, cứ mãi
nâng cao cảnh thánh? Gặp duyên nhắc nhở khẩn yếu như thế mà không phấn phát,
nghe được chánh pháp mà không chịu làm theo, ấy là Phật phụ chúng sanh hay là
chúng sanh phụ Phật?
Là người trí huệ, mong cư sĩ xét nghĩ...
Thơ đáp Cư Sĩ Lưu Trí Không
Vừa rồi tiếp được thơ, biết ngươi bệnh
lâu mới lành mạnh, lòng rất vui mừng! Việc sống thác trọng đại, cơn vô thường
chóng mau, tai nghe nói đến tuy kinh sợ, song không thống thiết bằng tự thân đã
từng trải những giờ phút gần kề cảnh ấy. Vậy ngươi nên phát lòng đại Bồ Đề, đem
tình cảnh mình khuyên trong thân quyến, bạn bè, và người có duyên thì sự lợi
ích mới được rộng.
Trong thơ nói: vì niệm Phật mau gấp nên mới lao hơi, đó là tại ngươi không khéo
dụng tâm. Niệm Phật phải tùy sức mình, hoặc niệm thầm hay ra tiếng, niệm lớn
hay nhỏ đều được, sao lại cứ một mặt niệm to tiếng, để đến đỗi lao hơi thành
bệnh như thế? Bệnh nặng của ngươi tuy bởi nơi thương khí mà ra, song kỳ thật là
do sức nghiệp từ vô lượng kiếp đến nay phát hiện. Bởi ngươi niệm Phật tinh tấn,
nên mới chuyển hậu báo làm hiện báo, đổi quả nặng thành quả nhẹ, chớ nên vì đó
mà thối chí, nghi ngờ. Một cơn bệnh ấy, đã tiêu không biết bao nhiêu kiếp số
những tội ác đáng lẽ phải đọa vào tam đồ. Thế mới biết sức Phật khó nghĩ, ơn
Phật khó đền, nên sanh lòng vui mừng, hổ thẹn và càng thêm tin tưởng. Từ đây,
phải siêng năng tu hành, đem môn Tịnh Độ khuyên người, khiến cho những kẻ thân
sơ đều được sanh về Cực Lạc. „y mới không phụ ơn đức Phật đã dùng cơn bệnh thức
tỉnh và chuyển trừ tội chướng cho mình.
Non Phổ Đà không cần đến làm chi, vì tiền đi về tốn kém nhiều. - nhà niệm Phật
công phu dễ tiến, lại khỏi phí của tiền sức khỏe. Như thế có phải tiện lợi hơn
không?
Thơ đáp Ly Tẩu
Vừa rồi Hải Thi Đạo Nhơn ở Gia Hưng
có chuyển đến cho tôi phong thơ của các hạ. Xem xong, biết các hạ từ lâu đã gia
công tu Tiên, chỗ sở đắc rất thâm, nay lại muốn hỏi môn Tịnh Độ là pháp cứu
cánh trong đạo Phật. „y có thể gọi là người từ kiếp trước đã trồng sâu căn lành
đối với Phật Pháp, nên không chấp theo sự câu kiến của thần Hà Bá, mà biết nghĩ
tìm trong biển giáo, bến giải thoát hoàn toàn. Nhưng các hạ đã quen biết với
Hải Thi Đạo Nhơn, sao không hỏi người, lại bỏ chỗ cao minh tìm nơi thấp kém, e
rằng có phụ với sở vọng chăng? Hải Thi vốn là bậc kiêm thông tông giáo, gồm tu
Thiền Tịnh, chính là chiếc thuyền đại nguyện trong biển sanh tử đó. Vì người
quá khiêm tốn, nên lấy chữ thi tự đặt tên, thật ra nếu trong biển sanh tử mà
gặp được cái tử thi ấy, quyết sẽ mau lên bờ giác, yên ổn trở lại quê nhà. Như
thế chẳng hơn tìm hỏi „n Quang là kẻ dung tăng, đối với pháp môn kém phần hiểu
biết hay sao? Nhưng các hạ đã tưởng lầm hỏi đến, tôi cũng xin tùy chỗ thiển
kiến đáp lại, hoặc may có thể vì người giải chút nghi ngờ chăng?
Thiết nghĩ trong thể đạo Phật, Tiên, vẫn đồng nguồn, nhưng về chi phái thật ra
cách nhau xa khác. Đạo Phật dạy người trước tiên tu phép quán Tứ Niệm Xứ, quán
thân không sạch, thọ là khổ, tâm vô thường và pháp vô ngã. Khi được biết thân,
thọ, tâm, pháp là không sạch, khổ, vô thường, vô ngã, đều giả dối như mộng
huyễn, thì tánh chơn như sẽ tự hiện bày. Đạo Tiên ước về lúc chánh truyền ban
đầu, cũng không chuyên chủ nơi sự luyện đơn vận khí để cầu trường sanh, nhưng
người sau tu hành lại lầm cho đó là tông chỉ chơn chánh. Đạo Phật bao trùm tất
cả pháp, chẳng những đối với vấn đề thân tâm tánh mạng, phát huy rõ ràng, mà
các việc nhỏ của thế đế như hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, cũng
không bỏ sót. Duy về việc luyện đơn vận khí, trong Phật Pháp tuyệt không nói
đến một chữ, lại còn răn cấm là khác nữa. Vì lẽ bên Tiên thì khiến cho người
giữ gìn thân tâm làm chân thật, bên Phật lại chỉ rõ thân tâm vốn giả dối, theo
duyên sanh diệt, không phải là bản hữu chân tâm. Phép luyện đơn chẳng phải
không bổ ích, song chỉ có thể làm cho người sống lâu, nhẫn đến thành Tiên sanh
lên trời, nếu nói về sự giải thoát luân hồi thì vẫn còn là việc mộng. Các hạ đã
biết Tiên có số kiếp, Phật thọ không cùng, thì trong lúc tuổi cao nầy, phải
chuyên tâm gắng sức nơi pháp môn Tịnh Độ. Việc tham học thiền, giáo, nên giản
lược qua, bởi các pháp ấy rộng lớn sâu xa không dễ gì nghiên cứu, dù tìm đến
chỗ cùng cực, cũng phải trở về môn Niệm Phật mới có thể trong hiện đời giải
quyết được sự sanh tử. Phàm những kinh luận về Tịnh Độ, các hạ phải gấp gấp tìm
xem, y theo đó thực hành, tin chắc lời của Phật, Tổ, không nên vì chỗ mình chưa
hiểu đến vội đem lòng nghi. Nếu có thể đầy đủ cả Tín Nguyện Hạnh, tự nhiên sẽ
được nhờ sức từ của Phật tiếp dẫn về Tây Phương. Một khi đã vãng sanh thì gần
đức Di Đà, bạn cùng hải chúng, lần lần chứng quả vô sanh, lên ngôi Bổ Xứ. Chừng
ấy nhìn lại việc thành Tiên làm kẻ tùy thuộc cho Thiên Đế, sánh với địa vị hiện
tại, thật cách nhau như vực thẳm trời xa!
Quyển Mộng Đông Ngữ Lục và các thuyết của Bành Thiệu Thăng mà các hạ nói, chắc
là sự trộm văn sửa đổi của nhà luyện đơn, không phải chính thật trong nguyên
thơ. Bởi nhà luyện đơn cũng có kẻ cho ngồi vận khí là tham thiền, nên mới nói
'niệm Phật cùng tham thiền đồng, chỉ hơi khác với đạo pháp.' Câu 'chỉ hơi khác
với đạo pháp', chính là bên đạo gia thêm vào. Trừ câu này ra, toàn văn tuy
nghĩa lý không quá sai lầm, nhưng vẫn lủng củng mơ hồ. Trong Mộng Đông Ngữ Lục
tuyệt không có văn nầy, ấy là do nhà luyện đơn trộm lấy văn nghĩa biên chép ra,
sự thật chính họ cũng không hiểu nữa. Nhưng nay chẳng cần biện rõ việc ấy làm
chi, xin tìm xem quyển Mộng Đông Ngữ Lục sẽ tự biết. Đến như chỗ họ dẫn những
lời của Bành Nhị Lâm cư sĩ cũng đồng với việc trên đây, song sự sai lầm lại
càng nhiều hơn. Đoạn nói: 'Bốn chữ A Di Đà Phật dễ niệm, chỉ cần mỗi niệm nối
nhau một lòng không loạn, mới có thể nhất khí tuần hoàn. Chừng ấy tinh khí thần
gom lại một chỗ, lâu ngày thành xá lợi tử, lâu nữa kết làm bồ đề châu mà thành
Phật.' Trên đây là đem phép niệm Phật làm phép luyện đơn. Nhị Lâm cư sĩ quyết
không nói những lời ấy. Đó là do hạng chánh nhãn chưa mở, nên lấy chánh làm tà.
Mấy quyển Huệ Mạng Kinh, Tiên Phật Hiệp Tông của họ viết ra, sự sai lầm lại
càng quá lắm. Hạng người tà ngụy ấy dẫn lời của người, cải đầu sửa đuôi để
chứng minh cho lý thuyết mình. Tội trạng khinh miệt chánh lý, vu khống bậc tiền
hiền, mê hoặc người đời của họ thật không bút mực nào tả ra cho xiết! Những kẻ
đó chỉ cầu hư danh trong một thời, đâu dè về sau phải chịu nhiều sự khốn khổ,
nên đức Như Lai gọi là hạng người đáng xót thương!
Đến như chỗ luận về phép 'hồi quang phản chiếu', tuy không đến đỗi trở ngại,
song câu 'hai mắt chăm nhìn đầu ngón tay' chắc có lẽ dẫn lầm câu 'hai mắt chăm
nhìn nơi chót mũi.' Hoặc khi đó là cách thức của Nhị Lâm cư sĩ lập ra, nhưng
chắp tay lâu không khỏi mỏi nhọc, đâu bằng quán ánh sáng trắng nơi chót mũi
được tự tại an vui hơn? Bởi người mới tập định, niệm khó quy nhất, nếu thường
quán nơi chót mũi thì tâm không còn chạy theo cảnh bên ngoài. Đây là phép quán
thiển cận của kẻ sơ cơ vậy. Quyển Mộng Đông Ngữ Lục do cư sĩ Tiền Y Am trích
những đoạn chuyên chỉ Tịnh Độ trong bộ Mộng Đông Di Tập in ra, cho lưu thông ở
phương nam, để giúp sự đòi hỏi của những người từ lâu mong mến bộ ấy mà không
được gặp. Toàn tập ở Bắc Kinh mới đủ, phương nam duy có quyển lược bản của Tiền
Y Am sao ra mà thôi. Quyển Ngữ Lục ấy lời lẽ tinh diệu, là một tác phẩm đứng
vào bậc nhất từ ngài Ngẫu Ích và Tĩnh Am về sau. Với quyển này, nếu các hạ có
thể đi đến cùng, tin chắc không nghi, quyết sẽ cảm được sen vàng nở trong ao
báu, khi lâm chung thác chất nơi đó mà làm khách mới ở cõi Tây Phương. Quyển Di
Đà Yếu Giải là cây kim chỉ nam của người tu Tịnh Nghiệp, kinh này ở phần đầu bộ
Tịnh Độ Thập Yếu. Tịnh Độ Thập Yếu là thành phần của những giáo pháp rất hợp lý
hợp cơ do ngài Ngẫu Ích sưu tập trong các kinh sách Tịnh Độ viết ra, gồm có
mười loại nên gọi là Thập Yếu. Đại Sư để quyển Di Đà Yếu Giải ở trước là tỏ ý
tôn trọng kinh.
Xá Lợi, vốn tiếng Phạn, dịch nghĩa: thân cốt hoặc linh cốt, là kết tinh của sức
tu giới định huệ, không phải do luyện khí thần mà thành. Đó cũng là biểu tướng
của người tu đến cảnh tâm cùng Phật hiệp. Nhưng xá lợi chẳng phải chỉ do thịt,
xương, tóc biến thành trong lúc thiêu thân, mà sự xuất hiện của nó có nhiều
trường hợp khác nhau. Như thuở xưa có vị cao tăng đang khi tắm gội bỗng được xá
lợi. Tuyết Nham Khâm Thiền Sư lúc cạo đầu, tóc Ngài biến thành một xâu xá lợi.
Có kẻ chí tâm niệm Phật, xá lợi từ trong miệng vọt ra. Một người thợ khắc văn
Long Thơ Tịnh Độ, xá lợi hiện trong bản cây. Có vị tín nữ thêu Phật, thêu kinh,
được xá lợi dưới mũi kim. Lại có kẻ đi xa về, ngậm ngùi thương cảm tế lễ trước
tượng, nơi tượng bỗng hiện ra xá lợi. Thiền Sư Trường Khánh Nhàn, khi tịch rồi
thiêu hóa, nhằm lúc trời nổi gió lớn, khói bay xa ba bốn mươi dậm, khói đến chỗ
nào nơi ấy đều có xá lợi, lượm gom lại được hơn bốn thạch. Thế thì biết xá lợi
do đạo lực hóa hiện, nhà luyện đơn không rõ, lầm tưởng là luyện tinh khí thần
kết thành. Bởi họ thấy những danh tướng trong Phật Pháp, không chịu tìm hiểu
căn nguyên, vội đem phụ hội một cách sai lạc vào sự luyện đơn của mình. Chỉ
nghe nói chứng quả bồ đề mới được thành Phật, chưa từng có việc luyện tinh khí
thần, trước thành xá lợi tử, sau kết làm bồ đề châu mà thành Phật bao giờ! Tánh
và mạng của nhà luyện đơn nói, đều là lối tu chấp trước trên thần thức, sắc
thân. Họ không hiểu lẽ ấy, trở lại chê đạo Phật chỉ tu tánh không biết tu mạng,
đâu dè việc làm của họ chính là chỗ phá trừ bên Phật giáo. Về việc nầy, các hạ
tìm xem đoạn quán Tứ Niệm Xứ trong Kinh Phật sẽ tự rõ.
Bồ Tát Quán Thế Âm từ kiếp lâu xa về trước đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp
Minh. Vì lòng từ bi sâu thiết, nên tuy ở cõi Thường Tịch, Ngài hóa hình nơi ba
cõi: Thực Báo, Phương Tiện, Đồng Cư; tuy thường hầu cận đức A Di Đà, mà vẫn
khắp hiện thân Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến thân lục đạo trong
mười phương pháp giới. Những việc lợi ích, Ngài đều làm, chúng sanh đáng dùng
thân nào được độ, Ngài hiện thân ấy mà nói pháp. Non Phổ Đà chính là nơi ứng
tích của Bồ Tát. Vì muốn cho chúng sanh có chỗ bày tỏ lòng thành, đức Quán Thế
Âm mới thị tịch tại núi này, đâu phải Bồ Tát chỉ ở Phổ Đà mà không ở những nơi
khác ư? Như chỉ duy một vầng trăng trên trời mà bóng in khắp ngàn muôn sông hồ,
từ biển cả cho đến giọt sương, những nơi có nước trong là có trăng hiện. Song
nếu nước đục, bóng trăng sẽ mờ khuất. Tâm tánh ta ví như nước, nếu chúng sanh
một lòng chuyên niệm đức Quán Thế Âm, Bồ Tát liền dùng đủ cách thuận, nghịch,
ẩn, hiển, khiến cho được lợi ích. Trái lại, nếu không chuyên nhất, tức là nước
tâm lờ đục, tất nhiên khó mong nhờ Ngài cứu độ. Nghĩa nầy rất thâm, xin xem
đoạn 'Phổ Đà Sơn Chí', trong bộ Văn sao của tôi sẽ tự rõ. Bồ Tát khi còn ở
trong nhân, do quán tánh nghe mà chứng viên thông, lúc ở trên quả, do quán
tiếng chúng sanh xưng danh hiệu mà tìm đến cứu độ, nên gọi là Quán Thế Âm. Lại,
Bồ Tát đạo pháp rộng lớn không ngằn, tùy theo căn tánh của tất cả chúng sanh,
nói đủ pháp để giáo hóa, không riêng lập một môn nào, nên pháp môn của Ngài gọi
là Phổ Môn.
Trên đây là việc thiển cận, vì các hạ chưa nghiên cứu đến, nên không rõ. Tôi
cũng tùy lời hỏi mà đáp, thật ra đó không phải là môn Tịnh Độ, một giáo pháp có
thể đem lại cho các hạ sự ích lợi hoàn toàn. Nhưng nếu nói rõ việc ấy ra đây,
lại e lòng dòng thêm phí giấy mực. Các hạ nên thỉnh Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh
Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Triệt Ngộ Ngữ Lục
mà xem, sự lý tu chứng thế nào, trong ấy có nói đủ tất cả.
Thơ đáp Cư Sĩ Mã Khế Tây (1 - 3)
- 1 -
Thời khóa niệm Phật nên tùy chỗ thích hợp riêng của mỗi người mà lập. Theo nghi
thức ở Niệm Phật đường của các chùa hiện nay, đều trước tụng Kinh A Di Đà, kế
tụng ba biến chú Vãng Sanh, xong lại đọc bài kệ khen Phật, đến cuối bài, tiếp
niệm 'Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật', rồi đứng
dậy đi quanh theo bàn Phật mà niệm. Phép đi nhiễu quanh phải từ đông qua nam,
tây qua bắc, đó gọi là thuận, là tùy hỷ và như thế mới có công đức. - Tây Vức
rất trọng phép đi nhiễu, nước ta cũng dùng phép nầy, kiêm cả sự lễ bái để tỏ
lòng kính thành. Nếu đi từ đông qua bắc, tây qua nam, tức là trái ngược, có tội
lỗi, điều nầy cần nên biết. Đi nhiễu quanh niệm Phật được một lúc, rồi ngồi
xuống niệm thầm, ước một khắc lại niệm ra tiếng. Khi sắp xong, quì niệm Phật
mười câu, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, mỗi thánh hiệu đều ba lần, kế
đọc bài văn phát nguyện, tụng Tam Tự Quy Y, rồi lễ Phật lui ra. Người tại gia,
nếu chỗ nơi chật hẹp khó đi vi nhiễu, thì quì, đứng, hoặc ngồi niệm cũng được.
Tóm lại, phải tùy tiện theo cảnh duyên, tinh thần, sức khỏe của cá nhân mà
định, nếu nhờ người khác lập pháp thức cho, e không được hoàn toàn.
'Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm', là cảnh giới của người đã niệm đến
trình độ tâm Phật hợp nhau. Đến lúc ấy, tuy thường niệm Phật nhưng không có
tướng khởi lòng động niệm, tuy không khởi lòng động niệm, mà vẫn hằng xưng
niệm, hoặc ức niệm. (Chưa đến lúc tương ứng, nếu chẳng khởi động tâm niệm mà
niệm, thì không niệm được). Không niệm đây, đừng nhận lầm là chẳng niệm Phật,
vì đó là chỉ cho trạng thái tuyệt sự khởi tâm động niệm, thật ra thì mỗi câu
Phật hiệu vẫn nối nhau không hở dứt. Cảnh giới ấy không dễ gì được, chớ nên
nhận lầm. Phép quán tưởng tuy tốt, nhưng cần phải biết tượng Phật mình thấy,
thuộc về duy tâm hiện; nếu nhận lầm là cảnh ngoài, có khi ma dựa phát cuồng.
Duy tâm hiện là tượng Phật tuy rõ ràng, song không phải hình tướng chất ngại,
thật có, nếu nhận định như thế thì thành cảnh ma. Lúc niệm Phật mắt nhắm hay
mở, cũng thuộc về việc tùy nghi... Kiêm trì thánh hiệu Quán Âm, rất được chỗ
nương tựa, tất cả mọi người đều nên tu như thế. Khi làm việc, không giữ được
tịnh niệm, vì chưa đến cảnh giới một lòng chẳng loạn. Như thế tất khó khỏi sự
ngăn cách, bởi một tâm không có hai dụng. Nên thường định tâm soi vào trong.
Mỗi người đều phải giữ bổn phận, như ngươi trên có bà nội, cha mẹ, dưới có vợ
cùng em dại, chức nghiệp lại nhàn nhã rất dễ tu trì. - hoàn cảnh ấy chẳng thiết
thật dụng công, còn muốn xuất gia làm chi? Có chắc rằng ngươi xuất gia, lại
được cơ duyên tốt như thế để chuyên tâm tu hành chăng? Nên biết, xuất gia có
bổn phận của kẻ xuất gia, đâu phải bỏ tất cả công việc? Như „n Quang đây xem ra
như người vô sự, nhưng cũng bị bận buộc hầu hết tháng năm, không rỗi rảnh để
chuyên tâm niệm Phật, huống là kẻ khác ư? Vậy nên tùy sức tu trì, đừng tưởng
nghĩ việc chi ngoài bổn phận.
Đó là hạnh phúc cho ngươi, mà cũng là điều ta mong ước.
- 2 -
Người tu hành rất cần yên tâm tịnh dưỡng. Ngươi tên Tịnh Am, sao chẳng xét tên
nhớ nghĩa, cứ sanh thêm việc để cho mọi người lờn chán, chính mình lại vương
lấy các chứng: uất hơi, xây xẩm, đau đầu? Nếu ngươi còn chẳng biết tự trọng,
tất rồi sẽ thổ huyết, nhẹ thì thành phế tật, nặng hoặc đến thân mạng không
toàn. Chừng đó lại để cho người đời mai mỉa rằng ngươi học Phật tu hành, chẳng
những không lợi ích còn bị tổn thêm! Rồi cũng từ nguyên nhân ấy, một hạng kém
hiểu biết sanh lòng phỉ báng, bảo: Đó là sự tai hại của Phật Pháp. Họ lại tìm
đủ cách ngăn trở kẻ khác tu niệm, phá mất căn lành của người, mấy ai tìm hiểu
lỗi ấy do ngươi không thật hành đúng theo Phật giáo. Vậy ngươi phải biết điều
hay dở, gắng giữ tròn bổn phận người tu, làm sao cho được sự cảm thông trong
thầm lặng. Bệnh của ngươi đều do chính mình chuốc lấy, không tự xét tỉnh, lại
còn hỏi ai?
Vậy ngươi nên mau cải lỗi và nhiếp tâm niệm Phật, kinh điển cũng tạm đình lại
đừng xem. Cứ y theo lời ta, độ một vài tháng sẽ được bình phục. Nếu chẳng thế, thì
xin tuyệt nghĩa thầy trò, ngày khác có gặp nhau cũng đồng như người đi đường mà
thôi!
- 3 -
Danh là bề ngoài của sự thật. Có
thật có danh vẫn không lấy làm vinh, vì đó thuộc về bổn phận. Không thật có
danh, đã nhiều thẹn nhục, huống chi còn muốn đăng lên báo để khêu động tai mắt
của khách bốn phương? Việc ấy nếu làm ra, mọi người sẽ nghi ngờ bàn luận, tất
trở thành cái thật án trộm danh khi đời. Ngươi chỉ biết một, chẳng biết hai,
nên ta phải đôi phen giải bày chỉ rõ. Với Phật Pháp, ngươi tuy có lòng tin sâu,
nhưng lại ưa phô trương, kết giao, du ngoạn; đó là điều chướng ngại lớn cho sự
tu hành. Vả lại ngươi tuổi mới hơn hai mươi, mà đã kết giao nhiều như thế, sau
này khi học Phật được tinh thông, chắc mỗi ngày không có lúc nào rỗi rảnh. Nên
yên tịnh trầm lặng, sự lợi ích sẽ vô cùng!
Phải gắng dè dặt và tự kiểm thúc lấy!
Thơ đáp một Cư Sĩ ở Dõng Giang
Sắc dục là chứng bệnh chung của
người đời. Chẳng những hạng người trung, hạ bị nó làm mê, mà bậc thượng căn nếu
không kiêng sợ giữ gìn, cũng khó khỏi mang hại. Xưa nay biết bao trang tuấn
kiệt có thiên tư làm thánh hiền , chỉ vì phá không nổi lớp cửa ấy, trở thành kẻ
hèn ngu bất tiếu! Vô số loài hữu tình cũng vì đó mà sa đọa vào tam đồ. Trong
Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật bảo ngài A Nan: 'Nếu chúng sanh ở sáu đường trong
các thế giới, dứt được lòng dâm, thì không còn bị xoay vần theo vòng sống,
chết. Ngươi tu Tam Muội, vì cầu ra khỏi trần lao, nếu chẳng trừ lòng dâm, tất
không thể nào giải thoát.' Với người học đạo, vấn đề trọng đại là sự sống chết,
nếu không mau thống trừ căn bệnh kia, làm sao lìa nỗi khổ luân hồi? Như pháp
môn niệm Phật tuy là đới nghiệp vãng sanh, song nếu đem lòng dâm cố kết, tất sẽ
cách ngăn với Phật, đạo cảm ứng khó giao thông. Muốn dứt mối họa ấy, không chi
hơn khi thấy tất cả người nữ, đều tưởng là thân thuộc, oan gia và nhơ nhớp.
Tưởng như thân thuộc là thế nào? Khi thấy người người nữ tuổi cao thì tưởng là
mẹ, lớn hơn mình tưởng là chị, nhỏ hơn tưởng là em, nhỏ hơn nữa, nên tưởng là
con. Người lòng dục dù mạnh, quyết không dám đối với mẹ, chị, em và con, sanh
niệm bất chánh. Đó là dùng luân lý ngăn dục tâm khiến cho không phát khởi.
Tưởng như oan gia là thế nào? Người đời, theo tình thường khi thấy sắc đẹp liền
động lòng luyến ái. Do tâm mê nhiễm ấy, nên đọa vào ác đạo nhiều kiếp chịu khổ
không được thoát ly. Thế thì vẻ kiều mị đẹp tươi, sánh với cọp, sói, rắn rít
cùng các thứ thuốc độc, còn hại gấp trăm ngàn lần! Đối với mối oan gia rất lớn
ấy, còn quyến luyến ưa thích, há chẳng phải là ngu mê quá lắm ư?
Tưởng nhơ nhớp là thế nào? Sắc đẹp chỉ là một lớp da mỏng bên ngoài. Nếu banh
lớp da ấy ra, thì dẫy đầy những xương, thịt, máu, mủ, đờm, dãi, phẩn uế, hôi
tanh nhơ nhớp không ai muốn nhìn! Những thứ không đáng ưa đó, chỉ vì một làn da
mỏng giấu che, làm cho người lầm sanh lòng yêu mến. Như chiếc bình đẹp đựng đồ
hôi nhơ, không ai cầm lấy để ngắm, xem. Lớp da của mỹ nhân chẳng khác chi chiếc
bình đẹp kia, trong ấy nhơ nhớp còn hơn phẩn, đâu nên chỉ ưa thích bề ngoài,
quên hẳn bề trong, lầm sanh vọng tưởng ư? Nếu không răn dè sợ hãi, thống trừ
tập tánh ấy, tất bị vẻ đẹp mỏng manh phỉnh gạt, mũi tên ấy sẽ ghim sâu vào
xương tủy, làm sao tự nhổ ra? Lúc bình thường đã như thế, mà muốn sau khi chết
chẳng đọa vào bào thai, việc ấy không thể có. Nhưng vào bào thai người còn khá,
vào thai loài súc thú mới ra thế nào? Thử suy nghĩ kỹ điều nầy, tâm thần tự
nhiên kinh động sợ hãi! Song, muốn cho khi thấy cảnh không khởi lòng nhiễm,
trước phải thường tưởng ba điều trên, thì lúc đối cảnh mới khỏi bị lay chuyển.
Bằng chẳng thế, dù không thấy cảnh, ý vẫn mơ tưởng triền miên, cũng vẫn bị tập
khí dâm dục ràng buộc. Cho nên, đối với nữ sắc phải xét nhận thấu đáo, quét
sạch tập quán dục nhiễm, mới có phần tự do.
Mỗi ngày, ngoài chức phận của mình, cư sĩ gắng chuyên tâm niệm Phật và đem hết
lòng thành kính tha thiết sám hối tội nghiệp từ vô thỉ đến nay. Như thế, lâu
ngày sẽ có sự lợi ích không thể nghĩ bàn mà chính mình không tự biết. Kinh Pháp
Hoa nói: 'Nếu có chúng sanh nào nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm
Bồ Tát, sẽ được lìa dục', cho đến nhiều giận hờn, ngu si cũng như vậy. Thế thì
biết, nếu chí thành niệm thánh hiệu đức A Di Đà, tất cũng được tiêu trừ ba món
hoặc: tham, giận, mê. Lại, hiện nay là thời buổi nhiều hoạn nạn, ngoài giờ niệm
Phật, nên niệm thêm thánh hiệu đức Quán Âm. Như thế, sẽ được sự chuyển biến rất
mầu nhiệm trong âm thầm, mới khỏi cảnh khi túc nghiệp hiện ra không phương trốn
tránh. Phải tìm xem những sách: giới dâm, nhân quả, báo ứng, xa lìa bạn bè du
đãng thì tâm hạnh mới được chánh đáng, vững vàng và tịnh nghiệp mới có thể
thành tựu.
Cố gắng! Cố gắng!
Thơ đáp hai Cư Sĩ Ngạn Như, Dật Như
Xem thơ, thấy nhị vị tỏ ý phiền muộn
vì việc đời buộc ràng, không biết làm sao được giải thoát. Mọi người đều có bổn
phận, duyên sự tuy nhiều nhưng nếu tâm điềm nhiên không chuyển theo cảnh, thì
đương lúc bận buộc cũng được giải thoát an nhàn. Cảnh trạng ấy như đài gương
soi hình, hình đến không trở ngăn, hình đi chẳng lưu luyến. Nếu không hiểu
nghĩa này, dù cho bỏ hết việc đời, nơi tâm cũng còn vương vấn, rộn ràng chẳng
yên. Người học Phật biết an theo phận mình, giữ tròn nhiệm vụ, thì dù có tiếp
xúc muôn duyên, mỗi ngày vẫn thung dung ngoài cảnh vật. Đó chính là nghĩa 'một
lòng không trụ, muôn cảnh đều nhàn' vậy.
Đến như niệm Phật, rất cần ở sự thoát ly vòng sống chết. Đã vì việc ấy tất đối
với nỗi khổ luân hồi tự sanh chán nản, với sự vui Cực Lạc tự sanh mến ưa. Thế
là trong một niệm đủ cả hai điều tín nguyện. Thêm vào đó lòng chí thành khẩn
thiết như con nhớ mẹ, thì sức Phật, sức Pháp và sức công đức tín nguyện của tâm
mình, ba pháp đều vẹn toàn. Lực dụng ấy ví như vầng nhật giữa trời, dù có tuyết
sương dầy đặc, không mấy chốc cũng tự rã tan. Người mới niệm Phật chưa đến lúc
thân chứng Tam Muội, làm sao khỏi có vọng niệm? Nhưng nếu biết đem tâm soi vào
trong, không theo vọng cảnh, cũng đã quí lắm rồi! Ví như hai chiến trận đối
nhau, cần phải giữ thành lũy mình cho chắc, đừng để bên nghịch xâm phạm, phòng
khi quân giặc kéo qua liền đón lại đánh. Lúc ấy phải đem binh chánh giác bao
vây bốn bên, khiến cho đối phương không đường tẩu thoát, phải chịu quy hàng.
Điều cần yếu là vị chủ soái phải thường thường tỉnh táo đừng biếng trễ, hôn
trầm. Nếu phạm hai lỗi ấy, chẳng những không phá được giặc, trở lại bị giặc
tiêu diệt. Cho nên người niệm Phật nếu không biết nhiếp tâm, thì càng niệm càng
sanh vọng tưởng. Nếu có thể nhiếp tâm, vọng niệm sẽ lần lần yếu bớt, cho đến
khi tiêu tán không còn. Nên người xưa có lời kệ:
Học đạo dường như giữ cấm thành,
Ngày phòng sáu giặc, tối tinh chuyên.
Tướng, quân, chủ soái đều theo lịnh,
Chẳng động đao thương nước được yên.
Thơ đáp Cư Sĩ Ngô Hi Chân
Môn niệm Phật ước có bốn pháp: Trì
Danh, Quán Tưởng, Quán Tượng và Thật Tướng. Tựu trung, chỉ có pháp Trì Danh
nhiếp cơ rất rộng, đã dễ tu lại không khởi các việc ma. Nếu muốn quán tưởng,
phải xem kỹ Quán Kinh và hiểu rõ những lý: tức tâm là Phật, tâm tịnh Phật hiện,
các cảnh đều duy tâm không nên chấp trước... Đã rõ cảnh không phải từ bên ngoài
đến, không sanh chấp trước, thì cảnh càng nhiệm mầu, tâm càng thuần nhất. Nếu
được như thế, sự lợi ích của quán tưởng đâu phải kém nhỏ, tầm thường?
Trái lại, như cảnh quán chẳng thuần, lẽ đạo chưa thấu suốt, chỉ đem tâm vội gấp
muốn thấy cảnh thì toàn thể là vọng, đã không được thông cảm với Phật, còn làm
nhân cho việc ma. Bởi do gấp muốn thấy cảnh, tâm càng thêm vọng động, khiến cho
oan gia nhiều kiếp về trước nhân cơ hội đó hóa hiện cảnh giới để làm cho hành
giả mê lầm. Lúc ban sơ dụng tâm đã không chơn, đâu biết đó là cảnh ma hiện, nên
vui mừng khấp khởi, tình niệm chẳng yên. Nhân đó, ma liền dựa vào làm cho mê
tâm mất tánh. Chừng ấy dù có Phật hiện thân cũng không biết làm sao cứu độ!
Vậy cư sĩ nên lượng xét căn cơ mình, đừng quá ham việc cao xa, thành ra muốn
lợi trở lại mang hại. Thiện Đạo Hòa Thượng nói: 'Chúng sanh đời mạt pháp thần
thức rối loạn, đem tâm thô quán cảnh nhiệm, quyết khó thành công.' Cho nên đức
Phật thương xót, riêng mở môn Trì Danh, vì sợ có kẻ không khéo dụng tâm, lạc
vào ma cảnh. Tu theo phép Trì Danh rất dễ, chỉ giữ một niệm nối nhau sẽ được
vãng sanh. Lại sự chí thành khẩn thiết cũng là phương pháp mầu để trị tâm vọng
và ma cảnh.
Cư Sĩ nên xét lại kỹ, và đem hết tâm lực cố gắng tu hành!
Thơ đáp Nhạc Tiên Kiều
Muốn trong hiện đời thật ích, phải y
pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tất sẽ thoát đường
sanh tử. Nếu chẳng thế, đừng nói kẻ không được chơn truyền của Phật giáo không
thể giải thoát, dù có được cũng tuyệt phần! Vì được chơn truyền là đại triệt
đại ngộ không phải thật chứng. Chứng mới khỏi luân hồi, ngộ vẫn còn trong vòng
ấy. Tu các pháp môn khác, đều phải dứt hoặc chứng chơn mới thoát sanh tử. Riêng
môn Tịnh Độ, chỉ cần đủ tin sâu, nguyện thiết, trì danh hiệu Phật, dứt các điều
dữ, làm những việc lành, gồm tu cả hai phần chánh trợ, quyết định sẽ vãng sanh.
Hơn nữa, về phẩm vị còn được chiếm ngôi ưu thắng. Lại chẳng những người công
hạnh tinh thuần quyết được sanh, mà kẻ phạm tội ngũ nghịch thập ác, khi sắp
chết biết tỉnh ngộ, hết sức hổ thẹn, sợ hãi chí tâm niệm Phật vài câu liền mạng
chung, cũng quyết được sanh. Bởi đức Phật lòng từ rộng lớn, chuyên lấy sự độ
sanh làm bổn phận. Nếu kẻ nào biết một niệm quay về, liền được nhiếp thọ. Đó
gọi là 'nương nhờ sức Phật, đới nghiệp vãng sanh.'
Người đời mạt pháp, nếu tu các môn khác, không y theo Tịnh Độ, chỉ được phước
báo ở cõi trời, người và gieo nhân giải thoát nơi kiếp lâu xa về sau mà thôi.
Do bởi chúng sanh đời nầy không đủ sức dứt hoặc nghiệp, nên gốc sanh tử hãy
còn. Như thế làm sao khỏi mọc lại mầm mộng sanh tử?
Thơ đáp Cư Sĩ Phạm Cổ Nông
Pháp môn Tịnh Độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh
làm tông; Tín, Nguyện có rất sâu thiết, Hạnh mới được tinh cần. Khi tai họa gấp
rút, siêng năng thành khẩn, lúc bình thường không việc, chậm trễ biếng lười, là
sự tu hành không chí quyết, và đó cũng là bệnh chung của phàm phu. Nhưng sống
trong tình thế hiện giờ, ví như người nằm yên trên đống củi to, ở dưới lửa đã
phát cháy tuy chưa đốt đến thân, trong giây phút khói lửa sẽ mịt mù, không
phương trốn tránh. Nếu còn lơ láo qua ngày, không chuyên chí cầu cứu nơi câu
niệm Phật, sự thấy hiểu cũng là cạn cợt lắm!
Trong Phật Pháp, tu về các môn khác, tất phải đến chỗ hạnh khởi giải tuyệt mới
thật có ích, chẳng riêng gì phép quán tưởng của Tịnh Độ Tông. Người tu thiền
lấy một câu thoại đầu không nghĩa vị làm bổn mạng ngươn thần, để tất cả tâm trí
vào đó, thường thường tham cứu chẳng kể ngày tháng, đợi đến khi tiêu hết tình
kiến đối với cảnh trong ngoài, mới gọi là đại triệt đại ngộ. Đó chẳng phải là
hạnh khởi giải tuyệt ư? Đức Lục Tổ bảo: 'chỉ xem Kinh Kim Cang cũng được tỏ
lòng thấy tánh.' Đó chẳng phải là hạnh khởi giải tuyệt ư? Chữ khởi đây phải
hiểu nghĩa là cực. Duy dùng sức cùng cực mới có thể quên cả thân tâm thế giới,
lặng suốt một màu. Nếu công chưa cùng cực, tuy quán niệm, song vẫn còn có kia
đây, toàn là việc của tình phàm, toàn là sự thấy hiểu phân biệt, đâu được chân
thật lợi ích? Cho nên người xưa khi tham thiền, đầu não như cây khô, do đó đạo
phong truyền rộng khắp nơi, đời sau còn ngưỡng mộ. Sự lợi ích ấy đều do ở nơi
một chữ cực mà thôi.
Người đời nay ưa nói suông, ít hay thực hành. Tu tịnh nghiệp phải gồm cả lý sự,
mà sự lại càng nên chuyên hơn. Tại sao thế? Vì người thông hiểu lý, toàn sự đều
lý, trọn ngày sự trì tức là lý trì. Kẻ chưa rõ lý, khi nghe nói lý trì, cảm
thấy nghĩa ấy mầu nhiệm, lại hợp với ý biếng trễ không thích phiền nhọc của mình,
liền chấp lý bỏ sự. Đâu ngờ khi bỏ sự, lý cũng thành ra việc suông! Mong các hạ
đem việc tu hành kiêm cả sự lý khuyên bảo mọi người, công đức sẽ lớn lắm!
Thơ đáp Cư Sĩ Phạm Cổ Nông
Trung ấm tức là thần thức, chớ không
phải thần thức hóa làm trung ấm thân. Đây chính là linh hồn mà người thế tục đã
thường gọi. Cái thuyết trung ấm thân bảy ngày sống chết một lần và qua bốn mươi
chín ngày phải đi đầu thai, không nên nê chấp. Nói trung ấm thân sống chết là
chỉ cho trong tâm vô minh của kẻ kia hiện ra tướng sanh diệt, đừng nên quá quê
thật, luận theo trạng thái sống chết của người đời.
Sự thọ sanh của thân trung ấm nơi sáu đường ba cõi, mau thì chừng trong khoảng
khảy ngón tay, lâu hoặc bốn mươi chín ngày hay nhiều hơn không nhất định. Những
vong mới chết có thể hiện thân trước người quen thuộc, hoặc cùng tiếp xúc nói
chuyện trong ban ngày hay ban đêm. Không phải chỉ riêng trung ấm thân mới được
như thế, mà người đã sanh về cõi dữ, lành, đôi khi cũng có thể hiện hình cho bà
con quen thuộc thấy. Đây tuy là ý niệm của người ấy hiện ra, song kỳ thật cơ
quyền biến do tạo hóa thần kỳ sắp đặt, để tỏ cho đời biết: người chết hồn chẳng
tan mất và quả báo lành dữ vẫn không sai. Nếu chẳng thế thì kẻ dương gian không
thể biết được việc âm ty, rồi do đó những tà luận mù quáng phụ họa nổi lên, bảo
rằng chết là mất, không có nhân quả, đời sau, khiến cho người lành không gắng
công tu đức, kẻ ác lại càng hung hiểm tung hoành. Thế thì dù có lời Phật dạy,
lấy đâu để chứng minh, và ai chịu tin nhận? Cho nên các sự hiện hình ấy đã
chứng cho lời Phật không sai, nhân quả có thật, người lành thấy thế càng làm
lành, mà kẻ dữ cũng bị tình lý đó chiết phục, không đến nỗi mười phần quyết
liệt. Trời đất quỉ thần muốn cho người đời biết rõ việc ấy; nên mới có những sự
người chết hiện hình nơi dương gian, kẻ dương gian xử đoán hình phạt dưới âm
phủ, để phụ dực Phật Pháp và giúp đạo trị an. Lúc nầy rất nhiệm mầu và sự quan
hệ cũng rất lớn. Những việc như thế, xưa nay sách vở chép cũng nhiều, song đều
chưa nói rõ cơ quyền biến ấy do từ đâu, và có những gì quan hệ lợi ích?
Linh hồn tuy lìa xác thân, nhưng vẫn còn có tình chấp về xác thân y như cũ. Đã
có tình chấp ấy, tất phải cần dùng đến sự ăn mặc để tư dưỡng. Sở dĩ như thế, vì
phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, chẳng biết ngũ uẩn vốn không, nên vẫn cùng
người đời không khác. Nếu là bậc đại trí huệ, thì liền thoát thể không còn
nương tựa vào đâu, các sự khổ tiêu diệt, ngũ uẩn rỗng không, muôn đức trọn bày,
chơn thân hiển lộ. Cảnh giới của thân trung ấm dị đồng không nhất định, nên sự
thọ hưởng đều tùy theo tình chấp của mỗi người. Như việc đốt giấy áo, đối với
người sống duy có quan niệm cấp cho áo, còn sự rộng hẹp vắn dài, đâu có thể mỗi
mỗi đều phù hợp. Nhưng do nơi tình chấp của người sống và kẻ chết, nên những
quần áo ấy vẫn vừa vặn như thường. Điều nầy có thể chỉ cho ta biết đại nghĩa:
'Tất cả các pháp đều do tâm chuyển biến.'
Người chết rồi, khi còn chưa thọ sanh trong sáu đường gọi là trung ấm thân. Nếu
thọ sanh thì chẳng còn là trung ấm thân, và sự dựa vào người mà nói việc khổ
vui, đều là tác dụng của thần thức. Sự đầu thai tất do thần thức cùng tinh
huyết cha mẹ hòa hợp, nên lúc người đàn bà có mang, thì thần thức đã có trong
thai. Nhưng tại sao đôi khi người mẹ chuyển bụng, thấy có kẻ đi vào nhà rồi mới
sanh? Đây là trường hợp lúc cha mẹ giao cấu, có linh hồn khác đến thay thế để
thọ thai, đến khi cái thai đã thành, vong chánh mới đến, vong thay thế liền đi.
Trong bộ 'Dục Hải Hồi Cuồng' quyển thứ ba, trang 8, 9, 10, 11, 12 cũng có nghi
vấn nầy mà nguyên đáp không đúng lý; tôi xin vì cải chánh, sau các hạ nên tìm
tra lại sẽ rõ. Nguyên đáp trong ấy đưa ra tỷ dụ như vầy: 'Ví như trứng gà, có
trứng có trống, có trứng không trống...' Không khi nào thần thức vào thai mà
giống như trứng gà không trống. Bởi trứng không trống là trứng hư, không thể nở
ra con, còn trường hợp trên, người mẹ vẫn sanh con như thường. Nay tôi lấy lý
để biện minh, không sợ mang lỗi tiếm việt, nên vì các hạ trình bày. Thuở xưa,
bà mẹ của ông Viên Trạch mang thai ba năm, có lẽ cũng thuộc về tình trạng thay
thế đã nói trên. Nhưng đây là ước theo lối thông thường mà luận, phải biết
nghiệp lực của chúng sanh không thể nghĩ bàn! Như người tu tịnh nghiệp đã
thành, thân tuy chưa chết mà thần thức đã hiện nơi Tịnh Độ. Và kẻ nghiệp ác
nặng, thân còn nằm trên giường bệnh mà linh hồn đã chịu hình phạt dưới cõi u
minh. Thế thì mạng tuy chưa dứt, thần thức đã đầu thai, đợi đến khi sắp sanh,
toàn phần tâm thức mới phụ vào thai thể, lý nầy chẳng phải là không có, nhưng
thông thường, sự thay thế thọ thai vẫn nhiều hơn.
Trong ba cõi, các pháp đều duy tâm hiện. Chúng sanh tuy mê chẳng biết, nhưng
chính chỗ nghiệp lực không thể nghĩ bàn ấy, là chỗ tâm lực không thể nghĩ bàn,
mà cũng là chỗ thần thông đạo lực của chư Phật không thể nghĩ bàn vậy. „n Quang
tôi, hơn mười năm gần đây, vì sức mắt yếu không xem nhiều được, nên không thể
rộng dẫn kinh luận để chứng minh. Tuy nhiên, lý ấy vẫn chân thật, chẳng phải
tôi dám đưa ra điều ức kiến, để rước lấy sự tội khiên. Sống chết là việc lớn
của chúng sanh, nhân quả là đại quyền trong cơ giáo hóa. Mong rằng các hạ không
tiếc lời văn quảng trường thiệt, một phen đem việc nhân quả báo ứng giúp cho
mọi người đều chuyển phiền não sanh tử thành bồ đề niết bàn. Như thế pháp môn
cùng chúng sanh xiết bao hân hạnh!!
Thơ đáp Cư Sĩ Phật Điển
Tiếp được thơ, biết cư sĩ tụng niệm
tinh cần, lòng tôi rất vui đẹp!
Những bóng đen theo cư sĩ nói, chẳng phải là bóng chư Phật, Bồ Tát, cũng chẳng
phải hình ảnh kẻ oan gia đối đầu. Vì nếu Phật, Bồ Tát hiện thân, tất phải tỏ rõ
có thể trông thấy mặt mày; còn nếu là kẻ oan gia thì nó sẽ hiện ra tướng ghê
gớm đáng sợ. Mấy bóng ấy có lẽ là những cô hồn hữu duyên từ kiếp trước, muốn
nhờ sức tụng kinh niệm Phật của cư sĩ để siêu sanh về cõi an lành. Vậy sau thời
khóa tụng hồi hướng, cư sĩ nên cầu nguyện luôn cho các vong ấy được tiêu trừ ác
nghiệp, thêm lớn căn lành, nhờ sức từ của Phật vãng sanh về Tây Phương. Như
thế, các vong kia sẽ được lợi ích, không luống uổng một phen khổ sở mong cầu.
Người tu hành tâm phải có chủ tể, khi thấy cảnh giới xấu không nên sợ hãi, thấy
cảnh giới tốt cũng không nên vui mừng. Được như thế thì các cảnh giới trải qua
đều là những thắng duyên trợ đạo. Nếu tâm không chủ định thì các cảnh đều là
chướng duyên. Lại, người tu hành phải lấy sự cung kính chí thành làm gốc, lấy
từ bi khiêm tốn làm lòng. Như thế thì dù tâm hạnh chưa được hoàn toàn cùng Phật
hợp nhau, cũng không đến nỗi trái với tâm hạnh của Phật, có thể gọi là người
chơn tu, là đệ tử Phật.
Thơ gởi Cư Sĩ Tạ Dung Thoát
Nơi quê hương của các hạ được biết
pháp môn Niệm Phật, là do Lâm Giới Sanh thỉnh kinh sách Tịnh Độ đem về truyền
bá. Nếu trong đời trước các vị cư sĩ không trồng căn lành đối với pháp môn ấy,
thì đâu có thể lấy gương xưa làm thầy, sau khi nghe rồi liền sanh lòng tín
nguyện, tự tu và khuyên người ư? Và, đâu có thể trong vòng không đầy mười lăm
năm, đạo pháp lan rộng như thế ư?
Xét về thiên tư và cảnh duyên của các hạ đối với thời cơ pháp vận hiện nay, thì
chỉ nên giữ năm giới để hộ trì Tam Bảo, truyền Tịnh Độ mà khuyên chúng vãng
sanh, là hợp lý hợp thời và cần yếu hơn hết. Tại sao tôi lại nói như thế? Vì,
các hạ tuổi đã hơn bốn mươi, căn tánh chưa phải là bậc thượng, nếu muốn nghiên
cứu Tạng Kinh, tham hỏi hàng tri thức, e cho pháp môn quá rộng, ngày tháng
chẳng nhiều, rồi khi trở tay không kịp, có sự ăn năn. Lại hiện nay tuy có bậc
tri thức, song tăng chúng phần nhiều đều ô lạm, bạn đồng hạnh ít người (đồng
hạnh: bạn giúp đỡ về phần tu tập, có thể khiển trách lẫn nhau, khiến cho đạo
hạnh tiến thêm), nếu khi chí hướng thượng suy kém, tất sự biếng trễ cũng nương
theo, khó bề gắng gượng. Như tôi năm hai mươi mốt tuổi, từ cha mẹ xuất gia,
cũng có thể gọi là lập chí mạnh và phát tâm chơn. Nhưng đến nay tuổi đã năm
mươi ba, mà bên tông bên giáo đều không sở đắc chi cả. Nghĩ tủi thẹn luống phụ
ơn mẹ cha, uổng làm con đức Phật! Song cũng may, đối với môn Tịnh Độ, khi mới
xuất gia học Kinh A Di Đà, tôi đã sanh lòng tin, thật chưa nhờ bậc tri thức nào
chỉ dạy. Vì lúc đó thầy thọ nghiệp và các vị tri thức chỉ chuyên về sự tham
cứu, những lời khai thị đều phá môn Tịnh Độ. Tôi lượng biết sức mình, nên không
lay chuyển theo ai, dù Phật, Tổ hiện thân cũng chẳng đổi ý, huống nữa là lời
nói của bậc tri thức bên tông Thiền? Lại hiện nay, chánh yếu tà mạnh, việc hộ
trì Phật Pháp, với tục thì dễ, với tăng lại khó. Nếu các hạ giữ chắc năm giới,
chuyên niệm Phật, về phần tu thân lời và hạnh hiệp nhau, thì có thể truyền bá
chánh pháp, làm lợi ích cho mọi người. Song chớ nên ở địa vị thầy mà tự cao, và
thọ tiền của để lợi dưỡng. Phải đem lẽ chánh khuyên bảo những kẻ thân sơ, tất
mọi người đều mến đức vâng theo lời. Đó gọi là: 'sửa mình được chánh, tuy không
bảo người cũng theo, như cỏ ở trước ngọn gió tất phải thuận chiều vậy.' Lệnh
lang không tin đạo Phật, cũng chẳng nên ép, đợi khi nào cảnh ngộ đẩy đưa khiến
cho tánh thiên chơn phát lộ, chừng ấy chỉ dùng một lời nhắc bảo, tự nhiên tấm
lòng của y sẽ phơi phới hướng về chánh pháp, khó nỗi cản ngăn.
Liên xã mới mở phải có quy tắc nhất định và thận trọng về việc cho người nữ dự
vào. Chẳng nên bắt chước theo các nơi khác, thờ ơ không kiểm ước, để đến đỗi
một pháp vừa lập trăm mối tệ sanh theo, điều ấy rất cần yếu. Không cơ duyên
được lễ bái xá lợi và gần gũi tòng lâm, việc ấy có hại gì? Nếu khi thấy tượng
Phật, tưởng như Phật sống, thấy Kinh Phật, lời Tổ, tưởng như Phật, Tổ đối trước
mình chỉ dạy, tấm lòng kỉnh sợ không dám biếng trễ, tức là trọn ngày được thấy
Phật và gần gũi các bậc Bồ Tát, Tổ Sư, thiện tri thức. Như thế, xá lợi và tòng
lâm có thấm vào đâu? Về tập quán thô lỗ, đừng nói hàng cư sĩ, nếu người xuất
gia mà không chơn tu, lại còn quá hơn thế tục. Muốn trừ bỏ tánh ấy, trước phải
nhận rõ các pháp giữa đời đều là khổ, không, vô thường, vô ngã, hoặc nhơ nhớp,
thì ba ngọn lửa tham, giận, mê, sẽ dịu tắt lần. Nếu chưa dứt được, phải dùng
lòng ngay thật, xót thương, nhẫn nhục, tha thứ mà đối trị. Thảng hoặc còn chưa
dứt, cứ tưởng rằng mình đã chết, thì bao nhiêu sự nóng bức đều hóa thành mát mẻ
tươi nhuần. Kinh Báo Ân dạy phải lần lượt thọ giới, người xuất gia khi thọ giới
cũng y theo thứ đệ: giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát. Nhưng người xưa thọ giới là
phát tâm vì dứt sự sanh tử, trái lại, người đời nay phần nhiều đều muốn cho ra
vẻ một vị đại tăng, đắc giới hay không, chẳng cần nghĩ đến. Vì thế, mấy ông sư
thiếu học thiếu tu bên ngoài, đều là những người đã thọ qua ba đàn đại giới cả.
Sự tệ đó do bởi vua Thế Tổ nhà Thanh bỏ độ điệp, bãi lệ thí tăng mà ra. Cho đến
những kẻ xưng là thầy người, song chỉ cầu danh lợi, tham quyến thuộc, cũng xuất
phát từ nguyên nhân ấy. Tôi e chư tăng ở quí địa không rõ điều nầy, bảo rằng độ
người xuất gia là việc rất tốt, để cho hạng vô lại lẫn vào cửa Phật phá hủy
chánh pháp, nên chẳng sợ tị hiềm mà nói thẳng ra.
Môn Tịnh Độ là pháp rất mầu nhiệm, viên đốn nhất trong một đời thời giáo của
đức Như Lai. (Viên đốn: một pháp đủ tất cả pháp là viên, hiện đời tu, hiện đời
giải thoát là đốn). Hạng phàm phu thấp kém đều được dự vào, bậc Đẳng Giác Bồ
Tát cũng không thể vượt ra ngoài pháp ấy. Thật là con đường rất tắt để mau đi
đến quả Phật cho thượng thánh hạ phàm. chư Phật, chư Tổ đều dùng môn nầy làm
chiếc thuyền từ để độ khắp tất cả chúng sanh. Đối với một pháp như thế mà chẳng
sanh lòng tin, hoặc tin mà không chơn thiết, đó là người nghiệp chướng sâu
nặng, không ưng được giải thoát, sẽ phải chịu khổ luân hồi không biết lúc nào
ra khỏi. Khi đã ở trong vòng sanh tử, dù có được làm thân trời, người cũng ngắn
ngủi như lữ khách nghỉ nơi quán trọ. Trái lại, phần đọa vào ác đạo, thời gian
rất lâu dài, như người ở yên nơi quê nhà. Mỗi khi tôi nghĩ đến điều này, bất
giác cả sợ, nên chẳng nài mỏi nhọc, khẩn thiết tỏ với đồng nhân. Nay xin dẫn
một bằng chứng rõ ràng, để các hạ phát thêm lòng tín nguyện và đem ra khuyên
bảo mọi người.
Những kinh chuyên nói về tông Tịnh Độ, có ba quyển: Phật Thuyết A Di Đà, Quán
Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Thọ Kinh. Ngoài ra, các kinh điển Đại Thừa phần nhiều
đều phát minh pháp môn nầy. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đức Phật mới thành đạo,
vì các bậc pháp thân Đại Sĩ trong bốn mươi mốt vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, nói pháp cao cả về giới ngoại, hàng phàm phu và
nhị thừa đều không thể biết được. Sau rốt, trong phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài
đồng tử vâng lời dạy của đức Văn Thù, đi tham phỏng khắp các bậc tri thức.
(Đồng tử: danh từ xưng tặng bậc dứt hoặc chứng chơn, phá vô minh trở về bản
tánh, tâm hạnh trong sạch chân thật ví như kẻ đồng tử. Người đời không biết, vẽ
hình tượng nhi đồng là sai lầm. Như đức Văn Thù, trong Kinh Hoa Nghiêm có chỗ
gọi là Văn Thù Đồng Tử. Các kinh khác đôi khi cũng dùng danh từ nầy để xưng
những bậc Bồ Tát). Ban đầu Đồng Tử ra mắt ngài Đức Vân nghe pháp môn Niệm Phật,
liền chứng bậc Sơ Trụ. Kế đó lần lượt tham học mọi nơi đều được chứng, cho đến
vị tri thức thứ năm mươi ba là đức Phổ Hiền. Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền dùng oai
thần gia bị, khiến cho chỗ chứng của Đồng Tử bằng mình và chư Phật, (đây gọi là
Đẳng Giác Bồ Tát) rồi khuyên ngài Thiện Tài cùng hải chúng Bồ Tát trong cõi Hoa
Tạng phát mười nguyện rộng lớn, đem công đức ấy hồi hướng về Tây Phương Cực
Lạc, để cầu mau phương tròn quả Vô Thượng Bồ Đề. Lại, chương Hạ Phẩm Hạ Sanh
trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Những chúng sanh tạo năm tội nghịch, mười
điều ác, làm đủ những việc chẳng lành, sẽ phải đọa vào địa ngục, trải qua nhiều
kiếp chịu sự khổ vô cùng. Nhưng nếu kẻ ấy khi sắp chết gặp bậc thiện tri thức
khuyên bảo niệm Phật, liền vâng lời niệm đủ mười câu, tức thì tội chướng tiêu
trừ, được vãng sanh.' Như Trương Thiện Hòa, Trương Chung Quì, trong Long Thơ
Tịnh Độ Văn chính là hạng người đó. Thế thì, trên như đức Văn Thù, Phổ Hiền là
những bậc Đại Bồ Tát, dưới như kẻ phạm năm nghịch mười ác sắp đọa tam đồ, đều
thuộc về cơ nhiếp hóa của môn Tịnh Độ. Bao nhiêu đó cũng đủ thấy pháp môn này
quảng đại không bỏ sót một ai, và đức A Di Đà hạnh nguyện rộng sâu, xem chúng
sanh bình đẳng. Tôi thường có đôi liễn:
'Bỏ đường tắt Tây Phương, chín cõi chúng sanh khó thể được tròn nên quả giác.
Rời cửa mầu Tịnh Độ, mười phương chư Phật không vẹn toàn độ khắp hàng mê.'
Các hạ gắng phát lòng mạnh mẽ tinh tiến, đảm đương pháp này. Nên đem những ngôn
luận hợp cơ về sự truyền dương Tịnh Độ của người xưa, giảng lại cho trong thôn
ấp nghe. Làm sao cho ở trần không nhiễm, nơi tục tu chơn, mới hợp với danh
nghĩa hai chữ dung thoát. Vì dung thoát là lẫn với trần mà thoát khỏi trần vậy.
Đó là ý kiến quê hèn của tôi, các hạ nghĩ thế nào? Xin suy gẫm lại.
Thơ đáp Cư Sĩ Tạ Thành Minh
Được thơ, biết nơi quí địa còn có
tâm pháp của Nho, Phật, các hạ lại hết sức đảm đương, tôi rất lấy làm vui đẹp!
Đến như những lời khen tôi, thật là đưa ngọn cỏ khỏi lầu cao, khoe mắt cá hơn
châu ngọc, quá dùng theo lối khách sáo ngoài đời, khiến cho người xiết bao hổ
thẹn! „n Quang vẫn một kẻ dung tăng, hằng đón lấy canh thừa cơm hẩm nơi nhà bậc
phú trưởng giả để tự nuôi sống, nếu có ai không chê rằng nặng mùi, cũng đem để
chia sớt cho nhau. Nhưng cư sĩ Từ Huất Như bảo rằng thức ăn ấy có ích cho người
đói, nên mấy phen đem lời kẻ quê mùa nầy in ra lưu bố, tuy về ý có phần khả
thủ, song văn chương không đáng để nhìn. Chẳng dè bộ Văn Sao của tôi lại làm
lờn mắt xanh của các hạ, thật nghĩ cảm thẹn không cùng! Trong ấy, những điểm:
chánh tâm, thành kính, dùng để đối trị sự tìm cầu bên ngoài, sự không biết
kiêng sợ của người đời nay, cũng có đôi phần ích lợi cho kẻ sơ học. Nhưng, nếu
bậc thông Tông hiểu Giáo được trông thấy, chắc không khỏi bắt nhợn ra. Tuy
nhiên, nếu mửa hết những thức ăn khó tiêu của Tông Giáo, thì canh thừa cơm hẩm
ấy cũng có thể bồi bổ ngươn khí, đợi đến khi sức khỏe phục hồi, lại dùng thứ
cao lương mỹ vị mới được thật ích.
Về các pháp môn: Luật, Giáo, Thiền, Tịnh, thứ nào hợp cơ, xin xem kỹ bài Tịnh
Độ Quyết Nghi Luận trong Văn Sao của tôi sẽ tự rõ. Bậc đại thông gia tuy gồm tu
Thiền, Tịnh, song tất lấy Tịnh Độ làm chủ. Nếu như hạng người thường không cần
phải nghiên cứu khắp kinh luận sâu xa, chỉ nên làm lành dứt dữ, một lòng niệm
Phật cầu về Tây Phương mà thôi. Hạng người ấy vẫn sinh sống theo đời mà gồm tu
đạo xuất thế, tuy tợ hồ bình thường không chi kỳ lạ, song được sự lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn! Vì kẻ quê mùa dốt nát chỉ dùng lòng chơn thành tin tưởng niệm
Phật, nên có thể thầm hợp cùng đạo mầu, cảm thông với trí Phật. Người thông
hiểu giáo lý, nơi tâm thường hay tính toán suy lường, nên trọn ngày thức thần ở
trong vòng phân biệt, so lại không bằng sự chơn thành của hạng ngu tối kia. Cho
nên, kẻ quê dốt niệm Phật rất dễ được lợi ích. Bậc đại thông gia như có thể
buông bỏ tất cả cũng dễ được lợi ích; trái lại nếu chỉ suy lường nghĩa lý,
chẳng những không đắc ích, e có khi trở thành bệnh, hoặc chưa được cho là được,
lạc vào phái ngông cuồng.
Phép tham thiền chẳng phải là cơ duyên của người đời nay, dù có học cũng thành
sự hiểu biết về văn tự, quyết không thể tỏ suốt tâm tánh. Tại sao thế? Vì thiếu
bậc thiện tri thức dắt dìu chỉ định, lại người học chẳng biết tham thiền là thế
nào, phần nhiều tuy gọi tham thiền, song thật ra là ngộ nhận. Trong bài luận
'Tông cùng Giáo không nên lẫn lộn' và 'Tịnh Độ Quyết Nghi', tôi đã chỉ phần đại
khái về việc trên đây. Người đời nay, không luận căn cơ thượng, trung, hạ, đều
phải gìn luân thường, giữ lòng thành kính, tin chắc lý nhân quả, làm những điều
lành và chuyên niệm Phật cầu sanh về Tây Phương. Nhân quả là cái lò lớn để nung
phàm luyện thánh trong đạo pháp thế và xuất thế gian. Nếu trước tiên không
nghiên cứu về nhân quả, sau khi thông hiểu Tông Giáo, e cho còn sự lỗi lầm đối
với vấn đề nầy, và đã lỗi lầm tất có phần sa đọa. Vì thế, chớ cho nhân quả là
cạn cợt mà xem thường. Phàm phu vì tâm lượng nhỏ hẹp nên không hiểu thấu những
chỗ nói về nhân quả trong kinh, thật ra, các đấng Như Lai thành Chánh Giác,
chúng sanh đọa tam đồ, đều chẳng ngoài đạo lý ấy. Nên lấy pháp thiển cận ở đời
để làm phương tiện vào đạo mầu, như các thiên: Văn Xương Âm Chất, Thái Thượng
Cảm Ứng chẳng hạn. Mấy quyển ấy, nếu xem kỹ và thực hành theo thì mỗi người đều
có thể thoát nẻo luân hồi, hoặc ít ra cũng làm được hạng dân lương thiện. Niệm
Phật tuy trọng ở sự vãng sanh, nhưng khi niệm đến cùng cực cũng ngộ được chân
tâm, chẳng phải đối với đời hiện tại hoàn toàn không lợi ích. Thuở xưa, Thiền
Sư Minh Giáo Tung mỗi ngày niệm thánh hiệu Quán Âm mười muôn câu, về sau những
kinh sách ở đời, Ngài không đọc mà biết cả. Nên xem Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục, sẽ biết niệm Phật là nhiệm mầu. Về điều này, trong Văn Sao của
tôi cũng thường nói đến. Các hạ bảo: 'Niệm Phật không được lợi ích ngay trong
đời hiện tại', đó là bởi chính mình chưa nghiên cứu các kinh luận của Tịnh
Tông. Cho đến quyển Văn Sao của tôi, có lẽ các hạ cũng đọc qua như người chạy
ngựa xem đèn, không tế tâm tìm hiểu.
Đến như giới luật, chẳng những chỉ riêng về hình thức bên ngoài, mà nếu không
giữ lòng thành kính cũng là trái phạm. Nhân quả chính là trụ cốt của luật, nếu
không biết hoặc mù mờ đối với đạo lý nầy, tức đã trái luật, lỗi lầm. Người niệm
Phật, như giữ được tâm niệm hợp với chánh lý, thì trong một hạnh gồm đủ cả:
Luật, Giáo, Tịnh, Thiền. Nên biết, tu các pháp môn kia đều phải dứt hết hoặc
nghiệp không còn mảy tơ, mới được giải thoát. Riêng môn Tịnh Độ, nếu người trừ
sạch phiền não được vãng sanh, tất mau chứng pháp thân, kẻ nghiệp chướng còn
nặng, khi về Cực Lạc, cũng đã lên cõi thánh. So lại hai phương diện, một bên
toàn dùng sức mình, một bên nương nhờ sức Phật, sự hơn kém cách xa như vực với
trời. Có nhiều kẻ thông minh, mỗi khi đọc sách về tông Thiền thấy có ý vị, liền
tự cho mình là thiền khách, muốn làm bậc cao nhân. Hạng ấy không biết Thiền,
Tịnh là thế nào, lầm chuốc lấy lỗi tự tôn tự đại. Những kẻ có kiến giải như
thế, quyết không nên bắt chước. Nếu noi theo, thì với việc thoát sanh tử, e cho
trải qua kiếp số như bụi cũng khó mong cầu.
Xin xem kỹ lại quyển Văn Sao của tôi sẽ tự rõ.
Thơ đáp Cư Sĩ Trạch Phạm
Hàng phụ nhân khi sanh sản, nên niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, vì đức Quán Âm tâm cứu khổ rất ân cần. Lúc ấy phải ra tiếng
niệm to lên, không nên niệm thầm, vì niệm thầm năng lực đã yếu, sự cảm thông
cũng kém. Hơn nữa, trong khi dùng sức cho đứa con ra, nếu niệm thầm tất phải
tổn hơi mang bệnh. Chẳng những sản phụ tự mình niệm lớn, mà những người giúp đỡ
trong phòng sanh cũng niệm to lên. Và hàng quyến thuộc tuy ở nơi nhà, song cũng
phải vì sản phụ niệm danh hiệu Bồ Tát cầu nguyện giúp.
Rất không nên cho rằng: khi sanh sản lõa lồ không sạch, niệm sợ có tội. Nên
biết, lý tuy hữu định, nhưng sự phải tùy cơ, chỉ căn cứ theo sự mà luận lý,
chẳng nên chấp riêng bên lý để luận bàn. Ví như khi con cái té vào hầm phẩn
hoặc nơi nước, lửa, kêu cha mẹ cầu cứu, cha mẹ liền chạy tới kéo lên, không khi
nào ngại rằng con mình thân thể chẳng sạch, áo mũ không chỉnh tề, mà không chịu
cứu vớt để mặc cho nó chết. Lòng từ bi của Bồ Tát còn thâm thiết hơn cha mẹ đối
với con vô lượng muôn ngàn lần. Đang lúc chúng sanh bị khổ, cầu cứu, Bồ Tát chỉ
có niệm cứu khổ, tuyệt không có niệm so chấp về thân hình. Vả lại việc sanh sản
dĩ nhiên phải như thế, là lúc quan hệ đến mạng căn, không thuộc vào trường hợp
có thể tỏ bày sự nghiêm kính sạch sẽ, thế thì còn chấp chi sự nghiêm sạch cùng
không? Nếu ở trường hợp làm được mà không làm, thì thật là có tội. Trái lại,
trong cảnh ngộ không thể tỏ bày tướng cung kính, thì chỉ nên luận sự quy hướng,
chí thành nơi tâm, không nên chấp những lễ mạo nghi thức trên hình tích. Bồ Tát
không sự khổ nào chẳng cứu vớt, không tai nạn nào chẳng giúp đỡ xót thương, đâu
có lý đối với hàng sản phụ mà bỏ sót ư? Dù trong kinh không nói rõ về việc nầy,
ta cũng phải cứ theo lý suy hiểu tâm cứu khổ, để dứt sự khổ nạn lớn cho nhân
sanh, và làm thỏa mãn lòng từ bi của Bồ Tát. Huống chi trong Kinh Dược Sư, Phật
đã từng bảo người nữ nên niệm danh hiệu đức Dược Sư Như Lai trong khi sanh sản
ư? Kinh văn ấy nói: 'Hoặc có người nữ đang khi sanh sản chịu nhiều sự khổ, nếu
có thể chí tâm xưng danh lạy khen cung kính cúng dường đức Như Lai kia, (xưng
danh thì sản phụ có thể làm được, còn lạy khen cung kính cúng dường là thuộc về
việc người thân quyến làm thay thế) thì các sự khổ đều trừ. Đứa con sanh ra
thân phần đầy đủ, hình sắc đoan chính, lợi căn thông minh, an ổn ít bệnh, người
trông thấy đều vui mừng, sản phụ không bị loài phi nhân cướp đoạt tinh khí...'
Thế thì biết, khi sanh sản niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát chẳng những không tội,
mà mẹ con được an toàn, đã gieo trồng căn lành, lại có lợi ích lớn. Niệm Phật
Dược Sư đã như thế, thì niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cũng như vậy. Hàng sản phụ niệm
đã được lợi ích như trên, thì các người khác suy ra có thể biết.
- Tỉnh Hồ Nam, vợ chồng cư sĩ Mã Thuấn Khanh và năm người con đều là đệ tử quy
y của tôi. Năm Dân Quốc thứ 18, Mã có gởi thơ cho tôi thưa rằng: vợ y sanh năm
đứa con gái, khi sanh hai lần trước còn bình an, đến lần thứ ba thì bị huyết
băng; lần thứ tư, thứ năm lại càng nhiều hơn nữa. Nay người vợ lại sắp sanh,
thảng như có huyết băng, chắc là khó sống, cầu xin tôi chỉ bày phương pháp cứu
tế và vì đứa trẻ còn trong thai dự đặt pháp danh. Tôi liền bảo vợ chồng phải
chí thành niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, dù khi sanh sản lõa lồ không sạch cũng vẫn
cứ niệm, lại phải niệm ra tiếng không nên niệm thầm. Khi thơ tôi gởi đến, vợ
chồng xem rồi vâng lời, người vợ qua ngày sau thì sanh, khi sanh cũng vẫn niệm,
rốt cuộc mẹ con đều được mạnh khỏe bình yên. Sau khi vợ sanh, Mã liền hồi âm
cho tôi biết; sự kết quả tốt đẹp ngoài ý định, Bồ Tát thật là đấng đại từ đại
bi.
Lại, một đệ tử quy y của tôi, vài năm trước ở tỉnh Tứ Xuyên, nhân đến thăm
người bạn, nghe trong nhà có đàn bà rên khóc bi thương, liền hỏi duyên cớ.
Người bạn tỏ thật vợ y chuyển bụng muốn sanh đã hai ngày mà sanh không được, sợ
e khó sống. Đệ tử tôi bảo: 'Nên khuyên chị mau niệm thánh hiệu Quán Âm, còn anh
phải lập bàn trước nhà, đốt hương quì niệm cầu Bồ Tát cứu độ.' Người bạn nhất
nhất y theo lời. Kết quả, trong giây phút vợ y sanh được, khi sanh cũng không
tự biết, đến chừng nghe tiếng đứa trẻ khóc mới hay mình đã sanh. Sau khi ấy,
sản phụ thuật lại rằng: 'Lúc tôi muốn sanh, thấy có người dùng vải nịt chặt
dưới hạ thể nên sanh không được. Đến khi niệm thánh hiệu Quán Âm thì thấy miếng
vải sút ra, đứa bé lọt lòng hồi nào không tự biết.'
Thế thì biết, người nữ khi sanh sản niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thật có lợi ích vô
cùng. Vì đang lúc ấy, hoặc do trong mình đã đau yếu sẵn, hoặc do oan gia đời
trước theo ám hại, sản phụ ở vào hoàn cảnh thập tử nhất sanh; nếu không tha
thiết chí thành cầu Bồ Tát cứu độ, tất mẹ con khó được an toàn. „n Quang tôi,
từ mùa thu năm Dân Quốc thứ 15 trở đi, khi bộ Tăng Quảng Văn Sao đã in rồi, bất
luận văn tự gì, đều không giữ bản thảo để khỏi sự hao tốn về ấn phí. Gần đây,
nhân biết rõ cái tệ chấp nhất của phụ nhân trong khi sanh sản, nên tôi thường
đem việc lợi hại ấy nói với tất cả mọi người, mong cho kia đây truyền nhau, để
dự cứu sự khổ sở cùng tánh mạng của sản phụ và sanh nhi. Nếu có ai không lượng
xét, cho rằng tôi ưa nói việc đàn bà sanh sản, riêng tôi cũng không lấy chi làm
ngại, chỉ mong cho mọi người đều sanh lòng chánh tín, bỏ sự cố chấp, được khỏi
tai họa mà thôi.
Thơ đáp Cư Sĩ Trần Huệ Siêu
Được thơ, biết cư sĩ lòng mộ đạo
thâm thiết, tôi rất vui mừng! Nhưng vì duyên sự quá nhiều, thêm phải gấp giảo
định lại bộ An Sĩ Toàn Thơ, nên sự phúc đáp có phần chậm trễ.
Tâm tham, giận, mê người người đều có, song nếu biết đó là bịnh thì thế lực của
nó cũng không đến đỗi lẫy lừng. Ví như kẻ trộm vào nhà, nếu chủ nhân nhận lầm
là người nhà, tất nhiên tài vật đều bị nó lấy hết. Như gia chủ biết đó là kẻ
trộm, đuổi ngay liền tức khắc, thì trong nhà yên ổn, của cải mới được bảo toàn.
Cổ đức nói: 'Không sợ niệm khởi sớm, chỉ lo giác ngộ chậm.' Tham, giận, mê dù
có nổi lên, giác ngộ được, tâm ấy liền tiêu diệt. Trái lại, nếu an nhiên xem nó
như người trong nhà, thì có khác nào nhận giặc làm con, bảo sao tiền của không
bị hao mất?
Niệm Phật không thể khẩn thiết, vì chẳng biết cõi Ta Bà khổ lụy, miền Cực Lạc
an vui. Phải nghĩ rằng: 'Thân người khó được, trung quốc khó sanh, Pháp Phật
khó nghe, môn Tịnh Độ lại càng khó gặp. Hiện thời, nếu ta không chí tâm niệm
Phật, một khi vô thường đến, nhất định sẽ theo nghiệp ác nặng nề trong đời này
hoặc kiếp trước mà đọa vào ba đường dữ, chịu sự khổ lâu dài, biết chừng nào mới
được thoát ly?' Thường nghĩ như thế, sẽ tự tỉnh ngộ, tha thiết. Và phải tưởng
đến sự khổ nơi địa ngục mà phát tâm bồ đề. Bồ đề tâm là lòng lợi mình lợi
người. Khi phát tâm này, như đồ máy được gắn điện, có năng lực rất mạnh mẽ mau
lẹ, sự tiêu nghiệp chướng thêm phước huệ, những căn lành công đức bình thường
không thể sánh kịp.
Bị cảnh xoay chuyển là do công tu hãy còn cạn cợt, nên khi trong lòng có sự
giận mừng, nét xấu, đẹp liền hiện ra nơi mặt. Nếu chánh niệm nhiều, tự nhiên
tất cả phiền não đều giảm nhẹ. Cho nên, người chơn tu tuy ở cảnh trần lao, hằng
tinh chuyên rèn luyện, khiến cho nghiệp tập lần lần tiêu diệt. „y mới là công
phu thiết thật, và như thế tâm sẽ được tự chủ, thoát khỏi sự chi phối do hoàn
cảnh bên ngoài.
Người tại gia không theo chúng, sự tụng niệm đều tùy mình, hoặc ngồi, đứng,
quì, đi nhiễu quanh đều được, không nên chấp định một lối nào. Nếu chấp định,
người sẽ dễ nhọc, tâm khó tương ưng. Nếu châm chước theo sức khỏe, công phu của
mình, lựa điều thích hợp mà làm, mới có lợi ích. Cứ theo lệ thông thường, thì
trước nên đi nhiễu quanh, kế đó ngồi, rồi sau quì. Như đi nhiễu và quì thấy mỏi
nhọc, nên ngồi niệm, ngồi lâu sanh hôn trầm, thì đi nhiễu quanh bàn Phật hoặc
đứng niệm, đợi khi hôn trầm tan mới trở lại ngồi. Khi niệm nên coi theo đồng hồ
định thời, đừng lần chuỗi, vì lần chuỗi khó dưỡng tâm.
Thơ gửi Cư Sĩ Trần Tích Châu
Đức Như Lai ra đời nói pháp độ sanh,
vẫn muốn cho tất cả loài hữu tình đều thoát khỏi sự sống chết, chứng ngay đạo
Bồ Đề. Nhưng vì chúng sanh căn cơ sai khác, không thể hoàn toàn thỏa mãn tấm
lòng xuất thế của Phật, nên đấng Từ Nghiêm chỉ còn có cách tùy theo cơ nghi mà
lần lượt dẫn dụ. Với bậc đại căn, đức Thế Tôn vì nói Phật Thừa chỉ ngay bản
tánh, khiến cho một đời tròn chứng quả Phật, như Thiện Tài trong Kinh Hoa
Nghiêm, Long Nữ trong Kinh Pháp Hoa. Bậc thứ, thì Ngài vì nói Bồ Tát, Duyên
Giác hoặc Thanh Văn Thừa khiến cho lần lượt tu tập và chứng quả. Bậc thứ nữa,
Ngài lại vì nói ngũ giới, thập thiện, khiến cho không đọa vào đường ác, thọ
thân trời, người, lần lượt gieo hột giống lành, tùy theo thiện căn lớn nhỏ, về
sau trong pháp tam thừa do sức huân tập cũ mà phát ra hiện hạnh tu tập; hoặc có
kẻ y theo Bồ Tát Thừa tu sáu độ muôn hạnh, chứng được pháp thân, hoặc có kẻ y
theo Duyên Giác, Thanh Văn Thừa, ngộ mười hai nhân duyên và pháp Tứ Đế mà dứt
hoặc chứng chơn. Các pháp môn ấy tuy có lớn, nhỏ, mau, chậm không đồng, nhưng
đều phải dùng sức mình tu tập sâu dầy mới có thể thoát nẻo luân hồi, chứng vào
bản tánh. Nếu hai món hoặc kiến, tư còn chừng một mảy tơ thì gốc sanh tử vẫn
chưa trừ được. Dù cho sức định huệ có sâu, cũng y như cũ theo đường luân
chuyển. Như bậc A Na Hàm còn phải sanh về cõi trời Ngũ Bất Hoàn, trải qua nhiều
kiếp mới chứng quả A La Hán. Đến địa vị này thì gốc sanh tử mới dứt hẳn. Nhưng
đó cũng chỉ là quả nhỏ của hàng Thanh Văn, còn phải hướng về nẻo đại Bồ Đề, nương
theo bản nguyện thọ sanh trong mười phương thế giới, rộng tu sáu độ muôn hạnh,
để trên cầu đạo Phật, dưới độ chúng sanh. Từ đó tùy nơi công hạnh của mình sâu
cạn hoặc chậm mau, mà lần lượt chứng vào Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa, rồi Đẳng Giác. Đến vị này lại còn phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Tam Đức mới vào ngôi Diệu Giác mà thành Phật.
Trong một đời thời giáo của Như Lai, các pháp môn tuy không lường không ngằn,
song địa vị chứng nhập rốt lại không qua những ngôi thứ trên đây. Như bên tông
Thiền chỉ ngay bản tâm, thấy tánh thành Phật, rất là tròn tắt mau lẹ; nhưng đó
là ước theo pháp thân sẵn có, không trải qua nhân quả tu chứng mà luận, nếu y
theo địa vị tu chứng thì cũng không gì khác với bên Giáo. Giữa đời mạt pháp
này, bậc thiện tri thức rất ít, căn người lại hèn kém, tìm được kẻ tỏ ngộ còn
khó thay, huống chi là thật chứng? Đức Như Lai biết chúng sanh nếu chỉ nương
nơi sức mình rất khó được giải thoát, nên ngoài các pháp môn, lại mở riêng môn
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Như lòng tín nguyện được chơn thiết, dù cho kẻ phạm
tội ngũ nghịch thập ác khi sắp chết tướng địa ngục hiện, có bậc thiện tri thức
dạy bảo niệm Phật mười câu hoặc một đôi câu, cũng được nhờ sức từ của Phật tiếp
dẫn vãng sanh, huống nữa là người tu các pháp lành không làm ác ư? Nếu là bậc
tinh tu phạm hạnh, sức thiền định sâu thì phẩm sen càng cao, thấy Phật nghe
pháp mau lẹ, đến như người đại triệt đại ngộ, dứt hoặc chứng chơn cũng nên hồi
hướng vãng sanh, để cầu tròn chứng pháp thân, mau thành quả Phật. Các pháp môn
khác, nếu nhỏ thì hạng đại căn không cần tu, lớn thì hạng tiểu căn không thể
tu; chỉ có môn Tịnh Độ này trùm khắp ba căn, gồm thâu lợi độn, cao siêu như đức
Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, không thể vượt ra ngoài, thấp kém như kẻ
ngũ nghịch thập ác chủng tánh A Tỳ cũng được dự vào trong. Giả sử đức Như Lai
không mở môn này, thì chúng sanh đời mạt pháp chẳng còn hy vọng thoát đường
sanh tử. Nhưng pháp môn Tịnh Độ tuy rộng lớn như thế, mà cách tu lại rất dễ
dàng. Vì cớ ấy, chẳng những phàm phu khó tin mà hàng nhị thừa cũng đa nghi, cho
đến bậc quyền vị Bồ Tát hoặc còn lòng ngờ, trừ những người kiếp trước có gieo
căn lành Tịnh Độ và bậc Đại Thừa Bồ Tát quả vị đã cao mới sanh được lòng tin
sâu chắc. Như Thái Tử khi vừa sanh ra, tuy tài đức chưa lập, song nhờ thế lực
của vua cha, nên sang trọng hơn quần thần, người đủ tín nguyện niệm Phật dù là
phàm phu song chủng tánh đã hơn nhị thừa, vì biết đem tâm phàm gieo vào biển
giác, thầm hiệp với đạo mầu, nhờ sức Phật mau lên bậc Bất Thối.
Muốn nói môn Tịnh Độ, nếu không so sánh lược qua sự khó dễ về tự lực của các
môn khác cùng tha lực của pháp này, thì dù không nghi pháp cũng sanh ra nghi
ngờ chính mình. Và nếu lòng nghi còn một mảy tơ, tất sẽ nhân nghi thành chướng,
đừng nói không tu, có tu cũng chẳng được hoàn toàn thật ích. Vì thế tin là điều
nên tìm cầu trước nhất. Phải tin nhận chắc cõi Ta Bà thật là khổ, cõi Cực Lạc
thật vui. Sự khổ ở Ta Bà không lường không ngằn, ước lại có tám điều: sanh,
già, bệnh, chết, thương xa lìa, oán gặp gỡ, cầu không toại ý, năm ấm lẫy lừng.
Tám món này, dù sang như vua chúa, hèn như kẻ ăn xin cũng không tránh khỏi. Bảy
thứ trước là quả cảm của đời quá khứ, một món sau là nhân khổ của đời vị lai,
nhân quả dây dưa nối nhau không dứt, hết kiếp này đến kiếp khác chẳng được thoát
ly. Ngũ ấm là năm món che, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức che lấp chơn tánh như
mây đen án mặt trời không cho ánh sáng hiển lộ, và đối với sáu trần khởi hoặc
gây nghiệp như ngọn lửa bốc cháy nên gọi là lẫy lừng. Món thứ tám này là cội
gốc của tất cả sự khổ. Người tu hành khi sức thiền định đã sâu, không chấp sáu
trần, không khởi lòng ưa ghét, từ nơi điểm ấy gia công thì hoặc nghiệp sẽ lần
trừ sạch, dứt hẳn nguồn sanh tử. Nhưng công phu ấy rất không dễ, trong đời mạt
pháp thật khó có người làm được, nên cần phải chuyên tu tịnh nghiệp cầu sanh
Cực Lạc, nhờ sức từ của Phật tiếp dẫn về Tây Phương. Đã đến cõi ấy, hóa sanh
nơi hoa sen, thì không còn sự khổ về sanh; thuần tướng đồng nam, sống lâu như
hư không, thân không suy biến, thì già, bệnh, chết chẳng còn nghe tên huống là
có thật? Từ đó bạn cùng thánh chúng, gần với Di Đà, chim nước rừng cây diễn nói
pháp mầu, tùy nơi căn tánh nghe rồi tu chứng, chừng ấy người thân còn không có,
lựa là oan gia? - cõi Cực Lạc, tưởng ăn được ăn, tưởng mặc được mặc, cung điện
lâu đài đều là châu báu tự nhiên hóa hiện, bảy điều khổ ở cõi trược đã đổi
thành bảy điều vui, đến như thân thì có thần thông oai lực lớn, không rời chỗ
ở, trong một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới làm những việc cầu Phật
độ sanh; tâm thì có trí huệ biện tài cao, nơi một pháp biết hết thật tướng các
pháp, tuy nói việc thế gian đều hợp với lý mầu. Thế là nỗi khổ năm ấm cũng
không còn, chỉ hưởng sự yên vui tịch tịnh. Cho nên trong kinh nói: 'Thế giới ấy
tên là Cực Lạc, vì chúng sanh ở cõi đó không có các sự khổ, chỉ hư*ng những
điều vui.' Tóm lại, nỗi khổ * Ta Bà tả chẳng xiết, sự vui * Cực Lạc nói không
cùng, nếu cư sĩ dứt hẳn mối nghi ngờ, tin chắc lời của Phật, mới gọi là tin
sâu. Nên để ý: đừng đem trí hiểu biết của phàm phu suy độ, nhận lầm rằng: 'Bao
nhiêu sự mầu lạ không thể nghĩ bàn * Tây Phương đều thuộc về ngụ ngôn để thí dụ
cho tâm pháp, chớ không phải cảnh thật.' Nếu có sự hiểu biết lầm lạc ấy, tất sẽ
mất điều lợi ích vãng sanh Tịnh Độ, mối hại này rất lớn, phải nên cẩn thận.
Đã biết Ta Bà là khổ, Cực Lạc là vui, nên phát lòng thệ nguyện thiết thật,
nguyện lìa Ta Bà về Cực Lạc. Lòng nguyện ấy ví như người bị sa xuống hầm nhơ
cầu mau ra khỏi, lại như kẻ * lao ngục mong nhớ cố hương. Sự mong cầu cần phải
khẩn thiết, vì sức mình không thể tự thoát khỏi, phải nhờ bậc có thế lực lớn
dìu dắt. Chúng sanh * cõi Ta Bà, đối với cảnh thuận nghịch khởi lòng tham,
giận, mê, gây nghiệp giết, trộm, dâm, làm ô uế bản tâm trong sạch, ấy là hầm
nhơ sâu thẳm. Đã gây nghiệp ác, tất chịu quả khổ, trải nhiều kiếp luân hồi
trong sáu nẻo đó là lao ngục lâu dài. Về kiếp trước, đức A Di Đà phát bốn mươi
tám lời nguyện độ sanh, trong ấy có một nguyện: 'Nếu chúng sanh nào nghe danh
hiệu ta, chí tâm xưng niệm cho đến mười lần, cầu sanh về Cực Lạc, như không
được vãng sanh, ta thề không thành Phật.' Đức từ phụ tuy thệ nguyện độ sanh như
thế, nhưng nếu chúng sanh không cần tiếp dẫn, Phật cũng chẳng biết làm sao? Như
có người hết lòng xưng danh, cầu lìa cõi Ta Bà, đều được Phật xót thương tiếp
dẫn. Đức A Di Đà oai lực rất lớn, có thể cứu vớt loài hữu tình ra khỏi hầm nhơ
lao ngục * cõi trược, đem về Cực Lạc, khiến cho vào cảnh giới Phật, đồng sự thọ
dụng của Như Lai. Muốn sanh Tây Phương, trước phải tin sâu nguyện thiết. Thiếu
hai điều này, dù có tu hành, cũng không thể cảm ứng với Phật, chỉ được phước
báo cõi trời, người và gieo nhân giải thoát về sau mà thôi. Nếu tín nguyện đầy
đủ thì muôn người vãng sanh không sót một. Ngài Vĩnh Minh đã bảo: 'Muôn tu,
muôn người về' là chỉ cho người có tín nguyện đầy đủ vậy. Đã tin sâu, nguyện
thiết lại phải tu hạnh niệm Phật, dùng tín nguyện làm tiên đạo, niệm Phật làm
chánh hạnh. Ba món này chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật, nếu thiếu một,
quyết không thể vãng sanh.
Về hạnh niệm Phật, đều tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà lập, không thể chấp
định một lề lối. Như thân được nhàn nhã, nên từ mai đến chiều, chiều lại mai,
đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, dùng cơm, cho đến lúc đại
tiểu tiện, tất cả thời, tất cả chỗ, làm sao cho câu niệm Phật chẳng rời lòng.
Như khi tắm gội sạch sẽ, y phục chỉnh tề và chỗ nơi thanh khiết thì niệm thầm
hay ra tiếng đều được. Nếu lúc ngủ nghỉ, mình trần, đi đại tiểu tiện, và chỗ
nơi không sạch, chỉ nên niệm thầm; chớ nói những khi không nghiêm sạch như thế
chẳng nên niệm, chỉ e lúc ấy niệm không được đó thôi. Tuy rằng niệm Phật là
công việc suốt đời đừng cho xen h*, nhưng mỗi buổi sớm mai phải lễ Phật, trước
tụng Kinh A Di Đà qua một lần, chú vãng sanh ba lần, rồi đọc bài kệ 'A Di Đà
Phật thân sắc vàng...' Đọc kệ xong, niệm 'Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới,
Đại Từ Đại Bi, A Di Đà Phật.' Kế tiếp niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật' hoặc năm trăm
câu, một ngàn câu, càng nhiều càng tốt. Khi niệm nên đi nhiễu quanh bàn Phật,
nếu chỗ đi nhiễu không tiện, thì quì, hoặc ngồi, hoặc đứng niệm đều được. Niệm
sắp xong lại quì trước bàn Phật niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng,
mỗi thánh hiệu 3 lần, rồi đọc bài văn Tịnh Độ, phát nguyện hồi hướng vãng sanh.
Đọc văn Tịnh Độ là y theo nghĩa trong văn mà phát tâm, nếu chẳng thế thì thành
đọc suông, không được thật ích. Sau bài phát nguyện, niệm Tam Quy Y, lễ Phật
lui ra. Đây là thời khóa buổi mai, chiều cũng như thế. Nếu muốn lạy Phật nhiều,
hoặc sau khi niệm Phật, tùy ý đảnh lễ, kế tiếp chín lần xưng danh Bồ Tát, lễ
chín lạy rồi phát nguyện hồi hướng; hoặc lúc công khóa xong, muốn lạy bao nhiêu
cũng được. Lễ Phật phải chí thành khẩn thiết, chẳng nên lếu láo thô sơ; bồ đoàn
không được quá cao, cao thì mất sự cung kính.
Như công việc đa đoan không rỗi rảnh, nên định vào buổi sáng sớm sau khi súc
miệng rửa mặt, có bàn Phật thì đến trước lễ ba lạy, rồi đứng thẳng chắp tay
niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật' hết một hơi là một niệm. Niệm đủ mười hơi, tiếp đọc
bài kệ 'Nguyện cùng người niệm Phật. Đều sanh về Cực Lạc. Thấy Phật thoát sanh
tử. Như Phật độ tất cả.' Đọc kệ xong, lễ Phật ba lạy lui ra. Nếu không bàn Phật
thì chắp tay hướng về phương Tây cũng như cách thức trên mà niệm. Đây là phép
Thập Niệm của ngài Từ Vân Sám Chủ lập ra cho hàng vua quan, việc chánh rối
nhiều không đủ thời giờ tu tập. Tại sao phải niệm luôn hết một hơi? Vì tâm
chúng sanh tán loạn lại không rảnh để chuyên niệm, niệm như thế là mượn hơi
nhiếp tâm khiến cho quy nhứt. Nhưng phải tùy hơi dài ngắn không nên ép, ép thì
hao hơi; lại chỉ giữ đủ mười niệm không nên hai hoặc ba mươi, nhiều cũng lao hơi.
B*i vì tán tâm niệm Phật khó được vãng sanh, phép này làm cho tâm chuyên nhất,
tuy số niệm có ít nhưng công đức rất sâu, quyết định sẽ sanh về Cực Lạc. Lúc
rảnh và gấp đã có cách thức, thì khi bình thường không rảnh gấp, nên châm chước
mà lập phép tắc tu trì.
Lại người niệm Phật, mỗi việc phải gìn lòng trung thứ, mỗi niệm đề phòng sự lỗi
lầm, biết lỗi mau cải, thấy việc nghĩa vui làm, mới hợp với Phật. Nếu chẳng
thế, tất nơi lòng còn có sự chướng ngại, không hợp với tâm Phật, quyết khó cảm
thông. Và, khi lễ bái, tụng Kinh Đại Thừa cùng làm tất cả việc hữu ích trong
đời, đều phải hồi hướng về Tây Phương, không nên chỉ đem hạnh niệm Phật hồi
hướng vãng sanh, còn bao nhiêu công đức kia để hồi hướng về phước báo thế gian.
Nếu như thế là tâm không quy nhứt rất khó vãng sanh. Phải biết người chân thật
niệm Phật, tuy không cầu phước báo thế gian, song cũng được sống lâu, mạnh
khỏe, cửa nhà yên vui, con cháu phát đạt, tóm lại bao nhiêu phước báo * đời đều
được đầy đủ. Nếu riêng cầu phước không chịu hồi hướng vãng sanh, thì trái lại
phước báo rất kém ít, có hại đến sự vãng sanh. Pháp môn Niệm Phật các Kinh Đại
Thừa đều khen ngợi, Kinh Tiểu Thừa tuyệt không nói đến, người chưa thông giáo
lý bác niệm Phật là Tiểu Thừa, ấy là nói càn, chớ nên nghe theo. Đến như sự cầu
cơ mà cư sĩ nói, phần nhiều thuộc về loài linh quỉ dựa theo trí thức của người
cầm cơ để viết ra. Trong ấy nếu bàn về việc thế gian thì có phần đúng, còn về
Phật Pháp, vì không phải chỗ họ hiểu biết, nên lầm đặt ra diêu ngôn như sau
quyển Kim Cang Trực Giải có phụ thêm những hiệu Tiên Thiên, Cổ Phật v.v... „y
là lời ma rất ác, làm mất trí huệ, hại chánh kiến của người, nếu đem ra truyền
bá, đã không phước còn mang tội lớn nữa.
Thơ đáp Cư Sĩ Úc Trí Lãng
Về việc của Phước Tuấn, nếu khi còn
sống cho đến lúc chết, quả có những sự thật y theo lời ngươi nói, thì quyết
định được vãng sanh. Thuở bình thời, Phước Tuấn đã nhận rõ sắc thân là huyễn,
điều ấy rất có lợi ích. Bởi người nữ thường hay yêu mến thân giả dối, ưa đua
đòi theo sự điểm trang, nay đã không có niệm ấy, tự nhiên đối với môn Tịnh Độ
dễ được tương ưng. Khi lâm chung gầy yếu và bệnh khổ, đó là nghiệp chướng trong
nhiều kiếp, do công siêng tu tịnh nghiệp nên phát hiện để chuyển hậu báo làm
hiện báo, đổi quả nặng thành nhẹ thế thôi. Ngươi bảo: bởi tu trì tinh tiến nên
thân thể ngày một yếu gầy, lời ấy không đúng, lại thêm có lỗi khiến cho những
người lòng tin cạn cợt nhân đó biếng trễ sự tu hành. Phải biết người niệm Phật
quyết định có thể tiêu trừ nghiệp chướng, nếu nghiệp hiện, đó là đổi ác báo sẽ
đọa tam đồ thành cơn bệnh khổ hiện tại để trả cho xong. Kinh Kim Cang nói:
Người thọ trì kinh nầy do bị khinh rẻ nên dứt được sự khổ nhiều kiếp trong tam
đồ. Thế thì nhân Phước Tuấn sắp sanh Tây Phương nên hiện ra sự khổ nhỏ ấy để
tiêu trừ ác báo từ vô lượng kiếp đến nay, thật là điều hân hạnh rất lớn. Ngươi
chớ nên học theo những người kém hiểu biết, cho rằng: Nhân tu trì mà thành bệnh
rồi chết. Người niệm Phật thuở bình thường có tín nguyện chơn thiết, không một
ai chẳng được vãng sanh. Phước Tuấn lúc lâm chung chánh niệm rõ ràng, có những
tướng trạng hỏi han, đảnh lễ, sau khi chết thân thể mềm dịu, sạch sẽ, nhan sắc
như sống, thì đâu nên nhìn vào công tu cạn cợt mà nghi ngờ? Theo lời nguyện của
đức A Di Đà, chí tâm trong mười niệm cũng được độ, huống chi Phước Tuấn tinh
tiến tu trì đã ba năm, lại còn nghi ngại gì? Duy những người ý chí thấp kém,
tuy thường niệm Phật song chẳng cầu vãng sanh, chỉ mong phước báo nhân thiên;
hạng ấy dù trót đời tu hành cũng chỉ hưởng được si phước nơi kiếp sau mà thôi.
Nếu kẻ có chánh tín, tự biết dùng lòng tín nguyện cảm Phật, quyết được sức từ
bi nhiếp thọ, đạo cảm ứng thông nhau, sẽ nương Phật lực đới nghiệp sanh về Cực
Lạc. Thế thì cần chi hỏi thấy Phật cùng không, mới có thể phán đoán?
Người niệm Phật trước khi lâm chung, như có thể tự tắm gội thay y phục thì rất
tốt. Nếu không tự làm được thì thôi, người ngoài quyết chẳng nên thay thế dự bị
tắm gội đổi y phục, vì có thể khiến cho kẻ sắp chết khó nhẫn sự đau đớn đến mất
chánh niệm. Ngươi chớ vì việc Phước Tuấn chưa kịp mặc pháp y và ngồi kiết già
mà tiếc buồn. Phải biết lúc ấy chỉ nên đồng thanh niệm Phật để giúp sức, quyết
không được bày vẽ việc gì khác. Nếu một mặt ưa phô bày, tất thành ra cảnh té
giếng bị đá rơi theo, rất có hại cho sự vãng sanh. Điều này phải ghi nhớ kỹ.
Lệnh từ tuổi cũng đã cao, nếu ta chẳng nói rõ sự lầm lạc trên đây, e lần sau
ngươi dùng lòng hiếu thảo trở lại làm ngại sự vãng sanh của mẹ, khiến cho người
nhiều kiếp bị luân hồi không được giải thoát. Vậy chỉ nên trọng sự thật, chớ
khoe hình thức bên ngoài. Lời ký lục của ngươi, văn nghĩa xem cũng gọn, không
cần phải nhờ người viết thành bài để truyền bá, vì đó cũng thuộc về việc phù
phiếm của thế gian. Ngươi chỉ nên sách tấn mình và quyến thuộc cố gắng niệm
Phật, để được đồng sanh Tây Phương là tốt. Sớm chiều trong hai thời khóa, ta
cũng đọc danh hiệu của Phước Tuấn hồi hướng trong một thất, để cho trọn nghĩa
thầy trò. Phước Tuấn vãng sanh phen này, có thể gọi là chẳng sống suông chết
uổng, rất hân hạnh! Đến như việc y theo lời di chúc, lấy xương tán mạt làm hoàn
để thí cho loài thủy tộc, cũng là điều tốt, nhưng lưu ý cẩn thận hơn. Phải đem
xương nghiền thành phấn; dùng rây lụa nhỏ rây lọc, làm như bột nhuyễn mới được.
Nếu thô tháo nghiền sơ qua, rồi hòa với bột làm hoàn, e cho loài cá nhỏ ăn vào
phải bị nghẹn vướng. Ta sợ ngươi làm không kỹ, nên ta phải dặn trước.
Thơ đáp một Cư Sĩ ở Vĩnh Gia
- 1 -
Vân Thê Đại Sư lập pháp dạy người đều từ nơi chỗ bình thật đi vào. Nếu y theo
đó tu trì, sẽ được ngàn muôn yên ổn, quyết không đến nỗi được ít cho là đủ và
bị ma dựa phát cuồng. Vương Canh Tâm chưa hiểu rõ yếu chỉ nhập đạo, đã vội tự
hào múa bút lớn lời mạt sát tất cả, tuy có tâm hoằng pháp, nhưng thật ra là gây
tội phá hoại pháp môn. „y cũng b*i y không gần bậc tri thức và tự xét hai chứng
bệnh: tim đập, ác mộng của mình. Những bệnh ấy đều là triệu chứng của nghiệp ác
đời trước. Nhưng, hiện cảnh tuy có tốt xấu, chuyển biến chỉ tại nơi ta. Cảnh
xấu hiện mà chuyên tâm niệm Phật thì nhân dữ sẽ hóa ra lành, nghiệp ác đời
trước tr* thành vị đạo sư trong hiện tại. Tiếc vì người đời phần nhiều bị
nghiệp ràng buộc, không thể cải tạo, nên thành ra cảnh té giếng bị đá rơi theo,
trên khổ lại càng thêm khổ!
Tha tâm thông có nhiều thứ không đồng, nay xin nói ước về tâm thông của những
bậc đắc đạo. Như Trù Am Đại Sư, bất luận ai hỏi kinh sách gì, Ngài đều có thể
đọc thuộc rành rẽ, không sai một chữ. Tại sao thế? Vì Đại Sư nghiệp hết tình
không, lòng như gương sáng; lúc có người hỏi đến những kinh sách họ đã từng
xem, Ngài liền nhìn vào những câu chữ in trong thức thứ tám của người ấy, đọc
lại rành mạch. Cho nên cổ đức nói: 'Kinh pháp một phen nhiễm vào thức thần,
hằng làm giống đạo.' Việc trên đây có thể làm bằng cớ để cho ta tin. Vì khi
người xem kinh sách, bóng dáng của những thứ ấy in vào tâm thức không mất. Bởi
vô minh che lấp, nên lâu ngày họ quên, những bậc có tha tâm thông nhìn nơi tâm
thức của người ấy, tùy theo lời hỏi đọc lại rõ ràng. Đến như có người hỏi những
kinh sách họ chưa được thấy, bậc tha tâm thông có thể nhìn vào tâm thức của
những người khác đã xem rồi, vì họ đọc lại. Trên đây, là việc lấy tâm người
khác làm tác dụng cho tâm mình, không phải nơi lòng các vị ấy thường có bao
nhiêu thứ kinh sách đã ghi nhớ lâu ngày không quên. Bởi không hiểu lẽ này,
nhiều người cho đó là phép chi kỳ lạ, thật ra chỉ là cảnh trạng nghiệp tiêu trí
sáng, cõi lòng không không mà thôi.
Trong sự phò cơ có rất nhiều linh quỉ giả mạo tiên, Phật, thánh, thần. Loài quỉ
thấp kém hoặc khi không có tha tâm thông; hạng cao thì biết được lòng người,
nên có thể mượn sự thông minh trí thức của người mà làm thi phú. Ông Kỹ Văn Đạt
có thuật rằng: 'Cơ bút phần nhiều là việc dối mượn của hạng ma quỉ linh thiêng.
Một độ nọ, tôi cùng người anh là Đản Nhiên có thí nghiệm về việc này. Tôi vốn
có thiên tư về thi văn mà chữ viết dở, anh tôi thì chữ tốt, song không có khiếu
văn chương. Khi tôi phò bút thì thi từ thông suốt, nét chữ lếu láo. Trái lại,
đến phiên anh tôi thì nét chữ cứng đẹp, thi từ tầm thường. Lại một việc, lúc
hỏi đến chỗ bí yếu trong những bài giảng bút mạo lấy của người xưa, cơ lên nói:
năm tháng lâu quá không còn ghi nhớ. Vì những lẽ ấy, tôi biết là giả dối.' Thế
là loài quỉ tuy linh, song chỉ có thể mượn được sự hiểu biết hiện tại của
người. Đến như các việc trong tâm thức có, nơi sự biết hiện tại vì lâu nên
quên, hoặc những chữ nghĩa chính mình không hiểu, thì quỉ không thể chỉ dẫn ra
được. Cho nên tha tâm thông của linh quỉ sánh với bậc đắc đạo, thật kém xa như
trời vực. Tuy nhiên, vì hai việc ấy có chỗ giống nhau, e rằng cư sĩ bị cơ bút
mê hoặc, tôi mới dẫn giải ra đây. Lại xin nói thêm một việc trong Tống Cao Tăng
Truyện: Ngài Tăng Giám qua nhà Vương Xử Hậu thọ trai, thấy chủ nhân đang cao
giọng ngâm nga xem ra dáng đắc ý, nhân hỏi là đọc văn gì? Xử Hậu đáp: 'Đây là
quyển vở trúng Tiến Sĩ của tôi.' Giám mỉm cười mà rằng: 'Dưới thềm gió mát, lại
có sự thung dung như thế ư?' Nói đoạn, lấy trong túi ra một tập, bảo: 'Quyển
ông đang đọc ấy có phải là đây chăng?' Xử Hậu xem ra thì chính là văn từ mình
đã làm trong ngày thi, liền nói: 'Đây là bút tích của tôi chép ra sau này.'
Tăng Giám bảo: 'Cố nhiên không phải là nguyên tác của ông, điều đó tôi vẫn
biết.' Xử Hậu nói tiếp: 'Nhưng sao trong túi kia lại có bài văn ấy?' Sư đáp:
'Không phải chỉ riêng bài này, từ khi ông đọc sách đến giờ, cho đến những lúc
đùa cợt, một nét bút nét vẽ, nơi túi của tôi đều có đủ.' Xử Hậu kinh sợ, không
dám hỏi nữa. Ngài Trù Am chỉ có tha tâm thông, chưa thấy có thần thông. Tăng
Giám Đại Sư đã có tha tâm thông lại kiêm cả thần thông, có thể đem bóng dáng
kinh sách trong tàng thức, hiện thành hình chất đưa cho người xem, kỳ thật
trong túi của Ngài không chứa sẵn thứ ấy.
Gần đây, * Thượng Hải đàn cơ bút mở ra rất nhiều. Sự chỉ dạy bỏ dữ làm lành và
những thuyết luân hồi nhân quả thiển cận của các đàn ấy, đều rất có ích cho thế
đạo, lòng người. Nhưng mấy điểm nói về cơ trời, Phật Pháp, thì không khỏi mơ
hồ, lầm lẫn. Chúng ta là đệ tử Phật, không nên bài bác việc đó, vì có tr* ngại
cho sự làm lành của người, song cũng chẳng nên phụ họa khen ngợi, vì sẽ mang
lỗi đem điều ức đoán viễn vông khiến cho Phật Pháp hư loạn, chúng sanh nghi
lầm. „n Quang này tự xét mình nhiều nghiệp chướng nhưng quyết không dám theo
tình bỏ lý, gây sự lầm lỗi cho người. Những lời trên đây xin châm chước tình lý
mà làm theo mới khỏi điều tệ hại.
Mười món lợi ích của sự niệm Phật, xin xem chương 'Thập Chúng Thắng Lợi' *
những trang sau cuối bộ Tịnh Độ Chỉ Qui. 'Hồi hướng' là tâm suy nghĩ, miệng
phát ra lời tín nguyện, đem công đức mình xoay về nơi nào.
Việc ấy nên để vào khoảng sau lúc công khóa tối và buổi trưa, khi tụng kinh
niệm Phật xong. Niệm Phật phải từ mai đến chiều không nên h* dứt; nếu trong tâm
hằng có niệm cầu sanh, cũng là thường thường hồi hướng. Các Kinh Đại Thừa đều
khiến cho chúng sanh mau thành Phật, chỉ tiếc phần đông khi đọc kinh thiếu lòng
chí thành, nên không được hoàn toàn lợi ích. Chương 'Đại Thế Chí Bồ Tát' *
quyển năm Kinh Lăng Nghiêm, chính là lời chỉ dạy tối thượng về tông Tịnh Độ.
Câu 'Người quân tử học vì mình' là ý nói bậc quân tử mỗi niệm đều tự xét mình,
xem có trái đạo cùng chăng? Cảnh giới 'thức ngủ như một', chỉ có dụng công phu
đáo để mới được. Nhưng nếu khi thức hằng nhiếp tâm niệm Phật, lâu ngày tự nhiên
dù trong mộng cũng ít kh*i vọng niệm.
- 2 -
Từ độ cuối đông đến hạ tuần tháng ba năm nay, tôi có tiếp được bốn phong thơ,
thức ăn, vải, và bài vấn đáp của anh em cư sĩ cùng Từ Quân, do Sư Thần đem đến.
Như thế, đủ thấy cư sĩ tha thiết vì đạo, mến trọng tôi đã quá nhiều! Trước
tiên, tôi có ý mong Từ Quân đến, kế lại vì kiểm duyệt bộ Văn Sao để cho người
in ra, mắt hơi suy kém, nên mới chậm lời phúc đáp. Bức thơ kỳ tháng chạp rồi,
thật là đúng với nghĩa 'bạn bè dùng nhân giúp nhau', chỉ có điều suy tặng „n
Quang quá nhiều, khiến cho người càng thêm hổ thẹn!
Nhân đạo có năm giềng lớn: vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ và bạn bè. Nhưng
tại sao trong năm luân ấy lại không nói đến thầy? Vì thầy là bậc thành tựu phần
đức dục cho ta, cũng như cha, dắt dìu khuyên bảo để ta nên người, cũng như anh,
nên ngài Mạnh Tử nói: 'Thầy là cha anh.' Lại nữa, thầy thường nhắc nh* giúp ích
ta nhiều việc cũng như bạn, nên nhà Phật thường gọi: 'Tìm thầy hỏi bạn.' Ấn
Quang này tự xét mình kém phần thật đức, không có ý muốn làm thầy người, chỉ
mong ở địa vị bè bạn để giúp đỡ khuyên nhắc lẫn nhau mà thôi. Nhưng nhiều vị
chẳng suy lượng giùm, nên tôi đã thiếu sự răn trách, lại còn không được nhắc
bảo đến nữa! Cư sĩ mong tôi thân chứng Tam Muội, lại e có trái với chỗ hy vọng,
nên không nài khó nhọc, viết thơ khuyên lơn. Từ khi tôi buộc tóc thọ học đến
giờ, chưa gặp được người ích hữu như thế. Cử chỉ ấy làm cho Ấn Quang này vừa
cảm động vừa tự thẹn! Mấy chữ tội chết là lời bầy tôi can vua, cư sĩ đem dùng
với thầy bạn rất không phải cách. Ấn Quang túc nghiệp sâu nặng, khi sanh ra vừa
được nửa năm, bị đau mắt luôn cả sáu tháng. Sự thống khổ trong lúc ấy thật vô
cùng, trừ khi ăn và ngủ ra, không một khắc nào ngớt tiếng kêu gào khóc lóc.
Nhưng may nhờ căn lành đời trước, nên còn được thấy ánh sáng mặt trời. Đến tuổi
thành đồng được học tập lại do nghiệp cũ dẫn dắt, uống lầm thuốc độc bài báng
Phật Pháp của bọn Hàn Dũ, Âu Dương Tu. Kế đó định tâm xét nghĩ biết mình lỗi
lầm, liền sanh lòng hổ thẹn, quy y Tam Bảo xuất gia làm tăng. Nếu lúc bấy giờ
không nhờ sức Tam Bảo thầm gia bị, khiến cho sự biết tự tỉnh, thì tôi đã sa vào
ngục A Tỳ chịu vô lượng sự khổ, đâu còn được cùng các vị chỉ đông nói tây, luận
về tự lực, tha lực như ngày hôm nay ư?
Kỳ thất hoàn mãn, Tam Muội chưa thành, do tôi tinh thần suy kém mà cũng b*i túc
nghiệp sâu dầy. Nhưng Phật đã không bỏ người chướng nặng, xin cũng nhờ chút
công hạnh ấy để được vãng sanh. Phép Thập Niệm Ký Số không phải là Sổ Tức (đếm
hơi th*), chỉ có điểm ghi nhớ từ một đến mười có hơi giống với lối Sổ Tức mà
thôi. Trong Liên Tông Bảo Giám, lại lầm để là đếm đến trăm, ngàn, muôn. Vì e cư
sĩ không biết mà thọ hại, nên tôi mới dẫn ra để chứng rõ, vậy không nên gọi đó
là phép Sổ Tức Trì Danh. Muốn chứng Tam Muội, đã có lời chỉ dạy xác đáng của
Phật, Tổ, sao lại đòi hỏi đến chỗ chứng của tôi mới chịu làm theo? Kinh A Di Đà
nói: 'Giữ lấy danh hiệu, hoặc một ngày cho đến bảy ngày, một lòng không loạn.'
(Đây là lời tỉ lệ không nên chấp định. Nếu căn tánh Đẳng Giác, một niệm liền
được không loạn, đợi gì một ngày? Như căn tánh nghịch ác, dù trọn đời cũng khó
được nhất tâm, huống chi bảy ngày?) Quán Kinh nói: 'Pháp thân chư Phật Như Lai
vào tâm tư*ng của tất cả chúng sanh. Cho nên khi tâm các người tưởng Phật, tâm
ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình, tâm ấy tưởng Phật, tâm
ấy là Phật.' Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát nói: 'Nhiếp cả sáu căn, tịnh
niệm nối nhau, được Tam Ma Địa, đây là bậc nhất.' Trong bài kệ lựa căn viên
thông, ngài Văn Thù bảo: 'Nghe vào, nghe tánh mình. Tánh thành đạo Vô Thượng.'
Kinh Tứ Thập Nhị Chương dạy: 'Tu tâm là thế nào? Giữ nó lại một chỗ, thì không
việc gì chẳng xong.' Ngài Mộng Đông bảo: 'Thật vì sanh tử, phát lòng Bồ Đề, lấy
tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật.' Mười sáu chữ này là cương yếu của tông
Tịnh Độ. Muốn tu Tam Muội sao không lấy thánh ngôn làm lượng, triệt để tuân
theo những lời trên đây, lại dùng tôi là kẻ phàm phu nghiệp chướng mà làm mực
thước, há chẳng trái ngược lắm ư?
Nhưng, lời ấy phát ra chẳng phải không duyên cớ. Chắc có lẽ vì thấy trong quyển
Di Đà Trung Luận thuật rõ cảnh giới của Tĩnh Nhất Đại Sư, và Vương Canh Tâm tự
bảo là đắc tâm truyền với Ngài, nên cư sĩ cho rằng tôi cũng có nhiều cảnh lạ không
thể nghĩ bàn, và bí quyết truyền thọ đó chăng? Cư sĩ nên xét: Tam Muội dịch là
chánh định hay chánh thọ, ấy là thể vọng tan chơn hiện, lặng lẽ sáng suốt,
trong ấy đâu có cảnh giới gì? Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: 'Tròn chứng quả bồ
đề là không chứng đắc chi cả.' Người tu thiền vì chỉ cậy sức mình, không cần
Phật gia bị, nên trong khi công phu đắc lực, chân vọng công kích lẫn nhau,
thường có nhiều cảnh giới thoạt ẩn thoạt hiện. Ví như lúc mưa to sắp tạnh, mây
mù tản mát, trời đang u ám bỗng lộ ánh sáng, phút chốc lại thay đổi không
lường. Những cảnh giới ấy, nếu chẳng phải người có đủ đạo nhãn, tất khó nỗi
phân biệt. Nếu lầm nhận cho là thật, sẽ bị ma dựa phát cuồng, không thể cứu
chữa. Khác hơn thế, người niệm Phật dùng lòng tín nguyện, tha thiết trì hồng
danh muôn đức, thì như mặt trời chói sáng giữa hư không, như đi con đường thẳng
rộng, không những quỉ mị tuyệt tích mà vọng niệm cũng lặng tiêu. Suy cho cùng,
chẳng qua niệm đến công lực tinh thuần, thì toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm,
tâm Phật như một mà thôi. Lý và hạnh nầy tôi còn e mọi người không hiểu, vẫn
muốn tuyên dương để nêu cao bản nguyện độ khắp chúng sanh của Phật, đâu dám
giấu kín để truyền riêng cho cư sĩ hay sao? Nếu có bí quyết truyền thọ riêng
nơi chỗ ẩn khuất tức là tà ma ngoại đạo, không phải Phật Pháp. Nhưng „n Quang
thật cũng có chỗ diệu quyết chỉ riêng mình được, nay nhân cư sĩ thỉnh cầu,
không ngại gì đem ra bày tỏ với các hàng Phật tử trong thiên hạ. Diệu quyết ấy
là gì? Là chí thành, là cung kính. Điều này cả thế gian đều biết, đạo lý này cả
thế gian đều muội! „n Quang do muốn tiêu trừ tội nghiệp sâu nặng và báo đáp ân
Phật, hằng để ý tìm cầu gương sáng tu trì của cổ đức, nên được biết rằng chí
thành cung kính là bí quyết rất mầu để vượt phàm lên thánh, thoát nẻo luân hồi.
Mấy điểm này, đối với những người hữu duyên tôi đã thường thường khuyên nhắc.
Nên biết thành kính không phải chỉ để riêng cho người học Phật, mà tất cả mọi
việc nếu muốn được tinh nhất, phải lấy đây làm nền tảng.
Từ Quân có trồng linh căn từ kiếp trước, thân quyến thờ Phật mấy đời, khi nhỏ
đã được đầy đủ về gia huấn, lớn lên lại trải đôi ba mươi năm học hỏi lịch
duyệt, vì sao lại bỏ nơi huyền diệu, dùng chỗ tầm thường, mến chuộng văn tôi mà
cho in ra như thế? Nên biết, sự hoằng pháp lợi sanh quí * nơi biết thời cơ.
Cách điều trị đáng dùng cho căn bệnh người đời nay, bậc thông hiểu Phật giáo
không chịu chỉ rõ, duy nói những phương pháp cao huyền, phần nhiều là những thứ
thuốc không hợp với bệnh. Đôi khi do thứ thuốc quí ấy, bệnh lại tăng thêm. „n
Quang cũng như kẻ dung y, chẳng những không rõ gốc bệnh lại không hiểu tánh
chất thuốc men, chỉ đem hoàn Vạn Ứng A Dà Đà (A Dà Đà dịch là Phổ Trị, thuốc
trị tất cả bệnh) của tiên tổ bí truyền, bao nhiêu chứng hư, thật, hàn, nhiệt,
đều dùng hoàn này cho uống. Nếu ai có lòng tin, dùng thử sẽ được an lành. Cho
đến những chứng bệnh Tần Hu*n, Biến Thước đều bó tay, khi uống thuốc này vào,
liền thấy hồi sanh khỏi tử. Cho nên đối với những kẻ có tâm cứu người giúp đời,
tôi không ngại gì đưa thiệp quảng cáo, để tất cả bệnh nhân đều được uống hoàn
này. Tôi vẫn biết các phương thuốc của Tần Hu*n, Biến Thước là nhiệm mầu, song
chẳng khuyên người dùng, vì bệnh thuộc về túc nghiệp không phải sức của thần y
trị được...
Chứng thật tướng ngay đời hiện tại, chẳng phải thế gian tuyệt không người,
nhưng e cư sĩ chưa có căn lành ấy. Nếu tôi không nói rõ duyên cớ, hoặc khi cư
sĩ chí cao mà hạnh chưa kịp, vì quá vọng tư*ng đến sự chứng quả, lâu ngày sanh
ra bệnh cuồng loạn tán tâm. Chừng ấy cầu siêu hóa ra đọa, muốn khéo tr* thành
vụng, kết quả cũng không thoát khỏi luân hồi. Phải biết, ngộ được lý nhị không
duy hạng phàm phu lợi căn mới có đủ khả năng. Như bậc người Viên Giáo * nơi vị
danh tự tuy chưa phục đoạn phiền não, mà sự tỏ ngộ cùng chư Phật vẫn đồng. Nếu
nói ước về Tông, cảnh giới ấy gọi là đại triệt đại ngộ; ước về Giáo là đại khai
viên giải. Nhưng đại ngộ cùng viên giải, không phải chỉ tỏ ngộ một cách mường
tượng đâu! Như Bàng Cư Sĩ nghe Mã Tổ nói câu: 'Đợi khi nào ngươi uống một hớp
hết nước sông Tây, ta sẽ nói cho', liền quên ngay sự huyền giải. Ngài Đại Huệ
Kiểu nghe Viên Ngộ Thiền Sư ngâm câu: 'Gió nồm vào điện các, hơi mát vẩn vơ
sanh', cũng thế. Trí Giả Đại Sư tụng Kinh Pháp Hoa đến câu: 'Đó là chơn tinh
tấn, gọi là chơn pháp cúng dường Như Lai...' trong phẩm Dược Vương Bản Sự,
thoạt rỗng suốt đại ngộ, lặng lẽ nhập định, thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa
tan. Ngộ được như thế mới gọi là đại triệt, đại ngộ, đại khai viên giải. Đó là
ngộ đạo, nếu nói đến chứng đạo vào thể thật tướng, thì lại không phải là việc
làm của hạng cụ phược phàm phu. Ngài Nam Nhạc Huệ Tư, thầy đắc pháp của Trí Giả
Đại Sư, là bậc có thần thông trí huệ lớn. Khi sắp tịch, có người hỏi đến chỗ
chứng Ngài đáp: 'Ta ban sơ chỉ cầu Đồng Luân, nhưng vì lãnh chúng quá sớm, chỉ
chứng được Thiết Luân mà thôi.' (Đồng Luân tức là vị Thập Trụ, phá vô minh,
chứng thật tướng, vào cõi thực báo, phần chứng Tịch Quang. Bậc sơ trụ có thể
hiện làm thân Phật trong một trăm cõi Đại Thiên để giáo hóa chúng sanh. Nhị trụ
thì một ngàn cõi, tam trụ một muôn, mỗi trụ số tăng lên gấp mười. Thiết Luân
tức là vị thập tín. Sơ tín dứt kiến hoặc, thất tín dứt tư hoặc, bát, cửu, thập,
tín phá trần sa, phục vô minh. Ngài Nam Nhạc thị hiện * ngôi thập tín, thì còn
chưa chứng được thật tướng). Trí Giả Đại Sư là đức Thích Ca hóa thân, lúc sắp tịch,
có kẻ hỏi: 'Đại Sư chứng đến vị nào?' Đáp: 'Nếu ta không lãnh chúng, tất thanh
tịnh sáu căn, vì tổn mình lợi người nên chỉ được ngũ phẩm.' (Sáu căn thanh tịnh
tức là vị thập tín, như phẩm Pháp Sư Công Đức trong Kinh Pháp Hoa đã nói. Ngũ
phẩm là vị quán hạnh, phục hết ngũ trụ phiền não mà chưa dứt được kiến hoặc).
Ngẫu Ích Đại Sư lúc lâm chung có bài kệ rằng: 'Danh tự vị đây là Phật nhãn. Rồi
ra biết sẽ phó ai?' (Địa vị danh tự viên ngộ tạng tánh, chỗ tỏ ngộ đồng với
Phật, song còn chưa phục được kiến, tư hoặc, huống chi dứt trừ? Người đại ngộ ở
đời mạt pháp, phần nhiều thuộc về hạng này. Xem như ngài Ngũ Tổ Giới thân sau
làm Tô Đông Pha, ngài Thảo Đường Thanh làm Tăng Lỗ Công, ấy cũng còn khá. Kế
đó, ngài Hải „n đầu thai làm con gái ông Châu Phòng Ngự, và tệ hơn hết là cao
tăng * non Nhạn Đảng kiếp sau làm Tần Cối. B*i các vị ấy tuy ngộ suốt lý tánh
mà chưa dứt được phiền hoặc, nên một phen thọ sanh, phần nhiều quên mất túc
căn). Như Ngẫu Ích Đại Sư thị hiện * vị danh tự. Thiên Thai Trí Giả * vị quán
hạnh, Nam Nhạc Huệ Tư * vị tương tợ, thì thấy thật tướng pháp không dễ gì
chứng. Thật ra bản địa của ba Đại Sư đều không thể suy lường, nhưng vì sợ người
đời sau chưa chứng xưng rằng chứng, nên các Ngài dùng thân thuyết pháp khiến
cho hàng hậu tấn xét mình hổ thẹn, dứt bỏ tánh tự thị, ngông cuồng. Ân đức thị
hiện răn dạy ấy, dù nát thân cũng khó đền đáp. Vậy cư sĩ nên tự lượng xem mình
có thể siêu việt ba Đại Sư ấy chăng? Tốt hơn là nên niệm Phật tụng kinh, bồi
đắp căn lành, ngày kia sanh về Tây Phương tùy nơi công hạnh cạn sâu lần lần tu
tập, thì sớm muộn gì cũng sẽ được đạo quả. „y là con đường duy nhất để chứng
thật tướng của người đời nay đó!
Kim Luân Chú Pháp không cho hỏi việc, chỉ được hỏi căn lành hoặc pháp môn mà
thôi. Nhưng chúng sanh đời mạt pháp chẳng luận căn lành có hay không, đều quyết
định phải chuyên tu Tịnh Độ, vậy chớ nên hỏi pháp môn làm chi. Đến như căn lành
nếu có, nên gắng sức tu thêm, không lại càng phải cố công vun bồi, cũng không
cần hỏi. Chỉ nên trì chú giúp tu tịnh nghiệp, chớ vội tác pháp làm nhọc lờn
Phật thánh. Nếu thường tác pháp mà tâm không cung kính, chí thành, sẽ kh*i các
việc ma. Duy có một điều nên tác pháp, nhưng không phải là phần việc của cư sĩ.
Ví như có người phát tâm xuất gia, mình chưa chứng đạo, không thể quán căn cơ người
ấy, mới cầu Phật từ bi thầm chỉ thị xem có nên thâu nhận chăng? Làm như thế để
tránh mối tệ: hạng vô lại lẫn vào phá rối Phật Pháp. Người đời nay trong sự
thâu đệ tử, chỉ muốn cho được nhiều. Đôi khi biết rõ đó là kẻ hạ lưu, cũng gấp
gấp dung nạp sợ có mất đi, không nghĩ gì đến sự lựa chọn. Tâm tham danh lợi, ưa
quyến thuộc ấy, khiến cho Phật Pháp suy tàn đến mức khó nỗi chấn hưng!
Nghiệp chướng nặng, tham giận nhiều, thân suy yếu, tâm kinh sợ, phải một lòng
niệm Phật, lâu ngày các chứng ấy tự tiêu trừ. Trong phẩm Phổ Môn nói: 'Chúng
sanh nào nhiều dâm dục, giận hờn, ngu si, nếu thường niệm cung kính Quán Thế Âm
Bồ Tát, sẽ được xa lìa các nghiệp ấy.' Niệm Phật cũng như thế, song phải dùng
hết tâm lực, đừng tạp tư*ng, nghi ngờ, thì cầu việc gì cũng được. Đức Quán Thế
Âm Bồ Tát có nhân duyên rất lớn với chúng sanh cõi Ta Bà, ngoài thời niệm Phật,
nên kiêm trì danh hiệu Ngài. Hoặc giả, kiêm trì chú Lăng Nghiêm hay Đại Bi cũng
được.
Đến như việc xem kinh, nếu muốn làm Pháp Sư vì chúng tuyên dương, nên trước xem
chánh văn, sau sẽ xem lời chú sớ. Nếu xét thấy mình tinh thần không đầy đủ,
kiến giải chẳng hơn người, thì hãy chuyên niệm Phật, chớ nên phí tâm lực, hao
tháng ngày đi theo việc không cần kíp ấy. Như muốn tùy phận duyệt kinh để được
thêm phần lợi ích, phải giữ ba nghiệp trong sạch, khẩn thiết chí thành, lạy
Phật rồi ngồi định tâm giây phút, sau sẽ gi* kinh tụng ra tiếng hay lặng lẽ
xem. Khi ấy phải ngồi ngay ngắn như đối trước Phật nghe lời viên âm, không dám
móng kh*i một niệm biếng trễ, phân biệt, chẳng nên tìm hiểu văn nghĩa, chỉ một
mạch xem thẳng từ đầu đến cuối. Duyệt kinh như thế, nếu là bậc lợi căn, có thể
ngộ lý nhị không, chứng pháp thật tướng, dù người căn tánh tối chậm, cũng được
tăng thêm phước huệ, nghiệp chướng tiêu trừ. Đức Lục Tổ bảo: 'Chỉ xem Kinh Kim
Cang cũng có thể minh tâm kiến tánh', tức là nói lối xem trên đây, vì thế mới
gọi là chỉ. Y như thế mà duyệt kinh, thì xem các Kinh Đại Thừa đều có thể minh
tâm kiến tánh, đâu riêng gì Kinh Kim Cang? Chớ nên một mặt theo sự phân biệt, tìm
hiểu: câu này nghĩa ra sao, đoạn này ý thế nào? B*i vì đó thuộc về vọng tu*ng
suy lường, không thể thầm hiệp với tâm Phật, ngộ suốt lý kinh, và làm nhân
duyên cho sự diệt tội sanh phước. Xem kinh với tâm phân biệt, nếu biết cung
kính thì còn có thể gieo chút căn lành, bằng biếng trễ khinh thường chắc không
khỏi đem nhân lành mà gây quả ác, sự khổ sẽ vô cùng! Người xưa rất chuyên trọng
nghe kinh vì tâm khó sanh phân biệt. Như có người tụng kinh ra tiếng, một người
* gần bên nhiếp tâm lóng nghe mỗi câu chữ rõ ràng, chẳng dám duyên theo cảnh
bên ngoài, vì nếu xao lãng một chút thì bị gián đoạn, văn nghĩa không được suốt
thông. Khác hơn thế, người tụng b*i có văn kinh để y cứ, dù không chuyên chú
cũng đọc được rành rẽ. Người nghe chỉ nương theo tiếng, nếu phóng tâm liền đứt
mất sự liên lạc. Nghe kinh được như thế, công đức đồng với người tụng cung kính
chí thành. Nếu người tụng kinh kém lòng thành kính, công đức lại không thể sánh
kịp người nghe.
Đời nay, nhiều kẻ xem Kinh Phật như giấy cũ, trên bàn kinh để những tạp vật lẫn
lộn, bừa bãi. Khi duyệt kinh, không rửa tay, súc miệng, có khi rung lắc thân
mình, vắt tréo chân lên, thậm chí buông ra hơi dưới, chẳng kiêng sợ chi cả. Như
thế đâu phải muốn diệt tội sanh phước, mà muốn cho loài ma vương phá hoại Phật
Pháp, chứng minh khen ngợi mình là 'người bao quát dung thông, rất hợp với đạo
mầu Đại Thừa không còn chấp trước.' Hàng Phật tử chơn tu trông thấy chỉ còn
lặng lẽ, thương buồn, thầm rơi lệ than th* cho cảnh ma quyến thịnh hành, không
biết làm sao cứu vãn được! Thu* xưa, ngài Trí Giả tụng kinh bỗng rỗng suốt tỏ
ngộ lặng lẽ nhập định, nếu có tâm phân biệt thì đâu được như thế ư? Một vị cổ
đức tả Kinh Pháp Hoa, chăm chú quên cả muôn duyên, đến trời tối vẫn còn ngồi
viết. Kẻ thị giả đi vào thưa 'Trời tối lắm rồi, sao thầy còn tả kinh được?' Vị
ấy liền giật mình xem lại thì đã tối sẩm không thấy bàn tay. Khi duyệt kinh,
tham thiền, trì chú, niệm Phật, nếu đồng một sự chuyên tâm như thế, dụng công
lâu, sẽ có ngày được suốt thông, tỏ ngộ. Đời Minh, ngài Tuyết Kiều Tín Thiền
Sư, người * thành phủ Ninh Ba, trung niên xuất gia, dốt không biết một chữ.
Nhưng nhờ công khổ hạnh, siêng năng tham cứu, nhịn việc khó nhịn, làm việc khó
làm, không bao lâu Ngài bỗng đại triệt đại ngộ, những lời nói ra đều hiệp với
thiền cơ. Rồi từ đó lần lần Ngài tự biết đọc, viết, không mấy lúc đã nghiễm
nhiên là một nhà thông thái bút pháp tung hoành. Những sự lợi ích như thế đều
là nơi tâm chuyên tinh tham cứu, không phân biệt mà có. Người duyệt kinh nên
lấy đây làm gương mẫu. Tập Ngữ Lục của Tuyết Kiều Tín Thiền Sư đã được bổ vào
Đại Tạng Kinh nhà Thanh. Tấn sĩ Đàm Tảo Am, một bậc thạc học quy y với Thiền
Sư, có khắc bia hơn muôn lời để ca tụng đạo hạnh của Ngài. Vậy khi duyệt kinh
quyết không nên kh*i lòng phân biệt; được như thế, vọng tư*ng sẽ tự lặng chìm,
tánh thiên chơn lần lần hiện rõ.
Nếu muốn nghiên cứu kinh để hiểu nghĩa lý, hoặc chú sớ ra, nên dành một thời
riêng chỉ chuyên về việc ấy. Lúc nghiên cứu tuy không nghiêm cẩn bằng khi xem,
nhưng cũng chẳng nên toàn không cung kính, bất quá có đôi chút thơ thái hơn mà
thôi. Như chưa được nghiệp tiêu trí sáng, phải lấy sự duyệt kinh làm chủ, phần
nghiên cứu chỉ nên phụ lược. Chẳng thế thì cùng năm mãn tháng cứ mãi theo việc
nghiên cứu, dù cho tìm hiểu được như vẹt mây bày trăng sáng, mở cửa thấy non
xanh, cũng chỉ thêm nguồn biện bác trên đầu môi chót lưỡi, có can thiệp gì đến
sự sanh tử đâu? Rồi ngày ba mươi tháng chạp đến nơi, quyết định không dùng một
mảy may nào được! Nếu có thể y như cách trên mà duyệt kinh, thì những nghiệp
tham giận tình chấp lần lần tiêu tan, trí huệ tr* nên sáng suốt. Bằng chẳng
thế, đã không được sự thật ích, lại còn e do nghiệp lực đời trước, dẫn sanh tà
kiến, bác không nhân quả, những phiền não dâm, giết, trộm, dối, sẽ kế tiếp nhau
nổi lên như lửa cháy bừng. Lúc ấy đôi khi lại còn cho mình là người tu Đại
Thừa, tất cả đều không ngại, đem câu 'Tâm bình cần gì giữ giới' của Lục Tổ, tự
bào chữa: 'phá giới mà không phá mới thật là giữ giới.' Trên đường tu hành có
nhiều nỗi hiểm nguy, chơn pháp rất khó được là như thế! Vì lẽ ấy, chư Tổ phần
nhiều đều chủ trương tu Tịnh Độ, để nhờ sức từ của Phật dẹp trừ nghiệp lực
khiến cho không phát hiện. Vậy cư sĩ nên lấy sự niệm Phật làm chánh, duyệt kinh
làm trợ. Trong các kinh như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Niết Bàn,
Viên Giác, hoặc chuyên chú một bộ hay luân phiên mà xem. Phép duyệt kinh quyết
không nên khác với lời tôi nói. Nếu thờ ơ không kiêng sợ, tất bị những tình
kiến phân biệt làm mất sự lợi ích lớn, tội nghiệp sẽ vô cùng!
Lúc trước tôi cho rằng cư sĩ cùng Sư Thần đều đã tin triệt để pháp môn Tịnh Độ.
Đến khi xem bài văn cảo của cư sĩ hỏi Từ Quân, thì thấy nói muốn trì chú và
nghiên cứu giới học. Lại bảo: 'Về công đức của mật chú, trong tông Tịnh Độ
không thấy có sự cao siêu như thế, nên lòng nao nức chưa biết có nên theo cùng
chăng?' Cư sĩ thử xét mình là căn cơ bậc nào, mà lại muốn thông đạt tất cả pháp
môn như thế? Tôi chỉ e sự tán loạn bất định ấy lâu ngày có thể làm cho cư sĩ
rối tâm mê muội đó thôi. Còn Sư Thần thì cho rằng: 'Theo Mật Tông chú lực đi đến
đâu, dù là một chút hơi bay bụi dính, chúng sanh nơi đó đều được giải thoát.
Tịnh Tông không có sự lợi ích như thế!' Phải biết, trì chú tuy công đức vô
lượng, niệm Phật há không năng lực chẳng nghĩ bàn? Sao chẳng xem đoạn: Chúng
sanh phạm tội ngũ nghịch thập ác, khi sắp chết tướng địa ngục hiện, niệm Phật
vài tiếng liền được vãng sanh? Lại há không thấy trên hội Hoa Nghiêm, các Đẳng
Giác Bồ Tát chứng đồng với Phật, còn phát mười đại nguyện vương hồi hướng Tây
Phương để cầu viên thành quả giác đó ư? Và, nếu môn Tịnh Độ không thù thắng,
tại sao chư Phật, Tổ, cho đến ngàn kinh muôn luận đều ân cần cặn kẽ khuyên bảo
tu trì? Thật ra, các pháp môn Đại Thừa đều viên diệu, chỉ vì chúng sanh duyên
có cạn sâu, căn cơ có sanh, thục, thành thử sự lợi ích có khó cùng dễ đó thôi!
Ngài Thiện Đạo là đức A Di Đà hóa thân, trong khi khai thị về chuyên tu, e rằng
hành nhơn tâm trí không định, nên đã khuyên dạy: 'Dù cho bậc thánh trong bốn
quả, hoặc hàng Bồ Tát * những vị trụ, hạnh, hướng, địa, nhẫn đến mười phương
chư Phật đầy cả hư không pháp giới đều hiện thân phóng quang, bảo hãy bỏ môn
Tịnh Độ, các Ngài sẽ truyền dạy pháp môn thù thắng, cũng chẳng dám vâng theo,
vì trước đã quyết chí chuyên tu Tịnh Độ nên không thể rút lời nguyện.' Thiện
Đạo Hòa Thượng biết trước người đời sau hay 'đứng núi này trông núi nọ' rồi
không có định kiến, nên mới nói lời ấy. Lời vàng ngọc trên đây, chính những kẻ
đã tôn Ngài làm thầy còn ít biết vâng theo, huống chi người chưa nghe hiểu? Một
pháp môn rất hợp lý hợp cơ như thế * trước mặt mà đành bỏ qua, lại đi theo con
đường nghiệp thức mơ màng, không thiền, không tịnh, há chẳng phải là nghiệp ác
đời trước xui khiến hay sao? Thương thay!
Lý nhị không, tức là ngã không và pháp không. Ngã không là biết rõ trong năm ấm
hoặc sắc hoặc tâm (sắc là sắc thân, sắc ấm, tâm là thọ, tư*ng, hành, thức) đều
do nhân duyên hòa hợp sanh ra, khi nhân duyên chia lìa, liền mất, không thật có
cái ta làm chủ tể. Pháp không là thấu suốt năm ấm đương thể vốn không. Tâm Kinh
nói: 'Soi thấy năm uẩn đều không' chính là nghĩa này. Lý pháp không đây tức là
thật tướng, do phá vô minh chứng được, nên nói: 'Vượt qua tất cả khổ ách.' Lại
lý thể pháp thân lìa hẳn những tướng: sanh, diệt, đoạn, thường, có, không, mà
làm căn bản của các tướng, rất là chân thật, nên gọi thật tướng. Thật tướng này
chúng sanh cùng Phật vẫn đồng, mà hàng phàm phu, Nhị Thừa do vì mê bỏ nên không
được thọ dụng. Ví như tự mình có hạt bảo châu trong vạt áo, vì không hay biết
nên phải chịu nghèo hèn. Ngộ đạo là trạng thái thông suốt rõ ràng, như mây tan
trăng hiện, cửa mở núi bày, lại như người mắt sáng trông thấy đường về, và cũng
như người từ lâu nghèo khổ bỗng gặp kho báu. Chứng đạo là như theo đường cũ về
đến nhà phủi chân ngồi nghỉ, lại như đem kho báu ấy tùy ý tiêu dùng. Ngộ thì kẻ
đại tâm phàm phu, kiến giải đồng với Phật, chứng thì bậc sơ địa không biết chỗ
cất bước tới lui của nhị địa. Hiểu được nghĩa ngộ và chứng này, tự nhiên chẳng
khởi lòng khinh mạn bậc trên, cũng không sanh tâm lui sụt, mà ý chí cầu sanh
Tịnh Độ dù muôn trâu vẫn không thể kéo lôi.
Thời này là thời buổi nào? Nạn binh lửa đang lúc lẫy lừng, nam bắc đánh nhau,
trong ngoài chiến loạn, ba bốn năm gần đây, số người chết đến hằng triệu. Từ
xưa đến nay chưa nghe có sự thảm thiết như thế! Lại thêm các tai biến: bão lụt,
động đất, ôn dịch, tiếp diễn thường thường. Riêng về nạn nắng lụt, không đầy
một năm có khi đến đôi ba lần. Vật giá vì thế mắc gấp bội hơn trước. Lúc này,
may mà được sống, dám không gắng sức chuyên tu tịnh nghiệp để cầu vãng sanh ư?
Nỡ đem thân người khó được, mơ màng theo những pháp tu không hợp thời cơ ư?
Hiện giờ nếu không gắng sức chú định một môn, ngày kia muốn được nghe pháp
huyền diệu thẳng tắt này, sợ e không còn dịp may ít có như hôm nay nữa!
Thơ đáp Cư Sĩ Châu Tụng Nghiêu
(Phụ Nguyên Thơ)
Nay đệ tử có một nghi vấn, cầu xin lão Pháp Sư từ bi chỉ bảo:
Đệ tử ăn chay niệm Phật đã nhiều năm, nghe dạy rằng: Những người tin tưởng
Phật, sẽ được chư Phật trong mười phương ba đời hộ niệm, các vị Thiên Long Bát
Bộ, Đại Lực Thần Vương thường theo hộ trì, nghiệp ác đời trước lần lần tiêu
trừ, dù có oan gia đối đầu cũng không thể làm hại. Mấy điều trên đây căn cứ
trong Kinh Phật, quyết không phải là lời nói suông. Nhưng vào khoảng tháng ba
nầy, nhân tiếp được tin tức của người bà con từ Thượng Hải gửi về, khiến đệ tử
vô cùng ngạc nhiên! Theo tin ấy cho biết: Bà Trương Thái Thái là người rất tin
Phật, ăn chay đã hơn hai mươi năm, thường đến Cư Sĩ Lâm nghe giảng kinh pháp.
Bà ấy hiền hậu nhân đức, ưa làm lành, gặp ai cũng đều khuyên ăn chay niệm Phật.
Không ngờ một hôm đang đi trên lộ để đem đồ ăn chay cho một vị sư huynh, bà bị
xe cán chết. Lúc ấy vì không có ai nhìn, nên nhân viên tuần phòng chở đi, đến
ba ngày sau con cháu hay được mới xin đem về chôn cất. Đệ tử nghe tin ấy trong
lòng kinh ngạc phi thường, đến nay vẫn còn nghi ngờ chưa hiểu. Việc nầy nếu
người trong Phật học hội nghe được, chắc cũng bàng hoàng không an. Cho nên đệ
tử dâng lên bức thơ nầy, cầu xin lão Pháp Sư chỉ dạy, nói rõ nguyên do vì sao
bà họ Trương lại bị cái chết thảm khốc như thế. Và kết cuộc, bà có được vãng
sanh về Tây Phương hay chăng?
Xin lão Pháp Sư mở lời minh huấn để cho nhiều người yên tâm niệm Phật. Ân đức
ấy đệ tử cảm bội không cùng!
Tiếp được thơ, biết ngươi đối với đạo lý Phật Pháp còn chưa hiểu rõ. Chúng ta
từ vô thỉ đến nay, đã tạo nghiệp ác vô lượng vô biên! Kinh Hoa Nghiêm nói: 'Giả
sử nghiệp ác có thể tướng, mười phương hư không chẳng dung chứa hết.' Nên biết
sự tu trì của hành nhơn, nếu quả chí thành không dối, thì có thể chuyển trọng
báo, hậu báo thành hiện báo, khinh báo. Người phàm mắt thịt chỉ thấy sự kiết
hung trước mắt, đâu biết được việc nhân quả đời trước và đời sau.
Bà họ Trương ấy nhiều năm tinh tu, một sớm chết thảm, hoặc giả do sự khổ đó mà
tiêu được ác báo tam đồ, sanh về cõi Thiên. Nếu trong hiện đời bà tin sâu
nguyện thiết thì cũng có thể sanh về Tây Phương. Nhưng chúng ta đã không có tha
tâm đạo nhãn, nên không dám ức đoán quyết chắc bà có được vãng sanh cùng chăng?
Việc có thể quyết định là: làm lành tất được quả lành, làm dữ phải mang ác báo.
Nếu làm lành mà bị quả dữ, đó là quả báo của nghiệp ác đời trước, chẳng phải
quả báo của nghiệp lành đời nầy. Các ngươi thấy bà lão bị sự chết khổ như thế,
liền nghĩ lầm rằng việc lành không đáng làm, bởi làm lành không được phước, nên
mới sợ hãi nghi ngờ. Sự nhận thức đó đâu có khác gì người chưa nghe hiểu Phật
Pháp? Nếu người đã tin chắc lời của Phật, quyết không vì việc ấy mà lộ ra vẻ
sửng sốt kinh hoàng. Bởi việc nhân quả trùng điệp không cùng, có khi nhân nầy
chưa trả, quả nọ đã chín mùi, ví như gieo giống sớm thì gặt sớm, lại như thiếu
nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên.
Thuở xưa, có người một đời làm lành, khi lâm chung lại bị chết thảm để trả xong
nghiệp trước, đời sau lại được phú quí vinh hoa. Như đời Tống một vị tăng ở
chùa A Dục Vương muốn trùng tu tòa điện tháp thờ Xá Lợi nghĩ rằng Cần Thân
Vương có thế lực, mới đến quyên mộ. Chẳng dè kết quả số tiền quyên không được
bao nhiêu, bổn nguyện không thành, vị tăng buồn bã, lấy búa chặt tay trước đền
Xá Lợi, máu ra nhiều liền chết. Cùng trong lúc ấy, Cần Thân Vương sanh ra một
đứa con. Từ khi mới lọt lòng, đứa bé thường khóc mãi không thôi. Bà vú bế nó đi
chơi, đến chỗ treo bản đồ xây tháp Xá Lợi thì đứa bé không khóc, bồng đi lại
khóc to lên. Bà vú không biết làm sao, mới gỡ bản đồ xuống thường cầm để trước
mặt nó, từ đó đứa bé không khóc nữa. Vương nghe chuyện ấy lấy làm lạ liền sai
người đến chùa A Dục hỏi thăm vị tăng khi trước, mới hay ông chặt tay chết đúng
vào ngày sanh của con mình. Do nhân duyên đó, Thân Vương một mình đứng ra sửa
lại điện Xá Lợi. Đến khi đứa bé ấy được hai mươi tuổi, nhằm lúc vua Ninh Tông
băng, không có Thái Tử kế vị, mới di chiếu lập con của Cần Thân Vương lên làm
vua. Cậu bé về sau được làm Hoàng Đế bốn mươi mốt năm, tức là vua Lý Tông nhà
Tống vậy.
Cái chết của vị tăng cũng là cái chết thảm. Nếu không có sự khóc mãi chẳng thôi
và khi thấy bản đồ tháp Xá Lợi liền nín lặng, thì đâu ai biết được đứa bé là
thân sau của vị tăng đã chết thảm kia? Việc nầy chép ở tập A Dục Vương Sơn Chí,
mà trong năm Quang Tự thứ hai mươi mốt, tôi nhân đi lễ tháp Xá Lợi vài mươi
ngày, đã được xem qua. Người rõ lý mặc dù cảnh ngộ thế nào, cũng quyết không
nghi nhân quả sai lầm, lời Phật hư dối. Kẻ không rõ lý, chấp chặt một khuôn
khổ, chẳng biết có nhân quả phức tạp, cho nên sanh lòng nghi nan, truy ra đều
do không có chánh kiến. Như chỗ ngươi nói: người niệm Phật có Tam Bảo gia bị,
long thiên hộ trì, đó vẫn là lẽ nhất định không còn sai lầm. Nhưng đối với việc
chuyển quả báo nặng đời sau thành quả báo nhẹ đời nầy, ngươi còn chưa rõ biết,
nên không khỏi có sự nghi ngờ bàn bạc không hợp lý kia. Thuở xưa, ở Tây Vức,
Giới Hiền Luận Sư là bậc đạo đức cao trong một thời, tiếng đồn vang khắp bốn xứ
Thiên Trúc. Do vì túc nghiệp, Luận Sư mang chứng bệnh dữ, đau đớn vô cùng, chịu
không kham, nên sắp muốn tự tận. Vừa trong đêm ấy, Luận Sư nằm mơ thấy ba vị Bồ
Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng lâm bảo rằng: 'Ngươi trong kiếp về
trước, nhiều đời làm vị quốc vương, bởi não hại chúng sanh, nên sẽ phải bị lâu
dài đọa vào ác đạo. Nhưng do đời nay ngươi có công hoằng dương Phật Pháp nên
chuyển lại chịu sự khổ nhỏ ở nhân gian để tiêu trừ sự khổ lớn nhiều kiếp nơi
địa ngục. Vậy ngươi gắng nhẫn chịu, chớ nên buồn rầu mà tính việc chi khác.
Trong ba năm nữa, ở xứ Đại Đường có vị tăng tên Huyền Trang, sẽ đến đây thọ
pháp với ngươi.' Giới Hiền Luận Sư nghe rồi liền rán chịu khổ sám hối lâu ngày
bệnh lần lần thuyên giảm. Qua ba năm sau, Huyền Trang đến chùa Na Lan Đà, Giới
Công bảo đệ tử nói trạng thái bệnh khổ của mình, chính người thuật lại cũng
nghẹn ngào rơi lệ. Bao nhiêu đó cũng đủ biết sự khổ ấy là dường nào rồi! Nếu ba
vị Bồ Tát không nói rõ nhân duyên kiếp trước, người đời sẽ bảo ngài Giới Hiền
chẳng phải là bậc đạo đức cao tăng. Hoặc có kẻ lại cho rằng: một vị đại tu hành
mà còn bị chứng bệnh thảm thế ấy, thì Phật Pháp có chi là linh nghiệm?
Tóm lại, chỗ hiểu biết của các ngươi còn cạn, nên vừa thấy việc chi hơi khác
liền sanh lòng kinh nghi. Hành vi ấy có thể khiến cho kẻ ít căn lành thối thất
lòng đạo. Nếu thấy người làm ác mà hiện đời được phước báo, chắc các ngươi cũng
khởi niệm hiểu lầm như thế. Nên biết đó chẳng qua là sự chuyển biến của những
lớp tiền nhân hậu quả phức tạp không đồng, để đổi quả nặng đời sau làm quả nhẹ
hiện tại, hay chuyển quả nhẹ hiện tại thành quả nặng đời sau mà thôi.
Thơ đáp Cư Sĩ Uông Võ Mộc
(Phụ nguyên thơ)
'Võ Mộc tôi niệm Phật đã mười năm, mới biết chút ít ý thú. Thiết nghĩ phương
pháp chỉ dạy về môn Niệm Phật của các ngài Linh Phong, Mộng Đông và bộ Văn Sao
của Tôn Sư, đại để đều là phương tiện lập thiết cho hạng ngu tối quê mùa. Như
bọn chúng tôi, được thông hiểu chữ nghĩa, hay suy nghĩ tìm tòi, nếu cứ dùng
phương pháp ấy, chắc không thể sanh về Tịnh Độ! Theo ngu ý, những người niệm
Phật cầu vãng sanh, trước tiên phải biết: 'niệm Phật đó là ai?' Vì nếu thấy
được chủ nhân ông, thì niệm Phật mới có chỗ dùng và sự vãng sanh mới có thể cầm
vững! Chẳng riêng gì niệm Phật cần nên như thế, mà tụng kinh trì chú đều phải
theo đường lối này. Người đời nay khi nói đến niệm Phật là bảo: phải niệm cho
già giặn, tấm lòng như chết, mới có thể vãng sanh. Họ đâu biết, nếu không rõ
'niệm Phật đó là ai?', thì làm sao niệm được già giặn và tấm lòng như chết? Như
thế, giả sử mỗi ngày đêm niệm đến mười muôn câu, đối với việc sanh tử có quan
hệ gì? Có kẻ lại bảo: 'Người xưa phần nhiều chuyên chú về trì danh, không tham
cứu trong câu niệm Phật.' Võ Mộc tôi nói: 'Đó là việc sau khi tham cứu xong rồi
của cổ đức, hạng sơ cơ không nên bắt chước theo.' Người niệm Phật đời nay, mười
phần hết chín không rõ ý chỉ ấy, thật đáng thương xót! Tôi thường thường cạn
lời khuyên bảo, mà hàng cư sĩ có kẻ lại cho tôi là tà kiến nữa. Nghĩa mầu Phật
Pháp chìm tối đến thế, nghĩ nên than thở, ngậm ngùi!
Nay xin bày tỏ nỗi lòng, kính cầu Tôn Sư ấn chứng và mong đem nghĩa ấy giải
rộng thêm ra. Đó là hạnh phúc của chúng sanh, đâu những riêng cho Võ Mộc!'
Xem rõ ý trong thơ, riêng lòng xiết bao khen ngợi! Các hạ có tâm rất tốt, muốn
cho mọi người đều thấy tánh bản lai, để sanh về phẩm sen bậc thượng. Quán Kinh
nói: 'đọc tụng Đại Thừa, hiểu nghĩa thứ nhứt, phát lòng Bồ Đề, khuyên nhắc
người tu', âu là bản ý của các hạ đó chăng?
Tuy nhiên, nói Pháp cần phải hợp cơ, nếu không xét căn cơ, lầm cho pháp dược,
thì đồng với kẻ dung y dùng thuốc giết người. Nên biết hai tông Thiền, Tịnh,
cội nguồn vẫn một, song lối tu khác nhau, bên Thiền lấy sự tánh bản lai làm
tông, bên Tịnh dùng tín, nguyện, niệm Phật cầu sanh làm yếu chỉ. Giả sử người
đời là bậc thượng căn, thì lời của các hạ thật có lợi vô cùng. Nhưng xét lại,
người thượng căn rất ít, kẻ trung, hạ quá nhiều, nếu không dạy phát tín, nguyện
cầu sanh, mà bảo tham cứu câu niệm Phật, đó là điều hại lớn. Vì nếu tham cứu
được tỏ ngộ, vẫn là hân hạnh, song còn phải phát thêm nguyện thiết để cầu vãng
sanh. Như tham cứu không thành, mà trong tâm thường giữ quan niệm 'không biết
niệm Phật đó là ai, chẳng thể vãng sanh', thì quyết khó cùng Phật cảm thông và
được nhờ sự tiếp dẫn. Người biết được 'niệm Phật đó là ai', chính là bậc đã tỏ
ngộ, thấy suốt chân tánh. Đời nay, tham cứu đến chỗ đại triệt đại ngộ phỏng có
mấy người? Đừng nói chi ai, chính như các hạ cũng chưa từng đến địa vị ấy. Tại
sao biết được? Vì nếu các hạ đã đến, quyết không khi nào dám nói những câu:
'Ngài Linh Phong, Mộng Đông lập thiết để dạy hạng ngu tối quê mùa không biết
niệm Phật đó là ai, chẳng được gọi là niệm già giặn, tấm lòng như chết dù cho mỗi
ngày đêm niệm mười muôn câu, không quan hệ gì đến việc sanh tử, và người xưa
chuyên chủ trì danh là việc sau khi tham cứu, kẻ sơ cơ chẳng nên bắt chước
theo.'
Xét ra, tấm lòng các hạ thật muốn cho mình và người đều được lợi ích, song lời
nói của các hạ, chính mình đã lầm, lại khiến cho người lạc lầm. Từ đây xin chớ
nói những lời ấy nữa, bằng chẳng thế, pháp môn rộng lớn độ khắp chúng sanh của
Như Lai, sẽ bị các hạ vùi sâu, đóng kín, không được mở thông. Lỗi ấy đồng với
tội khinh báng Phật, Pháp, Tăng, phải nên dè dặt! Chỗ thấy hiểu của các hạ, vì
không khéo tùy căn cơ, đem pháp thượng căn khuyên mọi người tu tập, nên thành
ra thiên chấp, sai lầm. Các hạ chẳng biết, lại cho mình hiểu đúng với nghĩa
chân thật của Phật Pháp, cầu xin ấn chứng. „n Quang tuy hèn kém, đâu dám lầm
hứa nhận khen giúp theo, để chính mình và các hạ đều sa vào tội khinh báng Tam
Bảo hay sao? Như cho lời của kẻ dung tăng nầy không đúng, xin cứ tùy ý mỗi
người tự đi riêng đường lối là xong. „n Quang đâu dám ép kẻ khác bỏ sở kiến để
theo ý hèn của mình. Chẳng qua vì các hạ hỏi đến, nên bất đắc dĩ phải thẳng lời
dâng chút ngu thành đó thôi.
Rất hân hạnh mong nhờ sự xét nghĩ xa rộng.
Thơ gởi Cư Sĩ Vệ Cẩm Châu
(Cư sĩ nhân gặp hỏa tai, nhà cửa vật dụng bị cháy sạch, vợ kinh hãi đau nặng, nên
tâm thần mê muội như điên cuồng, „n Quang Pháp Sư g*i bức thơ nầy khuyên
dạy...)
Kinh Pháp Hoa nói: 'Ba cõi không an, dường như nhà lửa, sự khổ dẫy đầy, rất
đáng sợ hãi.' Tuy nhiên, nhiều khi cảnh ngộ cũng làm nên cho người bằng những
giai đoạn: họa, phước, nghịch, thuận, khổ, vui... không nhất định. Với bậc có
trí, biết quyền biến, khéo an theo số phận, thì cảnh họa, nghịch, khổ nào không
hóa thành phước, thuận, vui?
Cho nên người quân tử thường vui theo phần, biết số mạng, không oán trời trách
người, dù gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn an nhàn, bình thản! Người xưa có câu 'Cảnh
giàu sang an theo giàu sang, cảnh nghèo hèn an theo nghèo hèn, cảnh man rợ an
theo man rợ, cảnh hoạn nạn an theo hoạn nạn...' Cư sĩ tuy có lòng ưa thích điều
lành, nhưng chưa rõ chỗ chí lý của đạo Nho và Phật, nên mới một phen gặp cảnh
nghịch đã bối rối kinh cuồng. Tôi xin đưa những điều sau đây để cư sĩ nhận rõ:
Trong đời, rất rộng dầy, cao sáng, không hơn chi trời đất và hai vầng nhật,
nguyệt. Nhưng mặt trời đứng bóng rồi thì xế, mặt trăng đầy rồi lại vơi, cho đến
gò cao thành vực thẳm, biển cả hóa nương dâu, cuộc đời vẫn thế, thịnh suy thay
đổi là lẽ thường. Xưa nay đạo đức ai hơn Khổng Tử, mà Ngài còn phải bị vây nơi
đất Khuôn, tuyệt lương * nước Trần, đi châu du liệt quốc kết cuộc không được
gì, chỉ có một người con được năm mươi tuổi lại chết, may còn đứa cháu để nối
tổ tông. Thấp hơn một bậc, như thầy Nhan Uyên, Nhiễm Bá Ngưu thì mạng vắn; thầy
Tử Hạ, Tả Kỳ Minh lại mù lòa; ông Khuất Nguyên chết chìm; thầy Tử Lộ bị bầm
mắm. Như các Ngài ấy là những bậc đại thánh, đại hiền mà cũng không tránh được
nghịch cảnh, nhưng vì biết thuận theo số mạng, nên vẫn tùy phận an vui. Mấy
điều này đối với thời ấy, tợ hồ như không phước, nhưng tấm gương đạo đức của
các Ngài trăm năm về sau, từ vua đến dân ai không kính ngưỡng? Thế thì phước
còn chi hơn? Trong đời sống, con người tính đủ điều, làm đủ việc, xét lại chẳng
qua vì vấn đề ăn mặc và để sự nghiệp cho con cháu mà thôi. Nhưng ăn thì canh
rau có thể qua bữa, cần gì hải vị sơn hào; mặc thì bô vải cũng đủ che thân, lựa
là nhiều hàng gấm vóc? Còn con cháu hoặc làm ruộng, hoặc bán buôn, đều tự nuôi
sống được, hà tất phải giàu có trăm vạn? Vả lại, xưa nay những kẻ vì con cháu
mưu sinh cuộc vinh hiển muôn đời, có ai bằng Tần Thủy Hoàng? Vị bạo chúa này
dẹp trừ sáu nước, đốt sách chôn học trò, thâu góp hết binh khí trong thiên hạ
để đúc chuông, bản ý muốn cho dân ngu yếu đặng không thể làm loạn. Đâu dè, khi
Trần Thiệp đứng lên, anh hùng đều nổi dậy, cơ đồ nhất thống không đầy mười ba
năm bỗng tiêu tan, cho đến con cháu cũng bị diệt tuyệt. „y là muốn cho con cháu
vinh hiển, tr* lại thành cảnh bại vong. Đời Hiến Đế nhà Hán, Tào Tháo mượn chức
Thừa Tướng chuyên oai quyền lấn ép vua, muốn cho con cháu mình làm chúa trong
nước, không ngờ đến khi chết, thi hài chưa kịp liệm, Tào Phi đã soán nghịch,
bắt tần thiếp của cha làm cung phi của mình. Tháo chết rồi đọa vào ác đạo, trải
hơn một ngàn bốn trăm năm, đến đời Càn Long nhà Thanh, * Tô Châu có người giết
heo, khi mổ ra thấy trên lá phổi có chữ 'Tào Tháo.' Một người láng giềng mục
kích cảnh tượng ấy, rất sợ hãi, liền xuất gia tu hành, pháp danh là Phật An,
chuyên tâm niệm Phật được sanh về Tây Phương. Việc này có ghi trong Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục. Như Tào Tháo một đời phí hết tâm cơ lo cho con cháu, tuy được làm
Hoàng Đế nhưng chỉ trong vòng bốn mươi lăm năm thì mất nước. Vả lại khi còn *
ngôi, mỗi năm thường cùng các nước Đông Ngô, Tây Thục đánh nhau, có mấy lúc
được an nhàn? Từ đó về sau trải qua các triều: Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy,
và Ngũ Đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Châu đều không lâu dài. Tựu trung duy có
đời Đông Tấn là bền nhất, nhưng cũng chỉ được một trăm lẻ ba năm, ngoài ra thì
hoặc hai ba năm, tám chín năm, hoặc một đôi mươi năm, bốn năm mươi năm, liền
tiêu diệt. Đây là chỉ kể mấy đời chánh thống, nếu nói đến những ngụy triều tiếm
cướp, thời gian lại còn ngắn hơn nữa. Bao nhiêu vua chúa của các triều ấy, buổi
sơ tâm đều muốn để sự vinh hoa cho tông tộc, song tìm đến sự thật, trái lại
khiến cho con cháu mang họa cướp giết, mất tuyệt giống dòng.
Cư sĩ nên suy nghĩ: sang như thiên tử, giàu có bốn biển, còn không thể bảo đảm
cho tông tộc hư*ng phước lâu dài, huống nữa là kẻ phàm thường, từ vô lượng kiếp
đến nay tạo nghiệp ác dầy như đất liền, sâu như biển cả, mà muốn cho nhà cửa
thường hưng thạnh, có phước không họa ư? Phải biết sự vật giữa đời đều giả dối
như mộng, huyễn, bóng, bọt, sương, chớp, như trăng đáy nước, hoa trong gương,
như ánh chập chờn lúc trời nắng và như thành của thần Càn Thát Bà (nhạc thần
của Thiên Đế, thành quách đều là huyễn hiện), không có chi là chân thật. Duy có
một niệm tâm tánh của ta vẫn hằng còn, trùm suốt xưa nay, không biến đổi, hư
hoại. Tuy không biến hoại mà thường tùy duyên: theo duyên ngộ tịnh thì làm
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, vì công đức sâu cạn, nên phẩm vị có cao,
thấp; theo duyên mê nhiễm thì lạc vào cõi trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ
quỉ, địa ngục, do tội phước nặng nhẹ, nên sự khổ, vui, có ngắn, dài. Nếu người
không biết Phật Pháp thì đã đành, cư sĩ đã sùng tín đạo Phật, sao chẳng nhân
cảnh nghịch ấy mà nhìn rõ cuộc đời, bỏ mê theo ngộ, một lòng niệm Phật cầu sanh
về Tây Phương vượt nẻo luân hồi, lên ngôi tứ thánh; đó có phải là nhân họa nhỏ
mà hư*ng phước to chăng? Đường lối thoát ra là thế, cư sĩ lại cứ bối rối mơ
màng như ngây như dại; thảng hoặc lo buồn quá độ đến mất thân mạng, thì chẳng
những chính mình nhiều kiếp bị trầm luân, mà vợ yếu con côi cũng bơ vơ, làm sao
tự lập? Như thế là cư sĩ muốn hại mình và làm liên lụy cho người. Sao lại tối
tăm đến thế?
Kinh nói: 'Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả.' Vì tránh quả khổ nên Bồ Tát dứt
trước những nhân ác, do đó tội chướng tiêu trừ, công đức đầy đủ, cho đến khi
thành Phật mới thôi. Chúng sanh thường gây nhân ác, lại muốn khỏi quả khổ, có
khác nào kẻ sợ bóng mình mà cứ chạy trốn dưới ánh mặt trời? Nhiều người mới làm
lành chút ít đã mong được phước lớn, khi gặp cảnh nghịch liền cho rằng: 'làm
lành mắc họa, không có nhân quả', rồi từ đó lui sụt sơ tâm, tr* lại chê bai
Phật Pháp. Những kẻ ấy không hiểu 'lý nhân quả thông cả ba đời' và 'tâm mình có
thể cải tạo hoàn cảnh.' Nhân quả thông cả ba đời là thế nào? Như đời này làm
lành hoặc dữ, đời này hư*ng phước hay mang họa, đó là hiện báo. Đời này làm
lành hoặc dữ, đời sau được phước hay mang họa, là sanh báo. Đời này làm lành
hoặc dữ, đời thứ ba, thứ tư, hoặc mười, trăm, ngàn, muôn đời, cho đến vô lượng
vô biên kiếp về sau mới được phước hay mang họa, gọi là hậu báo. Hậu báo thì
sớm chầy không định, đã gây nhân tất có quả, đó là lẽ tự nhiên. Tâm mình có thể
cải tạo hoàn cảnh là thế nào? Ví như có người gây nghiệp ác sẽ phải vĩnh viễn
bị đọa vào địa ngục, nhiều kiếp chịu thống khổ; người ấy bỗng sanh tâm sợ hãi,
hổ thẹn, phát lòng Bồ Đề, đổi dữ làm lành, tụng kinh niệm Phật, tự tu và khuyên
người, cầu sanh về Cực Lạc. Do sự hối cải ấy, nghiệp địa ngục trước kia liền
tiêu diệt, đổi thành quả khổ nhẹ trong hiện đời như: hoặc bị người khinh chê,
hoặc đau bệnh, nghèo nàn, cùng gặp những việc không vừa ý. Chịu những khinh báo
như thế xong, người ấy có thể thoát đường sanh tử, nhập thánh siêu phàm. Như
Kinh Kim Cang nói: 'Nếu có người thọ trì kinh này mà bị kẻ khác khinh chê,
người đó đời trước gây tội nghiệp đáng đọa vào ác đạo, do đời này bị sự khinh
chê nên tội trước liền được tiêu diệt, sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ Đề.' Đây chính
là nghĩa: tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh vậy.
Người đời khi gặp tai nạn, nếu không oán trời, tất cũng trách người, ít ai nghĩ
đến sự trả nghiệp mà sanh lòng ăn năn chừa cải. Phải biết: 'trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu' là lẽ đương nhiên, đã gieo chông gai, đừng mong đến mùa gặt
được lúa nếp. Làm dữ mà vẫn hư*ng phước, là đời trước vun bồi cội phước đã dầy,
nếu không làm dữ thì phước còn lớn hơn. Ví như con nhà giàu, ăn chơi bài bạc,
xem tiền như rác, nhưng không liền bị đói lạnh, là do vì của cải quá nhiều. Nếu
mỗi ngày cứ như thế, dù cho gia nghiệp trăm vạn, tất có lúc cũng gặp cảnh người
mất nhà tan. Làm lành mà hay bị tai nạn, là đời trước trồng gốc tội đã sâu, nếu
không làm lành thì họa càng lớn hơn nữa. Ví như người phạm tội nặng chưa kịp
hành hình, lại lập được công nhỏ; vì công nhỏ, chưa có thể hoàn toàn ân xá, nên
cải án nặng thành nhẹ. Nếu lập công mãi đến khi công to, không những trừ hết
tội trước lại được phong hầu bái tướng, tập ấm đời đời.
Bậc trượng phu phải vượt hẳn thường tình, đừng để cho ngoại vật làm lụy đến
thân. Giả sử có vàng ngọc đầy kho, khi giặc dữ đến cướp, phải bỏ nhà trốn chạy,
đừng nên ôm của mà đợi chết. B*i vì vàng ngọc tuy quí, nhưng sánh với mạng
người, hãy còn kém hèn; đã không thể giữ được cả hai, thôi thà bỏ của mà bảo
toàn thân mạng. Như hiện thời, tài sản của cư sĩ đã hóa ra đống tro tàn, lo
buồn cho lắm cũng vô ích, chỉ nên tùy duyên qua buổi, gắng sức niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, để cùng tận kiếp vị lai lìa hẳn sự khổ, chỉ hưởng điều vui.
Thế là do họa tai mà thành đạo vô thượng, sao vẫn còn mê muội đau buồn?
Mong cư sĩ xét kỹ lại những lời tôi nói, tất sẽ c*i được mối u sầu, như vẹt mây
mù lộ vẻ trời trong, nơi tai ương tìm thấy hạnh phúc, đổi cơn nóng bức thành
mát mẻ, vui tươi. Bằng cứ chấp nê không tỉnh, chắc khó tránh khỏi chứng bệnh
kinh cuồng. Nếu một khi bản tâm đã mất, tà ma sẽ dựa vào; chừng ấy dù có ngàn
Phật ra đời, cũng không biết làm sao cứu vãn được!
Thơ đáp Cư Sĩ Trương Vân Lôi
Quyển Nhập Phật Vấn Đáp có thể dẫn
dắt kẻ sơ cơ khiến cho họ lần lần đi sâu vào giáo lý đạo Phật phát lòng tin
chơn chánh. Nếu in ra đem biếu tặng để kết pháp duyên, thì công đức còn chi lớn
hơn? Những quyển ấy luận rộng về sự lý trong Phật giáo, tuy có nói đến pháp môn
Tịnh Độ, thật ra chưa tỏ bày hết ý nghĩa của tông nầy. Nếu người đã có lòng tin,
nên tìm xem các kinh sách Tịnh Độ. Như không đủ phương tiện để khảo duyệt
nhiều, thì đọc kỹ một quyển Kỉnh Trung Kỉnh Hựu Kỉnh cũng được. Quyển này gom
góp những yếu nghĩa của tông Tịnh Độ, chia thành môn loại rõ ràng, rất lợi ích
cho kẻ sơ cơ. Nếu được xem, có thể đi thẳng vào chỗ nhiệm mầu của môn Niệm
Phật, đỡ tốn công nghiên cứu các kinh sách Tịnh Độ khác.
Phật Pháp tùy người mà lập, quyết không nên chấp theo quy củ thông thường,
khiến cho trái với căn cơ và mất sự lợi lớn: một đời được liễu thoát. Vậy nên
lượng theo căn tánh mình, tự sắp đặt nghi thức tu trì. Chú Vãng Sanh bằng Phạm
Văn, học được rất tốt, song chớ nên sanh lòng phân biệt cho lối tụng xưa nay là
không đúng. Nếu có quan niệm ấy, sẽ vướng thêm mối nghi ngờ đối với tất cả chú
văn trong đại tạng, rồi nhận lầm rằng những bài ấy không hợp ý Phật. Nên biết
thuở xưa các bậc tôn đức dịch kinh, chẳng phải là làm việc luống suông, chớ
thấy lối dịch mới khác hơn, vội xem thường lối cũ. Hơn ngàn năm trở lại đây,
người tụng chú theo bản dịch cũ, được lợi ích biết bao nhiêu, đâu phải những
người ấy đều không hiểu Phạm văn? Vậy học vẫn nên học, nhưng đừng sanh quan
niệm hơn kém thấp cao, thì sự lợi ích tự nhiên không thể nghĩ bàn!
Phép trì chú cũng giống như cách tham câu thoại đầu. Tham câu thoại đầu, vì
không thể giải nghĩa, nên dứt được tình phàm phân biệt, chứng vào tánh thiên
chơn. Trì chú bởi không biết nghĩa lý, chỉ hết lòng thành khẩn tụng niệm, nên
nghiệp chướng tiêu trừ, phước huệ to rộng. Những sự lợi ích ấy, không thể đem
tâm tư nghĩ ngợi suy lường. Nghi thức lễ Phật không tiện lập riêng cho người có
việc cần kíp, chỉ nên hết lòng thành khẩn, miệng xưng danh, thân cúi lạy, tưởng
như Phật hiện ở trước là được. Sống trong đời kiếp trược, chúng sanh tranh đua
giết hại lẫn nhau, nếu không có lá bùa hộ thân, chắc khó khỏi tai họa. Lá bùa
ấy, chính là chí thành lễ niệm Phật A Di Đà. Lại, đức Quán Thế Âm Đại Sĩ bi
nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ, tùy cơ cảm liền ứng hiện, ngoài thời hôm
sớm lễ Phật, nên thêm lễ niệm Đại Sĩ, tất sẽ được sự gia bị trong âm thầm, có
thể đổi họa làm phước, gặp rủi hóa may mà chính mình không tự biết.
Trên đây là lời kẻ quê mùa ở phương ngoại vì người tri kỷ lập phép cứu đời. Nếu
nói rằng 'vì tất cả thế gian', chẳng phải là không thể được, chỉ e người đời
không chịu y phương pháp thực hành, thì biết làm sao?
Thơ gởi Nữ Sĩ Từ Phước Hiền
Tôi dừng gót ở Phổ Đà đã hơn hai
mươi năm, đối với hàng Phật tử tại gia, chưa từng tới lui giao thiệp. Gần đây,
nhân có thầy Phước Nghiêm lên núi thăm, trong vòng không đầy tuần nhật, thầy
nhiều phen qua chỗ thất tôi ở nói về sự trinh tháo của nữ sĩ. Mỗi khi gợi đến
việc ấy, thầy lại tỏ vẻ bùi ngùi cảm động. Lúc đó tôi có tỏ bày ý kiến: Nữ sĩ
tuy trinh liệt đáng khen, nhưng tiếc vì không biết đường lối tu hành. Nếu cơn
nào rảnh tôi sẽ gửi lời khuyên nhắc, lược giải về cương yếu của môn niệm Phật,
để cho người tùy sức phần bước vào con đường Tịnh Độ. Nghiêm Sư nghe nói liền
tán thành và hết lời yêu cầu. Vì thế nên mới có bức thơ gửi cho nữ sĩ hôm nay.
Phật Pháp là pháp sẵn đủ nơi tâm của tất cả chúng sanh, người xuất gia tại gia
đều có thể thọ trì. Nhưng thân nữ có nhiều chướng duyên nếu lìa quê đi xa, rất
dễ bị người lấn hiếp. Vậy nữ sĩ chỉ nên ở tại nhà giữ giới niệm Phật, quyết chí
cầu sanh Cực Lạc, không cần phải lìa quê hương xuất gia làm Ni. Việc nghiên cứu
khắp kinh giáo, đi các nơi tham hỏi bậc minh sư là phần của người nam, nữ giới
bắt chước theo không tiện. Người nữ chỉ nên gắng tu tịnh nghiệp, chuyên trì
hiệu Phật, nếu có thể nhiếp cả sáu căn, nối luôn tịnh niệm, tự nhiên hiện đời
thân chứng Tam Muội, khi lâm chung lo gì không chiếm phẩm cao? Dù chưa chứng
Tam Muội, cũng được dự vào hải hội, gần gũi đức A Di Đà, rồi lần lần trở về
tánh bản chân, tự nhiên thông suốt vô biên giáo hải như tấm gương lớn soi rõ
muôn hình. Chừng ấy mặc ý cỡi thuyền đại nguyện, không rời An Dưỡng, hiện thân
ở cõi Ta Bà, cùng vô số phương tiện độ thoát loài hữu tình, khiến cho đều đến
Liên bang chứng Vô Sanh Nhẫn. „y mới khỏi phụ với chí quyết liệt tu trì ngày
hôm nay, mới đáng gọi là hoa sen sanh trong lửa, người nữ mà trượng phu đó!
Tu tịnh nghiệp, điều căn bản là phải quyết lòng cầu sanh Tây Phương. Cho nên
pháp môn Tịnh Độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tông chỉ. Tín là phải tin cõi Ta Bà
có vô lượng nỗi khổ, cõi Cực Lạc sự an vui không cùng! Nỗi khổ ở Ta Bà đại ước
có tám thứ: sanh, già, bệnh, chết, thương xa lìa, oán gặp gỡ, cầu không toại ý,
và năm ấm lẫy lừng. (Năm ấm lẫy lừng là chúng sanh đối với sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, khởi hoặc gây nghiệp như lửa cháy hừng). Sự vui ở Cực Lạc, nói về
thân thì hóa sanh trong hoa sen, tuyệt không già, bệnh, chết, thuần là người
nam; cho đến danh từ ác đạo hãy còn chẳng nghe, huống chi có thật? Nếu về cảnh
thì vàng ròng làm đất, bảy báu làm ao, hàng cây cao ngất trời, lầu các giữa
chừng không, và sự ăn mặc thọ dụng, khi tưởng đến đều được hóa hiện vừa ý,
không phải như ở cõi nầy do sức người tạo tác mà thành. - Cực Lạc, Phật A Di Đà
tướng đẹp vô biên, một khi trông thấy từ dung, liền chứng Pháp Nhẫn, đức Quán
Âm Thế Chí cùng Thanh Tịnh Hải Hội phóng ánh sáng trong sạch, đồng nói pháp
mầu. Thế nên, tuy là hàng phàm phu dẫy đầy nghiệp lực, nếu phát lòng tín nguyện
tha thiết, sẽ được nhờ Phật nhiếp thọ. Khi đã vãng sanh về cõi kia, thì nghiệp
ác phiền não đều tiêu tan, trí huệ công đức đều tròn đủ. Tin được như thế mới
gọi là lòng tin chân thật. Như muốn được biết rõ hơn, nên xem kỹ kinh: A Di Đà,
Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ. Những kinh nầy chuyên nói về duyên khởi sự
lý của Tông Tịnh Độ, cũng gọi là Tịnh Độ Tam Kinh. Ngoài ra các Kinh Đại Thừa
phần nhiều đều có nói về Tịnh Độ. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đức Như Lai mới
thành Chánh Giác, vì các bậc Pháp Thân Đại Sĩ ở bốn mươi mốt vị, xứng tánh nói
ngay pháp Nhất Thừa mầu nhiệm. Sau rốt, lúc ngài Thiện Tài đi tham hỏi khắp các
phương tri thức, chỗ chứng bằng chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát lại vì nói mười đại
nguyện vương, khuyên ngài Thiện Tài và hải chúng trong cõi Hoa Tạng hồi hướng
cầu sanh về thế giới Cực Lạc, để mau tròn đầy quả Phật. Trong Quán Kinh, chương
Hạ Phẩm Hạ Sanh có nói: 'Hạng người phạm tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các
việc không lành, khi sắp chết tướng địa ngục hiện, được bậc thiện tri thức
khuyên bảo niệm Phật, kẻ ấy vâng lời niệm chưa đầy mười câu, liền thấy Hóa Phật
đưa tay tiếp dẫn vãng sanh.' Kinh Đại Tập dạy: 'Đời mạt pháp ức ức người tu
hành nhưng ít có kẻ ngộ đạo, chỉ nương theo môn Niệm Phật mới được thoát luân
hồi.' Thế thì biết pháp niệm Phật là con đường đồng tu của thượng thánh hạ
phàm. Với pháp nầy, kẻ ngu người trí đều có thể làm theo, cách hành trì dễ mà
thành công cao, dùng sức ít song hiệu quả mau lẹ. Bởi môn Tịnh Độ chuyên nhờ
Phật lực nên sự lợi ích rất lớn, vượt hơn tất cả giáo pháp thông thường. Người
xưa nói: 'Tu các môn khác như con kiến bò lên núi cao, niệm Phật vãng sanh như
thuyền buồm xuôi theo gió nước.' Lời này có thể gọi là sự so sánh rất xác đáng,
rõ ràng.
Nếu muốn nghiên cứu nên xem bộ Yếu Giải Kinh A Di Đà của Ngẫu Ích Đại Sư trứ
thuật. Bộ nầy diễn tả sự lý đến chỗ cực điểm, là lời chú giải rất hay rất xác,
đứng vào bậc nhất từ khi Phật nói kinh ấy đến giờ, dù cho Cổ Phật tái hiện ra
đời chú giải lại cũng không hơn được. Vậy nữ sĩ chớ nên khinh thường, phải
triệt để tin theo. Về Kinh Vô Lượng Thọ, có lời chú sớ của Huệ Viễn Pháp Sư đời
Tùy, văn nghĩa rất rõ ràng. Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì có bộ Tứ Thiệp Sớ của
Thiện Đạo Hòa Thượng. Ngài Thiện Đạo muốn lợi khắp ba căn nên phần nhiều phát
huy về sự tướng. Sau chương Thượng Phẩm Thượng Sanh, Ngài chỉ rõ sự hơn kém của
hai lối tu chuyên và tạp, lại bảo phải sanh lòng tin bền chắc, dù đức Thích Ca
hoặc chư Phật hiện thân dạy bỏ môn Tịnh Độ tu theo các pháp khác, cũng không
dời đổi chí nguyện. Lời trên đây có thể gọi là cây kim chỉ nam của người tu
tịnh nghiệp. Đến như bộ Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao của bên Thiên Thai Tông thì
nghĩa quá viên dung mầu nhiệm, người căn cơ trung, hạ khó được lợi ích, vẫn
không bằng bộ Tứ Thiệp Sớ lợi khắp ba căn. Đã biết những nghĩa lý trên đây, cần
y theo đó tin chắc. Chỗ chính mình hiểu đến thì tin đã đành, dù chỗ mình chưa
hiểu đến cũng vẫn tin. Phải biết pháp môn Tịnh Độ do nơi kim khẩu của Phật nói
ra, chớ nên đem sự suy lường không thấu đáo của tình phàm mà sanh lòng nghi
hoặc. Tin như thế mới gọi là chân tín.
Đã tin chắc rồi, cần phải phát nguyện lìa cõi Ta Bà như tù nhân mong ra khỏi
ngục, nguyện sanh về Cực Lạc như viễn khách nhớ quê xưa. Nếu chưa được sanh
Tịnh Độ, dù có ai đem ngôi báu của Thiên Vương dâng cho, cũng xem là nhân duyên
đọa lạc, không móng một niệm ưa thích. Cho đến việc: đời sau đổi thân nữ ra
nam, tuổi trẻ xuất gia, nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, cũng nên xem đó là
đường lối tu hành quanh quẩn, không sanh lòng mong ước, chỉ muốn khi lâm chung
được Phật tiếp dẫn về Tây Phương mà thôi. Khi được vãng sanh, tất sẽ thoát vòng
sanh tử, vượt cảnh phàm vào cõi thánh, ở hàng bất thoái, chứng quả Vô Sanh.
Chừng ấy nhìn lại mới biết ngôi vua ở cõi trời, người, cho đến việc tái sanh
xuất gia làm tăng, là sự nhọc nhằn nhiều kiếp, không biết chừng nào mới được
giải thoát. Rồi so sánh lại, thấy những điều ấy đối với phẩm sen của mình ngày
nay, không khác nào lửa đóm cùng vầng nhật rạng và con kiến bò lên núi Thái
Sơn! Cho nên, người tu Tịnh Độ quyết không nên cầu phước báo ở cõi trời, người,
và đời sau trở lại xuất gia làm tăng. Nếu có mảy may những niệm ấy, tức không
phải tin sâu nguyện thiết, ngăn cách với lời từ thệ của đức A Di Đà, không được
cảm ứng và nhờ Phật tiếp dẫn. Thật đáng thương lắm! Đáng tiếc lắm! Nỡ đem hạnh
mầu không thể nghĩ bàn, cầu lấy quả vui hữu lậu để khi hưởng hết phước rồi lại
bị sa đọa, theo giòng hoặc nghiệp, chịu sự khổ vô cùng ư? Trong vị đề hồ nếu để
thuốc độc, chất ngon ngọt ấy sẽ giết người; tu Tịnh Độ mà không khéo dụng tâm
thì sự tai hại cũng y như thế! Vậy phải dứt tuyệt những niệm lỗi lầm như trên,
mới có thể hoàn toàn thọ dụng sự lợi ích của môn Tịnh Độ.
Đã tin sâu nguyện thiết, lại cần phải chấp trì sáu chữ hồng danh 'Nam Mô A Di
Đà Phật.' Không luận lúc đi, đứng, ngồi, nằm, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, ăn
cơm, cho đến khi đại tiểu tiện, đều giữ chắc sáu chữ ấy nơi tâm (hoặc trì bốn
chữ cũng được). Phải gắng làm sao cho mỗi niệm đều hiện tiền, toàn Phật là tâm,
tâm Phật như một, niệm cho đến chỗ chí cực quên cả trần tình. Chừng ấy lòng
không, Phật hiện, đương đời có thể thân chứng Niệm Phật Tam Muội, đến khi lâm
chung sanh về Thượng Phẩm. Tu trì như thế có thể gọi là dùng hết công năng vậy.
Đến như trong công việc hằng ngày, có mảy may điều lành và các công đức tụng
kinh lễ Phật, đều đem hồi hướng vãng sanh. Như thế thì tất cả hành môn đều là
trợ hạnh của Tịnh Độ, như gom cát bụi thành đất, họp sông ngòi thành biển, sự
sâu rộng sẽ vô cùng. Lại cần phải phát lòng Bồ Đề, thề độ chúng sanh, đem công
tu hồi hướng bốn ân ba cõi và loài hữu tình trong pháp giới. Đó là rộng kết
pháp duyên với tất cả chúng sanh, như lửa thêm dầu, mạ được mưa, làm cho thắng
hạnh Đại Thừa của mình sớm mau thành tựu. Nếu không biết nghĩa nầy thì thành ra
kiến chấp tự lợi của phàm phu, Nhị Thừa, tuy tu hạnh mầu, cảm quả rất thấp kém.
Dù rằng trong sự niệm Phật, tất cả thời, tất cả chỗ đều không ngại, nhưng cũng
phải thường giữ lòng kính sợ, lại phải trọng tượng Phật như Phật sống, xem Kinh
Phật lời Tổ như Phật, Tổ đối trước mình thuyết pháp, không dám có chút khinh
mạn nghi ngờ. Lúc bình thường niệm Phật hoặc thầm hay ra tiếng tùy ý, song
những khi nằm ngủ, đại tiểu tiện, tắm gội, rửa chân và đi ngang qua chỗ không
nghiêm sạch, đều phải niệm thầm, nếu ra tiếng tức là không cung kính. Nên biết,
niệm thầm công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Tôi thường nói: muốn được sự
lợi ích thiết thật trong Phật Pháp, phải tìm nơi lòng cung kính, có một phần
cung kính thì tiêu một phần tội nghiệp, thêm một phần phước huệ; có mười phần
cung kính, tiêu mười phần tội nghiệp, thêm mười phần phước huệ. Nếu không cung
kính, tuy cũng gieo viễn nhân, nhưng ác quả của tội khinh lờn thật chẳng thể
tưởng nghĩ! Người tại gia đời nay trong khi đọc Kinh Phật đều phạm bệnh này,
nên với kẻ hữu duyên, tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi.
Niệm Phật cần phải nhiếp tâm niệm do tâm khởi, tiếng từ miệng ra, mỗi câu mỗi
chữ đều rành rẽ, rõ ràng. Lại phải lắng tai nghe kỹ, in câu niệm Phật vào tâm.
Nếu nhiếp nhĩ căn thì các căn kia không còn buông chạy theo bên ngoài, mới có
thể mau được nhất tâm bất loạn. Đại Thế Chí Bồ Tát bảo: 'Nhiếp cả sáu căn, tịnh
niệm nối luôn, được Tam Ma Địa, đây là bậc nhất', chính là ý này. Đức Văn Thù
nói: 'Nghe vào, nghe tánh mình. Tánh thành đạo vô thượng', cũng đồng một nghĩa
trên đây. Rất không nên cho phép Trì Danh là cạn cợt, rồi tu theo các phép:
Quán Tưởng, Quán Tượng, Thật Tướng. Trong bốn phép niệm Phật chỉ có môn Trì
Danh là rất hợp cơ, nếu giữ đến một lòng không loạn, thì lý mầu thật tướng toàn
thể lộ bày, cảnh lạ Tây Phương hiện ra rõ rệt. Cho nên tức nơi Trì Danh mà
chứng được thật tướng, không cần quán tưởng cũng thấy Tây Phương; một pháp Trì
Danh chính là cửa mầu vào đạo, con đường thẳng tắt đến quả Bồ Đề. Người đời nay
phần nhiều không hiểu về giáo lý của phép Quán, nếu tu theo Quán Tưởng, Thật
Tướng, hoặc có khi bị ma dựa vào. Vậy tốt hơn là nên lựa hạnh dễ tu, cũng cảm
được quả nhiệm mầu, đừng học khéo thành vụng, cầu siêu trở lại bị đọa, thì đáng
tiếc lắm!
Quyển Tịnh Độ Thập Yếu do Ngẫu Ích Đại Sư dùng mắt Kim Cang, lựa lấy những đoạn
hợp lý hợp cơ trong các kinh sách Tịnh Độ mà làm thành, đáng liệt vào bậc nhất.
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ghi chép những hạnh nguyện trong nhân, công đức trên quả
của Phật A Di Đà cùng các vị Bồ Tát: Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Minh, Long Thọ. Kế đó lại ghi việc tự tu dạy người của các bậc Tổ Sư, thiện tri
thức, như ngài Huệ Viễn, Trí Giả, cùng những sự tích vãng sanh của bốn chúng và
hàng vua, quan, sĩ, thứ, phụ nữ, người tội ác, loại súc sanh. Trong ấy có phụ
vào những ngôn luận thiết yếu, khiến cho người xem có chỗ nương tựa, không còn
nghi ngờ. Đọc quyển này, có thể lấy người xưa làm thầy, mà gắng tu tịnh nghiệp,
so với sự đi tham hỏi các bậc tri thức, lại càng thân thiết hơn. Bộ Long Thơ
Tịnh Độ Văn phân loại về các môn tu trì, cạn lời khuyên tỏ, khiến cho người dứt
nghi sanh lòng tin, là một pho sách rất hay để dẫn dắt kẻ sơ cơ. Ba thứ trên
đây và Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Quán Kinh Tứ Thiệp Sớ, cộng lại là năm, trước kia
tôi đã nói với thầy Phước Nghiêm thỉnh giùm gửi đến, không biết nữ sĩ có được
chăng? Nếu không, xin hồi âm, tôi sẽ do nhà bưu cục gởi tặng. Được mấy thứ sách
ấy, có thể biết đủ các nghĩa tông Tịnh Độ, dù không xem khắp các kinh cũng
chẳng hại gì! Nếu không rõ pháp môn Tịnh Độ, giả sử có hiểu sâu ba Tạng Kinh,
ngộ suốt tự tâm chăng nữa, muốn thoát vòng sanh tử, còn trải qua không biết bao
nhiêu đại kiếp mới làm tròn bổn nguyện. Niệm Phật như thuốc A Dà Đà trị hết
muôn bệnh, pháp môn kỳ diệu như thế mà không biết, há chẳng đau tiếc lắm ư?
Biết mà không tu, và tu mà không chuyên tâm gắng chí, lại càng đáng đau tiếc
hơn nữa!
Người nữ ra khỏi nhà có nhiều chướng duyên, huống chi thêm sự độ dụng khó khăn,
lại càng bất tiện. Nếu là người nam xuất gia làm tăng, còn phải vào thiền đường
học nghi tắc cho biết quy củ nhà chùa, rồi đi du phương mới không trở ngại.
Chẳng thế thì cả mười phương tòng lâm, không ở chỗ nào được. Việc thọ giới đối
với nữ nhơn, như người gia tư đầy đủ có thể tự chủ, cũng nên đi đến chùa xin
thọ, bằng không dư giả, hà tất phải cố định như thế! Chỉ cần một lòng tha thiết
chí thành, đối trước bàn Phật sám hối bảy ngày, tự thệ xin thọ giới. Sám hối
đến ngày thứ bảy xong, quì trước Phật xướng rằng: 'Đệ tử là Phước Hiền thề thọ
năm giới, làm mãn phần Ưu Bà Di. (Ưu Bà Di dịch là Cận Sự Nữ, mãn phần là giữ
trọn năm giới). Thề suốt đời không giết hại, suốt đời không trộm cắp, suốt đời
không dâm dục, (nếu có gia đình thì nói không tà dâm), suốt đời không nói dối,
suốt đời không uống rượu.' Nói như thế ba lần, tức là đắc giới. Điều cần yếu là
phải hết lòng thọ trì, thì công đức sánh với sự cầu chư tăng truyền giới cho
vẫn không hơn kém. Chớ nên nghi rằng thọ giới như thế không đúng pháp, phải
biết cách thức trên đây là do theo thánh huấn của Như Lai trong Kinh Phạm Võng.
- Phổ Đà, mùa thu không có truyền giới, chỉ truyền vào khoảng thượng tuần tháng
giêng đến mười chín tháng hai thôi. Nhưng rất mong nữ sĩ ở yên nơi nhà tu tịnh
nghiệp đừng bôn ba sương tuyết đến đây làm chi. Nếu còn chấp trước không đổi ý,
ấy là chẳng biết điều hay dở, đã hại sự thanh tu của chính mình, lại phụ lời
thành thật của lão tăng nầy nữa. Tôi muốn cho nữ sĩ hiện đời thành tựu đạo
nghiệp, quyết không có ý chi làm ngăn trở pháp duyên, xin nghĩ kỹ sẽ tự rõ. Đến
như việc không được xuất gia ý muốn quyên sinh, xét ra chí nguyện tuy có mãnh
liệt, nhưng tâm niệm ấy thật là si cuồng. Giữa thời mạt pháp này, kẻ chơn tu
rất ít, mấy ai là bậc hạnh giải cao siêu kham làm thầy dẫn dắt cho người? Nữ sĩ
chỉ biết xuất gia làm ni là giải thoát, nhưng chưa rõ nhiều nỗi chướng ngại của
ni tăng. Và, cũng đừng tưởng rằng quyên sinh là rảnh nợ đời đâu? Một khi chết
rồi, thần thức sẽ bị nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai, còn e do tâm niệm phẫn uất
ấy, bị sa đọa vào loài bàng sanh, muốn trở lại làm thân người nữ cũng là việc
cầu may khó được. Dù cho lại được làm thân người nữ, hoặc thân nam, hay là thân
vua chúa cõi người, cõi trời, đâu có bảo đảm còn gặp Phật Pháp mà tu hành? Và
đâu chắc rằng ở trong Phật Pháp lại hân hạnh gặp môn Tịnh Độ là một pháp hiện
đời vượt thoát vòng sanh tử? Dù có gặp được nữa, cũng đâu bằng bây giờ cứ nhẫn
nại yên sống mà tu trì, đợi đến khi hết báo thân liền sanh về cõi Cực Lạc? Tôi
đã cạn lời khuyên nhắc, thử hỏi từ trước đến nay có ai vì nữ sĩ chỉ rõ sự lợi
hại ấy chăng? Nếu không y như lời lão tăng, tức là phụ ơn dạy bảo, sự khổ về
sau sẽ còn gấp bội hơn ngày hôm nay nữa!
'Đường đạo tuy bằng song khó dắt. Phải do nơi kẻ quyết lòng đi.' Vậy nghe cùng
không, nữ sĩ tự nên suy xét. Xin nhờ đem những lời trên đây chuyển lại cho
trinh nữ Phước Liên được biết.
Thơ khuyên dạy một vị Tỳ Kheo Ni
Đêm ngày thấm thoắt, mùa tiết đổi
dời, thời gian chuyển biến âm thầm, không giây phút nào dừng nghỉ! Có phải tạo
vật hiện ra tướng lưỡi rộng dài, diễn nói pháp mầu, cho chúng sanh nhận thấy
kiếp người vô thường, vinh hoa giả tạm, mau tìm đường giải thoát để khỏi bị
trầm luân đó ư? Ngươi đã chán mùi phú quí, tìm học đạo mầu, phải gắng sức
chuyên tu, chớ nên lần lựa qua ngày, vì mạng người chỉ mong manh trong hơi thở.
Nên xét tự thân tuy là ngũ chướng, song tâm tánh vẫn đủ ba đức niết bàn, mà cố
rửa sạch tập tánh người nữ và chuyên trì thánh hiệu đức A Di Đà. Thường tưởng
nghĩ cõi Ta Bà rất nên nhơ ác, miền Cực Lạc chính là chốn gia hương, chớ mong
phước báo hiện tại hoặc đời sau, chỉ nguyện khi mạng chung được về Cực Lạc. Nếu
sớm chiều tha thiết, mỗi niệm không rời, niệm đến công sức thuần thục, tự nhiên
đạo cảm ứng thông nhau, khi lâm chung chắc sẽ được toại nguyện. Lúc đã về Tịnh
Độ, tỏ ngộ lý vô sanh rồi, nhìn lại cõi Ta Bà, thấy sự vinh hiển giàu sang
chẳng khác nào ánh nắng, hoa không và ngục tù, biển độc! Nhưng muốn đạt chí
nguyện, điều cần yếu là trước phải dứt trừ tập nhiễm mới dễ thành tựu sự vãng
sanh. Kinh Phật thường nói: 'Người giàu sang khó học đạo, người nữ cũng khó học
đạo.' Bởi người giàu sang phần nhiều hay quen tánh kiêu mạn, xa xí, ít chịu
nhún nhường để xét sửa mình và tiếp đãi người. Như thế, đâu dễ dứt mối âu lo,
xóa tan trần niệm, để cõi lòng vắng mà cầu đạo ư? Người nữ thì ưa sửa soạn dung
nghi, thường đem lòng đố kỵ, đâu biết rằng dù cho hương trời sắc nước, vẫn là
túi phẩn đẫy nhơ; đã luyến huyễn hình, làm sao ngộ đạo? Đức Như Lai vì trị
những chứng bệnh ấy, chỉ dạy phép quán Tứ Niệm Xứ, quán thân không sạch, thọ là
khổ, tâm vô thường và pháp vô ngã. Nếu thành tựu phép quán nầy, thì lòng tập nhiễm
luyến sắc thân, cậy quyền thế, sẽ tiêu diệt như điểm tuyết giữa lò hồng.
Ngươi dẫu là người nữ dòng trâm anh đi xuất gia, cần phải trừ sạch tập tánh
kiêu xa, trang điểm, khiến cho không còn mảy may nào, về sau mới có phần thoát
khổ. Hiện nay chánh pháp suy yếu, ma ngoại tung hoành, khó gặp được thầy hay
bạn tốt, phải tìm thầy bạn trong gương mẫu của người xưa. Nên đọc kỹ những
quyển: Tỳ Kheo Ni Truyện, Thiện Nữ Nhơn Truyện, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục, mới tìm được những tấm gương sáng, không còn sợ lạc vào đường tà. Gần
đây tăng ni ít bậc thanh tu, phần nhiều là kẻ không đúng phép, chẳng nên lạm
thâu đồ chúng, để tránh sự hư rối trong đạo Phật. Lại giữ mình theo thanh quy,
gắng sức tu tịnh nghiệp, làm sao cho khi sống thành người khuôn mẫu, lúc thác
dự hội Liên Trì. Như thế mới không phụ chí vượt ra hầm lửa muôn tầm, mới chẳng
uổng làm con của Phật. Phải cương quyết cố gắng, chớ quên lời ta!
Thơ gởi Đế Nhàn Pháp Sư
Ấn Quang từ lúc mới xuất gia liền
tin pháp môn Tịnh Độ, nhưng vì nghiệp chướng che lấp, trong hai mươi năm nay,
ngày luống qua ngày. Nghĩ những thẹn khi tự thấy miệng tuy niệm Phật, song lòng
không nhiễm đạo! Gần đây, nhờ ơn Pháp Sư khuyên nhắc, xin thề không dám để phụ
tấm lòng chiếu cố, xót thương. Chỉ khổ nỗi hôn trầm, tán loạn thay nhau đánh
đổ, đạo lực không thêm được chút nào, lối cũ vẫn còn nguyên dấu cũ. Cho nên mỗi
ngày tôi xem hơn mười tờ tịnh điển, mong nương theo ngôn hạnh sáng suốt của
người xưa để phát lòng thẳng tấn.
Pháp môn Bảo Vương Tùy Tức, tôi thử dùng thì thấy vọng niệm không còn sôi nổi
như lúc trước, tưởng rằng lâu ngày chắc cũng có lúc được nhìn cảnh mây tạnh
trời trong. Tôi tra trong Lạc Bang Văn Loại và Thánh hiền Lục đều thấy có chép
đoạn này, bỗng chợt hiểu phép Thập Niệm mượn hơi nhiếp tâm của ngài Từ Vân là
căn cứ ở nơi đây. Và, trong bộ Liên Tông Bảo Giám cũng có nói đến nữa. Như thế
đủ thấy người xưa liệu biết cơ nghi đời mạt pháp, nếu phi phương pháp nầy chắc
khó nỗi gia công, nên đã dự lập ra trước. Nhưng cổ nhơn ít ai đem môn Bảo Vương
Tùy Tức để giáo hóa, vì thuở trước căn tánh người còn sáng lẹ, một khi phát
lòng quả quyết, tự được nhất tâm. Đời nay, người chướng nặng căn độn như tôi, e
đến chết cũng không được cảnh giới không loạn. Vì thế, tôi không dám giấu sự dở
riêng của mình, mong thỉnh ý nơi bậc cao minh; vậy có nên thực hành cùng chăng,
xin nhờ chỉ rõ? Tôi lại nghĩ: phép này nhiếp cả Ngũ Đình Tâm Quán, nếu có thể
theo hơi thở mà niệm, tức là gồm đủ hai môn: Sổ Tức và Niệm Phật. Nếu nhiếp tâm
niệm Phật thì lòng tham nhiễm lần lần dứt tuyệt, sân hận không còn lẫy lừng,
khi hôn trầm tán loạn đã lui, trí huệ liền hiện mà phá luôn cả si mê nữa. Pháp
môn nhiếp sáu căn của đức Thế Chí, theo ngu ý thì những người niệm Phật lơ là
hiện thời, dường như chẳng nên dùng, vì nếu không lần chuỗi ghi số, họ sẽ trở
thành biếng trễ. Khác hơn thế, những ai quyết tâm niệm Phật, nếu bỏ phép này,
nhất định khó thành Tam Muội.
Pháp Sư nương bản nguyện lợi sanh, tự mình tuy không dùng, nhưng cũng nên vì
người thí nghiệm, để dạy kẻ hậu lai. Phép nhiếp sáu căn với bậc lợi cơ, trong
một hai thất, quyết sẽ được không loạn. Dù cho hạng ngu kém như tôi, nếu cố gia
công hoặc tám năm hay mười năm, tưởng may ra có thể được nhất tâm.
Một bức thơ phúc đáp khắp nơi
Lời văn tuy quê thật, nhưng nghĩa lý
vẫn căn cứ trong kinh.
Nếu có ai y theo đây mà làm, sự lợi ích sẽ rộng lớn vô cùng!
Ấn Quang Pháp Sư
- 1 -
Pháp môn Tịnh Độ trùm khắp cả ba căn, gồm thâu hàng lợi độn, là đại pháp của
đức Như Lai, để mở phương tiện cho tất cả thánh phàm đều được giải thoát sanh
tử, lên ngôi Bất Thối ngay trong hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt nầy mà
không tin không tu, thật là đáng thương, đáng tiếc!!
Pháp môn Tịnh Độ lấy tín, nguyện, hạnh làm tông chỉ.
Tín là ta phải tin cõi Ta Bà có vô lượng sự khổ; tin cõi Cực Lạc có vô lượng
điều vui; tin ta là phàm phu đầy nghiệp lực, quyết không thể nương cậy vào sức
mình để dứt hoặc chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di
Đà có lời thề nguyền rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu về
nước Ngài, khi mạng chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện là ta nên nguyện mau ra khỏi thế giới nầy, nguyện sớm sanh về cõi vui
kia.
Hạnh là ta phải chí thành khẩn thiết niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi thời mỗi
khắc đừng để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh gấp hoãn lập một khóa trình, sớm tối
lễ bái trì tụng trước bàn Phật. Ngoài thời khóa tụng, những khi đi đứng nằm
ngồi và làm những công việc không dụng tâm, đều nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ
phải niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật để dễ nhiếp
tâm. Lại, những khi y phục không chỉnh tề, hoặc giặt rửa, tắm gội, đại tiểu
tiện, cho đến lúc đi ngang qua chỗ không sạch sẽ, cũng đều phải niệm thầm. Chí
tâm niệm thầm, công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Trong những lúc ấy nếu
niệm ra tiếng thì chẳng hợp nghi thức và có lỗi không cung kính. Không luận
niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hoặc niệm thầm, đều phải trong tâm ghi
nhớ rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng và hai tai nghe rành rẽ rõ
ràng. Niệm như thế thì tâm không còn dong ruổi theo cảnh ngoài, vọng tưởng lần
dứt, câu niệm Phật lần thuần, công đức rất lớn.
- 2 -
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không
giết hại, tu mười nghiệp lành (Thân không sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng
không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung ác; ý không tham dục, giận
hờn, ngu si, tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con thảo, anh em thương kính,
chồng vợ thuận hòa, chủ nhân, tớ trung, mỗi người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ
nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền trách người khác đối với mình có
trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia đình xã hội làm tròn thiên chức, đó
là người lành. Người lành mà niệm Phật thì dễ có cơ cảm, quyết định khi lâm
chung được Phật tiếp dẫn sanh về Tây Phương vì tâm hạnh hợp với Phật. Trái lại,
những ai miệng tuy niệm Phật, song lòng không nhiễm đạo, đối với cha mẹ, anh
em, vợ chồng, con cái, bạn bè làng xóm không tròn bổn phận, thì tâm hạnh trái
với Phật, khó được vãng sanh. Tại sao thế? Bởi người ấy tâm không điềm tịnh
thuần hòa, tự sanh ra mối não phiền chướng ngại, nên khó được cảm thông với
Phật, đó cũng là lẽ tất nhiên.
- 3 -
Người niệm Phật nên khuyên thân bằng quyến thuộc và tất cả đồng nhân đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (Mỗi ngày như niệm Phật 1.000 câu thì niệm Quán Âm 500 câu, niệm Phật 10.000 câu thì niệm Quán Âm 5.000 câu. Niệm nhiều ít so theo đây mà gia giảm). Ta đã tìm được con đường giải thoát yên ổn, lại nỡ nào để cho đấng sanh thành, người quyến thuộc cùng tất cả đồng nhân mất sự lợi ích lớn, chìm trong biển khổ ư? Huống chi giữa cõi đời nhiều hoạn nạn, khó tránh sự hiểm nguy như hiện nay, nếu có thể thường niệm Phật và Quán Âm, tất sẽ được lượng từ bi ủng hộ, gặp dữ hóa lành. Giả sử không tai nạn mà chí tâm trì niệm, cũng sẽ được nghiệp tiêu trí sáng, chướng hết phước nhiều. Hơn nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tức là thành tựu kẻ phàm phu làm Phật, công đức rất lớn, đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh tất sẽ mãn nguyện.
- 4 -
Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ
nghèo, tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, không nên
cầu hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người, trong hiện tại hoặc đời sau. Nếu có
tâm niệm ấy thì mất phần vãng sanh và phải bị chìm đắm trong biển luân hồi khổ
não. Nên biết, hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn, qua một đời sau
nữa quyết khó khỏi đọa vào đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Chừng ấy muốn trở
lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của môn Tịnh Độ, còn khó
hơn lên trời. Phật dạy chúng sanh niệm Phật cầu về Tây Phương, là vì chúng sanh
mà giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong hiện kiếp. Nếu chỉ cầu đời sau hưởng
phước báo ở cõi nhân thiên tức là trái với lời Phật dạy, như đem hạt bảo châu
vô giá đổi lấy một thẻ đường để ăn, há chẳng đáng tiếc lắm ư? Kẻ tối tăm niệm
Phật không cầu vãng sanh mà cầu hưởng phước báo, cũng như đây không khác.
- 5 -
Người niệm Phật không nên tập theo lối tham cứu của nhà tu thiền. Vì kẻ tu thiền hầu hết đều không chú trọng về việc tín nguyện vãng sanh. Dù có niệm Phật, họ chỉ chú trọng vào câu 'Niệm Phật đó là ai?' để cầu khai ngộ mà thôi. Ta chỉ nên niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khi được thấy đức A Di Đà lo gì không khai ngộ? Nếu ở cõi này tu thiền, như hoặc nghiệp dứt hết thì có thể thoát sanh tử; thảng như hoặc nghiệp chưa dứt thì đã không thể cậy vào sức mình để giải thoát, lại vì không tín nguyện nên không được nương nhờ sức Phật ra khỏi luân hồi. Hai bên tự lực và Phật lực đều không nhờ cậy được, người ấy đâu thể nào thoát khỏi trần lao? Nên biết bậc pháp thân Bồ Tát khi chưa thành Phật đều phải nhờ oai lực của Phật, huống chi ta là phàm phu đầy nghiệp chướng mà ưa luận về sức mình, không cầu sức Phật ư? Lời ấy tuy cao, song xét lại hành vi thật là thấp kém! Sự hơn kém của Phật lực và tự lực khác xa nhau như trời vực, nguyện đồng nhân nên thể tất nghĩa nầy!
- 6 -
Người niệm Phật không nên bắt chước
kẻ ngu tối, làm những việc hoàn thọ sanh, gởi kho. Bởi sự hoàn thọ sanh, trong
Kinh Phật không có nói, do người sau bày đặt ra. Còn gởi kho là muốn cho mình
khi chết rồi thành quỉ, nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỉ dùng. Đã
có tâm niệm muốn làm quỉ thì khó được vãng sanh. Như người nào chưa làm thì
thôi, nếu đã làm, phải bạch rõ trước bàn Phật như vầy: 'Đệ tử là... chỉ cầu
vãng sanh, những đồ minh khố đã gởi khi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn.' Như
thế mới không chướng ngại cho sự sanh về cõi Phật.
Lại những thứ kinh: Thọ Sanh, Huyết Bồn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương,
Thai Cốt, Phân Châu, Diệu Sa... đều là kinh ngụy tạo, không phải kinh của Phật
nói, không nên trì tụng. Những kẻ quê tối, không chịu tụng Kinh Đại Thừa (như
các kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp
Hoa, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v...) mà chỉ
tin các thứ kinh ngụy tạo ấy, muốn làm những việc hoàn thọ sanh, phá địa ngục,
phá huyết hồ, mới yên tâm. Nếu có người hiểu Phật Pháp khuyên bảo nói đó là
những kinh ngụy tạo, họ cũng không nghe lời. Nên biết, làm các Phật sự, chỉ có
niệm Phật là công đức rộng lớn, nên đem số tiền hoàn thọ sanh, phá địa ngục,
phá huyết hồ ấy, thỉnh những vị tăng chơn chánh niệm Phật cho, thì được lợi ích
rất nhiều.
- 7 -
Người niệm Phật nên ăn chay trường, như chưa được thế, thì giữ lục trai hoặc
thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sanh, mới là hợp lý. Lục
trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó mấy ngày: mùng 1,
18, 24, 28 thì thành ngày thập trai. Những tháng thiếu, nên ăn trước một ngày.
Lại, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai nguyệt, nên ăn chay trường
và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua thịt cá đã làm
sẵn, chớ sát sanh trong nhà. Nếu mỗi ngày sát sanh thì cái nhà ấy đã thành lò sát
sanh, là chỗ oan quỉ tụ hội, không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là
điều rất cấm kỵ.
- 8 -
Người niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Muốn cho cha
mẹ khi lâm chung quyết định được vãng sanh, thì phải dặn trước người quyến
thuộc về cách trợ niệm và chớ nên khóc lóc cùng bày vẽ những điều vô ích. Lại,
lúc bình thời phải vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của môn niệm Phật khiến cho
song thân thường niệm không quên. Thế thì chẳng những cha mẹ được lợi ích, mà
quyến thuộc hiện tại hoặc con cháu đời sau cũng được ảnh hưởng giải thoát an
lành. Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già trẻ, đều phải làm
đúng như thế.
- 9 -
Người nữ khi sắp sanh thường bị đau khổ không kham, có khi vài ngày sanh không
được, hoặc chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị huyết băng và
nhiều bệnh nguy hiểm. Đứa con sanh ra thì bị các chứng cấp nạn, kinh phong
v.v... Cho nên, người nữ lúc sanh sản, nên chí thành khẩn thiết niệm Nam Mô
Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm, vì niệm
thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Lại trong lúc ấy sản phụ đang
dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang bệnh. Nếu chí
thành khẩn thiết mà niệm, quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa
con sẽ khỏi bệnh kinh phong, và các chứng nguy hiểm khác. Dù gặp trường hợp khó
sanh, có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng phải đồng
to tiếng niệm Quán Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác, đều phải vì sản phụ
niệm giúp. Như thế, không đầy giây phút, sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Kẻ
ngoại đạo không rõ lý nầy, chấp chặt một việc cung kính, chẳng biết căn cứ theo
sự mà luận lý, khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem sanh sản là việc đáng sợ, cho
đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc, huống chi là niệm Quán
Âm? Nên biết Bồ Tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản, tuy lõa lồ không
sạch, nhưng đó là việc dĩ nhiên, không phải mình tự ý buông lung, nên niệm đã
không có tội lỗi, mà lại khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn lành. Nghĩa
nầy trong Kinh Dược Sư đã có nói, không phải tự tôi đưa ra điều ức kiến.Ấn
Quang nầy chỉ là người đề xướng mà thôi.
- 10 -
Người nữ từ mười hai, mười ba tuổi đến bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi, đều có
nguyệt kinh. Có kẻ bảo: trong lúc nguyệt kinh, chẳng nên lễ bái trì tụng. Lời
này rất không hợp tình lý. Thời kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến sáu
bảy ngày mới dứt; người tu trì cần phải niệm Phật không xen hở, đâu nên vì một
chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời tu niệm ư? Khi có nguyệt kinh chỉ nên
lễ bái ít (lễ bái ít chớ chẳng phải tuyệt nhiên không lạy), còn sự tụng kinh
niệm Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải rửa tay
cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Trong Phật
Pháp, pháp pháp đều viên thông, hàng ngoại đạo chỉ chấp một bên lý, người đời
phần nhiều lại ưa tin lời ngoại đạo, không rõ chánh lý Phật giáo, nên không
được thấm nhuần pháp lợi.
- 11 -
Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai
nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia,
thú dữ, rắn độc, ác quỉ, yêu mị, nghiệp binh, kẻ tiểu nhơn hãm hại v.v... nếu
phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán
Thế Âm không xen hở, thì quyết định sẽ được nhờ sức từ bi ủng hộ tránh khỏi tai
nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là gieo chút
căn lành về sau, không được sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ Tát thành tựu
niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như không phát
tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ Tát, để cầu cho
việc ác của mình thành tựu thì quyết không được cảm ứng. Rất không nên phát tâm
điên đảo ấy.
Đã niệm Phật, cần phải giữ trọn nhơn luân, gìn lòng thành kính, dứt các điều
dữ, làm các việc lành, giữ lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Việc nào mình
làm được thì thiết thật mà làm, như không làm được cũng nên phát lòng lành ấy,
hoặc khuyên người có thế lực làm, hoặc thấy người làm sanh tâm vui đẹp. Thốt
lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và miệng. Nếu việc mình
không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh lòng ganh ghét, đó là tâm
hạnh của kẻ tiểu nhơn. Như thế, quyết định phải bị mất phước tổn thọ, không
được kết quả tốt, cần để ý răn chừa. Rất không nên giả mặt hiền lương để mua
danh chuốc lợi, tâm hạnh ấy quỉ thần đều ghét, có thì mau cải, không thì nên cố
gắng làm lành.
- 12 -
Có nhiều người nữ vì không rõ chánh lý, hoặc bất hiếu với cha mẹ chồng, khi dể chồng, quá cưng yêu chiều chuộng con, ngược đãi tôi tớ, hoặc là mẹ ghẻ hiếp đáp hành hạ con riêng của chồng. Những người ấy đâu biết rằng: hiếu thảo với cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy dỗ con cái, ra ân huệ cùng hàng tôi tớ, an ủi nuôi dạy con riêng của chồng, chính là đạo thánh hiền ở thế gian mà cũng là phép tắc đầu tiên của đạo Phật. Nếu có đủ công đức ấy mà tu Tịnh Độ, thì quyết định danh dự thêm nhiều, phước thọ bền vững, khi mạng chung được Phật tiếp dẫn về chín phẩm sen. Nên biết đã có nhân phải có quả, nếu ta gieo nhân hiếu kỉnh từ ái, tự nhiên sẽ được quả hiếu kỉnh từ ái. Vì người tức là vì mình, hại người còn quá hơn hại mình, cho nên mỗi người đều phải làm tròn bổn phận, Phật trời tất sẽ chứng tri.
- 13 -
Trẻ con khi vừa khôn lớn, phải dạy cho chúng biết đạo lý hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ và việc ba đời nhân quả, sáu nẻo luân hồi. Như thế là làm
cho chúng hiểu tâm của mình cùng tâm chư Phật, Bồ Tát, trời đất, quỉ thần, mỗi
hơi thở thông nhau. Nếu khởi một niệm bất chánh, làm một việc không phải, thì
các vị ấy thảy đều biết, như đối trước gương sáng, hình ảnh tốt xấu hiện ra rõ
ràng, không che giấu được. Đã hiểu như thế, tất nhiên chúng sẽ sợ hãi, gắng sức
làm lành. Chẳng luận người nào, dù là con cái tôi tớ trong nhà cũng không nên
đánh đập mắng chửi thô tháo. Phải tìm cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết
phụng thờ bậc trên, nhường thuận kẻ dưới, kính trọng giấy chữ, chẳng xài phá
cơm gạo, quần áo, của tiền, yêu tiếc sanh mạng loài trùng kiến, không ăn vặt
vạnh để khỏi mang bệnh. Nếu dạy được như thế, thì một ngày kia quyết định chúng
sẽ thành người lương thiện. Trái lại lúc con cháu còn thơ ấu, cha mẹ chẳng chịu
dạy dỗ, để mặc cho chúng buông lung, khi lớn lên nếu chúng nó không là kẻ dung
ngu, cũng là hàng phỉ loại. Chừng ấy dù có ăn năn cũng vô ích. Lời xưa nói:
'Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài' (Dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy lúc
ban sơ mới về), tánh tình phần lớn là do ảnh hưởng của tập quán, cho nên phải
cẩn thận từ bước đầu tiên. Cá nhân là phần tử của xã hội, trong thiên hạ bình
yên hay loạn lạc, cội nguồn đều do sự hiền lương hoặc bạo ác của con người. Vậy
những điều trên đây quan hệ, thiết yếu, không phải tôi bàn luận chuyện vô ích,
xa vời...
- 14 -
Ấn Quang tôi năm nay đã quá già yếu, tinh thần mỗi ngày thêm suy kém, không còn đủ sức để phúc đáp những bức thơ gởi đến. Chỉ vì sự lưu thông thuận tiện, nên xa gần lầm nghe chút hư danh, gởi thơ hỏi đạo quá nhiều. Nếu tôi không đáp, vẫn tự hơi có phụ ý người gởi; như mỗi mỗi đều phúc đáp, thật ra cũng không đủ tinh thần. Vì thế, tôi cho in bức thơ dài nầy để phúc đáp cùng khắp. Trong đây, những điều quan hệ về sự tu trì, cách lập thân xử thế, đạo thờ cha mẹ, dạy con cái, tôi đều nói lược qua. Về sau, ai đưa tin đến hỏi đạo, tôi đều dùng thơ nầy phúc đáp, hoặc có vài điều đặc biệt, cũng chỉ nên thêm đôi hàng nơi bức thơ gởi đến mà thôi. Như thế, để cho đạo niệm đôi bên được thông nhau, mà tôi cũng đỡ bớt sự nhọc mệt. Nếu vị nào muốn hiểu suốt kinh nghĩa, xin thưa hỏi nơi các bậc Pháp Sư dựng cao tràng pháp, tông giáo kiêm thông. Nhưng nên biết, dù thông suốt kinh pháp, cũng chưa chắc được thoát sanh tử. Muốn thoát sanh tử luân hồi, phải chú trọng nơi sự tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương!
Thơ đáp một Cư Sĩ ở Vĩnh Gia
Người niệm Phật chẳng phải không thể
trì chú, nhưng cần nên phân chủ, trợ cho rõ ràng, tự nhiên trợ cũng về chủ. Nếu
lơ là xem đồng như nhau thì chủ cũng không thành chủ nữa! Chú Chuẩn Đề, Đại Bi
đâu có hơn kém, nếu tâm chí thành, pháp pháp đều linh, tâm không chí thành,
pháp pháp không linh. Một câu niệm Phật bao trùm đại tạng giáo, đầy đủ tất cả,
vẫn không thiếu sót pháp nào. Bậc thông tông thông giáo mới có thể làm người
chơn niệm Phật, và hạng ngu tối không hiểu chi, chỉ biết thành thật vâng lời,
cũng có thể làm người chơn niệm Phật. Ngoài hai hạng này, chơn hay không đều do
nơi mình gắng sức, tự xét có thực hành đúng giáo pháp cùng chăng? Đến như tu
Tịnh Độ, đã có ý quyết định không nghi, cần gì phải hỏi sự hiệu nghiệm của
người khác? Dù cho cả thế gian đều không hiệu nghiệm cũng chẳng sanh một niệm
nghi ngờ vì lời thành thật của Phật, Tổ có thể đủ làm bằng cớ. Nếu cứ hỏi sự
hiệu nghiệm của người khác, tức là tâm còn do dự, chưa tin chắc lời của Phật,
việc làm tất khó xong. Bậc anh liệt, quyết chẳng đến đỗi bỏ lời Phật theo lời
người. Những kẻ không chủ trương chỉ lấy sự hiệu nghiệm bên ngoài làm tiên đạo,
thật là đáng thương xót!
'Tùy Tự Ý Tam Muội' là đường lối tu chung từ phàm đến thánh. Hàng sơ tâm Bồ Tát
trong ấy nói, tuy gồm nhiếp tất cả phàm phu, song thật ra là chỉ cho bậc sơ trụ
Bồ Tát ở Viên giáo, đã phát ba tâm chứng ba đức. Bậc nầy do phát lý tâm của
chính nhân, chứng đức pháp thân, phát huệ tâm của liễu nhân, chứng đức bát nhã,
phát thiện tâm của duyên nhân chứng đức giải thoát, nên có thể hiện thân thập
pháp giới ở trong mười phương quốc độ, khắp ứng các cơ mà làm việc cầu Phật độ
sanh. Thế nên sơ tâm không phải chỉ riêng cho hạng phàm phu mới phát tâm tu
hành. Cư sĩ thấy trong Kim Luân Chú nói về việc ngộ pháp Nhị Không, chứng lý
Thật Tướng, liền vui mừng khấp khởi muốn đứng ra nhận lãnh, tôi e cho không
khỏi lạc vào lưới ma. Vậy xin chỉ rõ việc ấy ra đây, để cư sĩ hiểu biết, tránh
sự sai lầm. 'Ngộ pháp Nhị Không, chứng lý Thật Tướng', chính là thân phận của
hàng sơ tâm Bồ Tát đã nói trên. Pháp thức trong quyển ấy chỉ dạy, hạng phàm phu
có thể y theo mà tu hành. Đến như về thân phận, dù cho bậc Thanh Văn đủ đại
thần thông cũng không đảm đương nổi, huống là phàm phu? Lại, trong ấy mấy đoạn:
'Không chỗ trụ sanh tâm, không trụ pháp bố thí, ba luân thể không, một đạo
thanh tịnh, đều phát minh rất rõ.' Tôi muốn đem những nghĩa này làm thành bài
tụng cho người đọc hiểu được cương yếu, nhưng vì bận nhiều việc không được
rảnh, để hẹn lại năm sau. Đến như chỗ nói: 'Quán thân tức không quán chi cả,
chỉ quán vô duyên', vô duyên chính là nghĩa 'không, không có tánh chi' trong
Tùy Tự Ý Tam Muội đã nói. Và, vì 'không có chi' nên không duyên vào đâu được.
Nếu chẳng do nơi cội gốc này, chém một dao cho đứt đoạn, thì làm sao dứt được
mối phan duyên?
Mấy lời trên đây tuy giản lược, song ý nghĩa rất rộng sâu. Xin thuật lại cho Từ
Quân được rõ.
Thơ đáp Pháp Hải Đại Sư
Hơn mười năm nay, tòa hạ tìm thầy
học đạo để mưu sự lợi ích cho mình và người, đó là điều đáng khen ngợi. Nay lại
buông bỏ muôn duyên, một lòng niệm Phật, lấy quả giác làm nhân địa tu hành, có
thể sẽ thân chứng Tam Muội và chiếm được phẩm cao. Nếu tòa hạ phát lòng quả
quyết thì sự mong cầu tất nhiên thành tựu. Nhưng người đời niệm Phật tuy nhiều,
song chứng Tam Muội rất ít, vì chưa buông được muôn duyên giữ một niệm, nên tâm
cùng Phật khó dung hợp nhau. Tòa hạ đã thiết thật giữ sạch thân tâm, lẽ nào lại
không có chỗ sở đắc? Nhưng trong thơ về mấy điểm: 'tỏ lòng thấy tánh, thoát ly
sự sống chết và bằng cứ chứng đạo đến tay', cần phải đôi chút phân biệt.
Nếu tu theo giáo lý thông thường, dù được tỏ lòng thấy tánh, cũng còn cách xa
với sự thoát ly sống chết luân hồi, vì cảnh giới ấy thuộc về ngộ chớ không phải
chứng. Người đời nay ngộ đạo còn rất ít, huống nữa là chứng ư? Chứng đạo thì
hoặc nghiệp mới hết sạch, gốc sanh tử đã dứt, không còn cảm quả luân hồi. Bậc
Tu Đà Hoàn bảy lần sanh lên trời, bảy lần trở lại nhân gian, mới tiêu hết hai
món hoặc kiến, tư, chứng quả A La Hán. Ngài Thiên Thai thị hiện ở ngũ phẩm,
ngài Nam Nhạc ở ngôi Thập Tín; các bậc Đại Sĩ ấy còn ẩn thật đức của mình, tự
bảo chỉ được địa vị nội, ngoại phàm, thì đâu phải dễ dàng khi muốn nói chứng
đạo? Song đây là ước theo giáo lý thông thường để luận sự khó khăn về chứng đạo
trong hiện đời. Nếu cứ theo môn Tịnh Độ là pháp đặc biệt của đức Như Lai lập
ra, thì trên từ bậc Đẳng Giác dưới đến hạng tội nặng A Tỳ, như đủ tín nguyện,
đều được nương sức từ của Phật sanh về Cực Lạc. Khi đã vãng sanh, tất sự tỏ ngộ
cùng chứng đạo dễ dàng như lượm cỏ. Một điều hơi khác, tòa hạ chuyên tâm niệm
Phật, không đề cập đến sự vãng sanh trong lúc lâm chung, lại nói có thể nắm
chắc bằng cứ chứng đạo. Nói rằng chứng đạo cũng được, sao lại bảo: bằng cứ đến
tay? Nếu bằng cứ đến tay thì không cần luận, thảng như không đến mới liệu làm
sao? Xét qua ý tứ trong lời nói ấy, dường như tòa hạ chỉ niệm Phật suông, không
phát lòng tín nguyện cầu sanh Cực Lạc. Đó là lối dùng sự niệm Phật làm câu
thoại đầu của nhà tu Thiền, không đúng với tông chỉ Tín Nguyện Hạnh trong môn
Tịnh Độ. Niệm Phật không tín nguyện so với phép tu Thiền tham câu thoại đầu tuy
công đức lớn hơn, nhưng nếu hoặc nghiệp vẫn còn, tất không được giải thoát. Lại
bởi không tín nguyện, nên không thể nương nhờ sức Phật tiếp độ, vẫn là pháp môn
tự lực thông thường, rất khó chứng đạo. Chớ cho sự tín nguyện cầu sanh là thấp
kém, vì trên hội Hoa Nghiêm, hải chúng trong cõi Hoa Tạng đều dùng mười đại
nguyện vương để hồi hướng vãng sanh. Hơn nữa, các bậc Bồ Tát, Tổ Sư trong tông
Tịnh Độ đều bảo phải phát lòng tín nguyện cầu sanh Cực Lạc. Sao Tòa hạ lại lập
riêng môn đình không theo thánh quy của Phật, Tổ như thế? Và, người đã suốt
tháng, suốt năm, suốt đời niệm Phật, đâu nên không tu hạnh Lễ Kỉnh? Trong mười
đại nguyện vương, Lễ Kỉnh đứng đầu, tòa hạ bỏ việc gì còn có thể được, quyết
không nên bỏ sự lễ Phật. Nếu chẳng lễ Phật chắc khó cảm thông, vì lẽ thân ưa an
ổn, tất thiếu trợ duyên để triển đạt hết lòng thành. Theo phép chuyên tu của
ngài Thiện Đạo thì thân chuyên lễ, miệng chuyên xưng, ý chuyên niệm, niệm cùng
cực tự nhiên ngoài tâm không Phật, tâm Phật như nhau.
Sự chứng đạo ấy, các lối tu chứng về tự lực không thể sánh kịp. Về việc này,
người xưa đã thí dụ như tên dân hèn kém nương bánh xe báu của Luân Vương, một
ngày có thể dạo khắp bốn châu lớn. Vậy tòa hạ không nên đem pháp môn Niệm Phật
rất đặc biệt, tu theo đường lối tự lực về quán hạnh thông thường. „n Quang tuy
hèn ngu, thật chẳng dám hứa nhận việc ấy. Nếu tòa hạ có thể dùng lòng trong
sạch không nhiễm mảy trần, phát ba tâm mà niệm Phật, thì hiện đời sẽ thân chứng
Tam Muội, sau khi mạng chung liền sanh về thượng phẩm. Như thế, Ấn Quang xin
vòng tay trước để chúc mừng.