CỬA KHÔNG CỬA (VÔ MÔN QUAN)
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
CON CHÓ CỦA TRIỆU CHÂU
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con
chó có Phật tánh không ?
-Không
!
Bình
:
Tham
thiền phải qua cửa tổ, diệu ngộ phải tuyệt đường tâm.
Cửa tổ không qua, đường tâm chẳng dứt thì như tinh linh
nương vào cây cỏ. Thử hỏi thế nào là cửa tổ ? Chính
là một chữ Không, gọi là Cửa không cửa của thiền vậy.
Người qua cửa không những thân thấy Triệu Châu mà còn cùng
lịch đại chư tổ nắm tay cùng đi, ngang hàng với họ, nhìn
cùng một mắt, nghe cùng một tai há chẳng vui sao ? Các ông
chẳng muốn qua cửa này ư ? Hãy đem 360 đốt xương, tám vạn
bốn ngàn lỗ chân lông toàn thân khởi nghi đoàn, tham chữ
Không ngày đêm. Các ông chớ hiểu Không là Hư Vô, cũng đừng
hiểu trong nghĩa Có, Không. Giống như các ông nuốt một hòn
sắt nóng, muốn khạc mà khạc chẳng ra. Các ông hãy bỏ hết
những vọng tri, vọng giác từ trước, lâu dần thuần thục,
tự nhiên trong ngoài đánh thành một phiến, như người câm
nằm mộng chỉ mình tự biết. Rồi bỗng nhiên như trời long
đất lở, như đoạt được Thanh Long Đao của Quan tướng
quân, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ. Bên bờ tử
sinh mà được tự tại, hướng lục đạo tứ sinh mà du hí
tam muội. Tôi muốn hỏi các ông phải làm sao ? Hãy đem hết
sức mà nêu chữ Không ấy. Nếu các ông giữ cho không gián
đoạn thì giống như vừa mới mồi lửa ngọn đuốc Pháp
đã bùng cháy.
Tụng :
狗
子 佛 性
Cẩu
tử Phật tánh
全
提 正 令
Toàn
đề chính lệnh
才
涉 有 無
Tài
thiệp hữu vô
喪
身 失 命
Táng
thân thất mạng.
Con chó Phật tánh
Chánh lệnh nêu lên
Vừa nói không, có
Mất mạng chôn thân.
Chú
Thích :
-Triệu
Châu (778-897) : pháp danh Tòng Thẩm, học trò Nam Tuyền Phổ
Nguyện, đạo hạnh cao thâm, được xưng tụng là Triệu Châu
Cổ Phật. Sinh vào đời Đường, người Tào Châu, họ Hác.
18 tuổi giác ngộ, 60 tuổi mới bắt đầu đi hành cước,
80 tuổi trụ trì ở Quán Âm Viện, 120 tuổi qua đời.
-Vô
Môn (1183-1260) pháp danh Huệ Khai, sinh vào đời Tống, họ Lương,
người Tiền Đường, Hàng Châu. Tác giả Vô Môn Quan (Cửa
Không Cửa).
-Tăng
: viết tắt của tăng già, có nghĩa là hòa hợp chúng, chỉ
người cắt tóc đi tu.
-Cửa
Tổ : có 3 cửa là Sơ quan, Trùng quan và Lao quan. Chính là các
ông chứ không phải ai khác đã tạo nên cửa này làm trở
ngại sự giác ngộ, mặc dầu có vẻ như người khác tạo
nên.
-Đường
tâm : tham thiền phải trực quán, trực ngộ không thể dùng
suy luận.
-Như
tinh linh nương vào cây cỏ : dẫn từ kinh Trường A Hàm chỉ
tự mình không có kiến thức, lấy lời nói của người khác
mà giải thích.
-Lục
đạo : 6 con đường mà con người phải luân hồi : người,
trời, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la.
-Tứ
sinh : thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh.
-Quan
tướng quân : tức Quan Vân-Trường, danh tướng đời Tam Quốc
(Trung Hoa).
-Phật
tánh : cũng gọi là giác tánh, Như Lai tánh, tự tánh v. v . nguyên là chỉ bản tánh của Phật, sau trở thành khả năng
có thể thành Phật.
-Vô
: Trong các sách Tổ Đường tập (đời Ngũ Đại), Truyền
Đăng Lục (đời Bắc Tống), Triệu Châu Bản Truyện đều
không ghi công án này. Cuốn sách đầu tiên ghi công án này
là Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền sư Uyển Lăng Lục; vì vậy có
học giả cho rằng công án này là do người đời sau thêm
vào. Công án này được phổ biến rộng rãi và được các
thiền giả coi trọng từ sau đời Bắc Tống trở đi, nhất
là sau khi Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163) đề xướng khán thoại
đầu.
-Du
hí tam muội : đây là định của bậc Bồ Tát có thể ra vào
tự tại không sợ hãi, thí dụ bách thú đang du hí thấy sư
tử đến liền sợ hãi, còn sư tử khi du hí dù thấy bất
cứ một dã thú nào vẫn tự do, tự tại không sợ hãi. Ở
đây là nói khi tham cứu thoại đầu được chứng ngộ, đối
với sinh tử luân hồi tự do, tự tại, không bị câu thúc.
-Con
chó, Phật tánh, không là một : Khi trả lời “Không “, Triệu
Châu đã vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên của khái niệm.
(Yamaha)
-Chữ
Không như chầy sắt phá cửa thiền cứng, là búa sắc chặt
đứt phiền não của ngôn ngữ, văn tự.
(Nhật
Chủng Nhượng Sơn)
-Tự
tánh có ở mọi sự, vật, trong tiếng cười, tiếng khóc,
tiếng hét, tiếng Có, tiếng Không, ngay cả ở trong câu hỏi
“Con chó có Phật tánh không ?” Triệu Châu cho chúng ta một
tên khác để gọi tự tánh, đó là Không.
(Eido
Shimano)
-Câu
đáp của Triệu Châu chú ý không ở con chó mà là ở chữ
Không. Chữ Không này siêu việt hai bên, không phải Có hoặc
Không. Nếu trụ lại ở một bên nào là mất mạng ngay dưới
kiếm giết người của Triệu Châu. Tham chữ Không này cũng
là một loại pháp môn, mục đích là chỉ cho người học
thấy tánh. Do chuyên chú lâu ngày ở chữ Không này, các niệm
đầu đều dứt bặt, đạt tới trạng thái vô tâm, lúc đó
có thể tự tánh sẽ hiển hiện. Trong một lần khác thay vì
đáp Không, Triệu Châu lại đáp Có. Rõ ràng là với một
câu hỏi Triệu Châu không dùng câu đáp hai lần. Con chó có
Phật tánh không, đối với ông không thành vấn đề, ông
chỉ đối bệnh mà cho thuốc. Ông tăng không quan tâm mình
thấy tánh hay không mà lại để tâm đến “con chó có Phật
tánh không ?” Câu trả lời Không của Triệu Châu là mắng
ông giống như con chó có Phật tánh cũng như không.
-Giải
thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : Công án con chó có Phật tánh hay không là
để truyền đạt mạng lịnh của Thiền tông.
Câu 3 và 4 : nếu nghiêng vào có hoặc không là đánh mất đi
huệ mạng pháp thân của chính mình.
-Ý
nghĩa bài kệ : Chữ Không này của Triệu Châu là đề khởi
toàn bộ chính lệnh của Thiền tông. Nên biết tham chữ Không
này là để kiến tánh, không thể từ hư vô hay hữu vô mà
thể hội, tham đến khi phàm, thánh là một thì mới gọi là
qua được cửa Tổ.
-Ngũ
tổ Diễn nói : Lời chẳng hợp cơ, không thể ngay lời mà
ngộ, người học bèn hỏi tiếp, nói chưa dứt lời đã bị
Triệu Châu mắng, như dùng dao chặt tay thành hai mảnh, chết
tươi.
-Thùy
Am Diễn thì nói : Câu đáp Không của Triệu Châu giống như
trong không bỗng xuất hiện một gương cổ (chỉ tự tánh).
Gương cổ này không dính bụi, chiếu khắp vũ trụ.
(Dương Tân Anh)
-Thực
ra câu chuyện trên, có chép một đoạn nữa như sau :
-Những
loài xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, tại sao con chó
lại không
có
?
-Vì
có nghiệp thức.
Lại
có một ông tăng khác hỏi :
-Con
chó có Phật tánh không ?
-Có.
-Tại
sao phải làm thú ?
-Biết
mà cứ làm.
Với
cùng một câu hỏi, cách trả lời của Triệu Châu lúc nói
Không, lúc nói Có theo lẽ đương nhiên là đầy mâu thuẫn.
Nhưng tại sao lại có sự mâu thuẫn, khó hiểu ấy ? Đứng
trên lập trường của Triệu Châu thì lại chẳng có gì là
mâu thuẫn cả. Vì đây là tùy cơ mà đáp, không cốt trả
lời mà làm sao cho khởi nghi tình, rồi do giải được nghi
tình mà ngộ. Nếu lấy chữ Không của Triệu Châu mà giải
là không tứ đức (thường, lạc, ngã, tịnh). Và có là tất
cả đều có Phật tánh thì cũng được, vì con chó có nghiệp
thức thành ra tứ đức không hiện. Tuy chó có Phật tánh nhưng
biết mà cứ làm tạo ra những ác nghiệp cho nên phải làm
kiếp chó. Chữ Không này của Triệu Châu quả là độc sáng,
nó chính là sinh mạng là tông chỉ của thiền sư vậy.
(Tiêu
Vũ Đồng)
-Trong
tất cả các công án, công án chữ Không của Triệu Châu là
nổi danh nhất. Nó rất phổ thông nên các thiền sư đều
trao công án này cho các ông tăng mới. Nếu thiền sinh làm
tốt công việc của mình, chữ Không sẽ giống như một hòn
sắt nóng tọng vào cổ họng, nuốt không trôi, khạc chẳng
ra. Điểm quan trọng là “Không vạch ra cho chúng ta thấy Phật
đạo. 無 Vô trong tiếng Trung Hoa có nghĩa phủ định là Không,
không có gì (no-thing). Không cũng là một khái niệm cơ bản
trong Triết Đông. Có Không tương đối và Không tuyệt đối.
Không tương đối là đối nghịch của 有 Hữu. Không tuyệt
đối vượt lên thị phi. Để hiểu công án này phải hiểu
rõ sự sai biệt này. Khi ông tăng hỏi : “Con chó có Phật
tánh không ?” Ông không những đứng trên quan điểm của
tâm phiền não của ông mà còn trên quan điểm của giáo lý
Phật giáo là mọi chúng sanh đều có Phật tánh. Triệu Châu
dĩ nhiên là biết chuyện này. Chữ Không của ông giúp cho
ông tăng chặt đứt cái chấp về giáo lý. Giáo lý cơ bản
của Phật là vô chấp. Mọi đau khổ, phiền não của con người
đều do chấp, ngay cả chấp vào ý tưởng vô chấp cũng là
chấp rồi. Triệu Châu muốn ông vượt lên thế giới tương
đối, vượt lên Phật lý, vượt lên Không và Có, được
giác ngộ tự do, tự tại. Ngộ chính là kích thước mới
này của cuộc sống. Bình thường cuộc đời của con người
luôn luôn chấp vào tương đối : Thị phi, tốt xấu, đúng
sai, nhưng cuộc đời luôn thay đổi. Đúng và Sai thay đổi
theo thời gian và nơi chốn. Khái niệm tĩnh không thích hợp
với cuộc đời, do đó Không là quyết định, nó không không
để một khoảng trống nào cho trí thức có thể bám víu vào.
Không phải được thực chứng.
(Kubose)
Tắc Hai
CON CHỒN HOANG CỦA BÁCH TRƯỢNG.
Cử
:
Mỗi
lần Bách Trượng giảng pháp, đều có một cụ già theo đại
chúng vào nghe. Khi đại chúng tan hàng, ông cụ cũng lui. Một
hôm bỗng không lui.
Sư
hỏi :
-Người
đứng trước mặt tôi là ai ?
-Dạ,
tôi vốn chẳng phải là người. Hồi Đức Phật Ca Diếp,
tôi từng trụ trì tại núi này. Có học nhân hỏi :
-Bậc
đại tu hành còn rơi vào nhân quả không ?
Tôi
đáp :
-Không
!
Nên
500 kiếp qua tôi bị đọa làm thân chồn hoang. Nay thỉnh Hòa
thượng ban cho một chuyển ngữ để thoát kiếp chồn hoang.
Ông
cụ già bèn hỏi :
-Bậc
đại tu hành còn rơi vào nhân quả không ?
Sư
đáp :
-Chẳng
lầm nhân quả.
Ông
cụ ngay lời đó đại ngộ, lạy tạ :
-Tôi
đã thoát thân chồn, xác còn ở sau núi. Xin Hòa thượng ma
chay theo tăng lễ.
Sư
ra lệnh Duy na bạch chùy báo cho đại chúng ăn xong sẽ làm
lễ táng tăng. Đại chúng bàn tán :
-Mọi
người đều khỏe mạnh, Nát Bàn đường cũng không có bệnh
nhân, sao lại có chuyện như vậy ?
Ăn
xong, sư dẫn chúng ra sau núi, lấy gậy khều ra một xác chồn
hoang dưới tảng đá, đem hỏa táng.
Trong
buổi giảng chiều, sư kể lại câu chuyện trên.
Hoàng
Bá bèn hỏi :
-Người
xưa vì đáp sai một chuyển ngữ, thân bị đọa làm chồn
hoang 500 kiếp, nếu câu nào cũng đáp trúng thì sao ?
-Ông
lại gần đây tôi bảo cho.
Hoàng
Bá lại gần tát sư một cái. Sư vỗ tay cười :
-Tưởng
râu tên Hồ đỏ, hóa ra là tên Hồ đỏ râu.
Bình
:
Chẳng
rơi vào nhân quả, sao lại bị đọa làm chồn hoang ? Chẳng
lầm nhân quả sao lại thoát kiếp làm chồn ? Nếu các ông
hiểu lý này thì thấy Bách Trượng đã lời 500 kiếp làm
chồn.
Tụng :
不
落 不 昧
Bất
lạc bất muội
兩
釆 一 賽
Lưỡng
thái nhất tái
不
昧 不 落
Bất
muội bất lạc
千
錯 萬 錯
Thiên
thác vạn thác
Chẳng lạc chẳng muội
Hai vẻ thi đua
Chẳng muội chẳng lạc
Ngàn vạn lần thua.
Chú
Thích :
-Bách
Trượng (720-814) : pháp danh Hoài Hải, học trò Mã Tổ Đạo
Nhất, sư phụ của Hoàng Bá.
-Hoàng
Bá (?-850) : pháp danh Hi Vận, người tỉnh Phúc Kiến, Hồng
Châu, học trò Bách Trượng.
-Phật
Ca Diếp : một trong 7 Đức Phật trước Phật Thích Ca.
-Chuyển
ngữ : khi thiền sinh ở tình trạng tiến thối lưỡng nan,
xin thiền sư cho một chuyển ngữ làm chuyển hướng tư tưởng
ông khiến từ mê dẫn đến ngộ.
-Duy
na : dịch từ Phạn ngữ Karmadana, ông tăng lo việc trong chùa.
-Bạch
chùy : gõ chùy báo cho đại chúng.
-Nát
Bàn đường : bệnh xá của thiền viện.
-Gã
Hồ : xưa người Trung Hoa gọi người ngoại quốc là người
Hồ, ông sư người ngoại quốc gọi là Hồ tăng, ở đây
là chỉ ông tăng Ấn Độ.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : thái tái là một loại trò chơi thời cổ, 2 thái bằng
điểm 1 tái, cũng tương tự một bên nửa cân, một bên
tám lạng. Khi nói bất lạc hay bất muội thì cũng chẳng có
sai biệt gì.
Câu
3 và 4 : đừng phân tích, suy lý, chấp trước bất lạc hoặc
bất muội, trừ bỏ mọi thủ xả của tâm phân biệt không
bị bó buộc cứ tự nhiên sinh hoạt.
-Câu
trả lời của ông cụ già là chấp vào tự do tuyệt đối.
Câu trả lời của Bách Trượng là người giác ngộ và luật
nhân quả là một. Người giác ngộ nếu chấp vào chân lý
tuyệt đối là cũng bị trói buộc. Chấp vào thiện pháp thì
thiện pháp sẽ trở thành ác pháp.
(Kubose)
-Để
trả lời câu hỏi của học tăng, ông cụ đáp “Chẳng rơi
vào nhân quả”, vì sao phải đọa làm chồn hoang 500 kiếp
? Bách Trượng đưa ra chuyển ngữ “Chẳng lầm nhân quả”,
vì sao khiến ông cụ thoát được cái khổ 500 kiếp làm chồn
? Khi nói “Không rơi vào nhân quả” là chỉ người tu hành
không thọ nhân quả báo ứng. Loại chỉ điểm tùy tiện này
là sai lầm bởi vì chẳng ai có thể đào thoát khỏi nhân
quả báo ứng. Câu trả lời của Bách Trượng là một câu
danh ngôn chí lý vì người ngộ đạo nào cũng không lầm nhân
quả.
(Tinh
Vân)
-Câu
chuyện này chủ yếu để thuyết minh luật nhân quả. Chịu
chi phối bởi luật nhân quả là khẳng định, không chịu
chi phối bởi luật nhân quả là phủ định, do đó đều sai.
Chẳng lầm nhân quả vượt cả khẳng định và phủ định
nên thấy được tự tánh chân chánh. Người đắc đạo thấy
được hiện tượng giới biến ảo, siêu việt giới vĩnh
hằng và Đạo là vượt lên cả hai giới đó, tương tự Tâm
Kinh nói Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.
(Tiêu
Vũ Đồng)
Tắc Ba
NGÓN TAY CỦA CÂU CHI
Cử
:
Hễ
có người nào hỏi, hòa thượng Câu Chi chỉ giơ lên một
ngón tay. Về sau có người nào hỏi tiểu đồng hòa thượng
nói Pháp gì, tiểu đồng cũng giơ ngón tay lên. Câu Chi nghe
được bèn chặt đứt ngón tay của tiểu đồng. Tiểu đồng
bị đau, khóc, bỏ chạy. Câu Chi gọi, tiểu đồng ngoảnh
đầu lại, Câu Chi bèn giơ ngón tay lên, tiểu đồng bỗng
nhiên lãnh ngộ.
Câu
Chi khi sắp mất bảo đại chúng :
-Tôi
nhận được của Thiên Long một ngón tay thiền, dùng cả đời
không hết.
Nói
xong thì mất.
Bình :
Chỗ ngộ của Câu Chi và tiểu đồng không phải ở trên đầu ngón tay. Nếu thấy được chỗ đó thì xuyên suốt được Thiên Long, Câu Chi, tiểu đồng và chính mình vào thành một mối.
Tụng :
俱
胝 鈍 置 老 天 龍
Câu
Chi độn trí lão Thiên Long
利
刃 單 提 勘 小 童
Lợi
nhẫn đơn đề khám tiểu đồng
巨
靈 抬 手 無 多 子
Cự
Linh đài thủ vô đa tử
分
破 花 山 千 萬 重
Phân
phá Hoa Sơn thiên vạn trùng
Câu Chi dỡn mặt lão Thiên Long
Dao sắc giơ lên thử tiểu đồng
Cự linh vung tay không phí sức
Đập nát Hoa Sơn ngàn vạn trùng.
Chú
Thích :
-Câu
Chi : Vụ Châu Kim Hoa Sơn hòa thượng, trụ trì Kim Hoa sơn tự,
thường tụng “Câu Chi Phật Mẫu Đà La Ni” cho nên người
ta gọi là Câu Chi hòa thượng.
-Thiên
Long : Hàng Châu Thiên Long hòa thượng học trò Đại Mai Pháp
Thường.
-Cự
Linh : thần sông, vung tay phân Hoa Sơn thành hai đế sông Hoàng
Hà chẩy qua (truyền thuyết).
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : Câu Chi dùng dao trí tuệ để chặt đứt những quan
niệm sai lầm của tiểu đồng.
Câu
3 và 4 : giơ một ngón tay lên là một phương pháp đơn giản,
dễ dàng không phí sức mà lại có tác dụng rất lớn là
làm cho tiểu đồng được chứng ngộ.
-Dù
bắt chước giỏi đến đâu thì bắt chước vẫn chỉ là
bắt chước. Giơ một ngón tay lên không phải là Thiền. Cái
mà ngón tay tượng trưng mới là quan trọng. Cũng như tiểu
đồng, chúng ta thường chỉ nhìn thấy hình thức bề mặt
mà không thấy chân lý. Tiểu đồng phụ thuộc vào ngón tay.
Khi ngón tay bị chặt, tiểu đồng không còn gì để diễn
tả Thiền. Khi một người còn chấp vào một cái gì thì ông
ta không đạt được tự do, tự tại. Giác ngộ là thoát khỏi
mọi chấp trước, ràng buộc và đạt được một kích thước
mới, một nếp sống mới.
(Kubose)
-Câu
Chi lúc đầu sống trong am. Có một vị tỳ khưu ni tên là
Thật Tế đến thăm. Ni cô đến am, không thông báo cũng không
bỏ nón, chống trượng đi quanh thiền sàng của Câu Chi ba
vòng, nói :
-Nếu
thầy nói có đạo lý tôi sẽ dở nón.
Ni
cô nói liền 3 lần, Câu Chi không đáp được một câu. Thật
Tế giận, phất áo định đi. Câu Chi nói :
-Trời
gần tối rồi, xin hãy lưu lại một đêm.
-Nếu
thầy nói có đạo lý, tôi sẽ lưu lại một đêm.
Câu
Chi lại không đáp được. Khi ni cô đi rồi Câu Chi than rằng
:
-Ta
là nam tử mà không có khí khái trượng phu !
Về
sau Thiên Long đến đó, Câu Chi mời vào thuật lại chuyện
ni cô đến thăm. Thiên Long giơ một ngón tay lên khai thị.
Câu Chi tức khắc khai ngộ.
Khi
Câu Chi mới gặp ni cô, theo lời than của ông, chúng ta thấy
ông còn chấp tướng nam nữ, do đó ông không trả lời ni
cô được. Thiên Long giơ một ngón tay lên biểu thị tự tánh
bình đẳng không có tướng nam nữ. Một ngón tay chỉ sự
tuyệt đối. Do đó Câu Chi liễu ngộ. Về sau, ông dùng một
ngón tay để tiếp dẫn người học. Tiểu đồng không hiểu
ý nghĩa chân chính của một ngón tay, chỉ chấp vào hình tướng
giơ tay, nghĩ rằng giơ tay là Phật pháp. Cho đến khi bị Câu
Chi chặt đứt, không có ngón tay để giơ lên, mới hiểu rằng
Phật pháp không tồn tại ở hình tướng.
(Tiêu
Vũ Đồng)
-Câu
Chi muốn nói ra một Thiền ngữ cho Thật Tế nghe nhưng không
nói được. Ý nghĩ muốn nói ra như thế bản thân đã là
mê hoặc, là dục vọng. Câu Chi hiểu ra điều này khi được
Thiên Long chỉ điểm. Khi dục vọng xuất hiện thì tất cả
đều tiến vào đường hủy diệt.
(Minh
Tuệ)
-Nếu
thầy nói có đạo lý, tôi liền dở nón.
Kỳ
thật chân lý thật không thể nói. Nếu có lời nói đều
không phải là chân lý. Câu Chi không lời, không phải là không
nói chỉ là định nói mà không biết nói như thế nào. Có
tư tưởng phân biệt thì càng lìa xa Thiền. Đương nhiên có
thể đối cơ nói hoặc giảng thông bỉ thử. Thiên Long giơ
một ngón tay lên, Câu Chi mới biết chân lý là một, do đó
dùng một ngón tay để chỉ người học. Tiểu đồng bắt
chước vọng giơ một ngón tay khiến Thiền rơi vào hình tướng.
Câu Chi chặt đi hình tướng, từ hữu hình đến vô hình,
từ hữu tướng đến vô tướng, quy về Thiền tâm do đó
tiểu đồng khế ngộ.
(Tinh
Vân)
Tắc Bốn
RỢ HỒ KHÔNG RÂU
Cử
:
Hoặc
Am nói :
-Tên
rợ Hồ Tây phương sao lại không râu ?
Bình
:
Tham
phải thật tham, ngộ phải thật ngộ. Tên Hồ đó phải tự
mình thấy một lần mới được, nói tự thấy thì sớm muộn
đã thành 2 gã rồi !
Tụng :
痴
人 面 前
Si
nhân diện tiền
不
可 說 夢
Bất
khả thuyết mộng
胡
子 無 鬚
Hồ
tử vô tu
惺
惺 添 夢
Tinh
tinh thiêm mộng.
Kẻ điên trước mặt
Không thể nói mơ
Không râu Hồ tử
Là tỉnh thành mơ.
Chú
Thích :
-Hoặc
Am (1108-1179) : học trò của Am Nguyên hòa thượng.
-Hồ
tử : chỉ người Hồ, ở đây là chỉ Bồ Đề Đạt Ma.
-Ngộ
phải thực ngộ : Thiền tông nói nhiều về ngộ, đại thể
có thể phân làm 4 phương diện :
1.Do
nhận thức và lý giải mà ngộ gọi là giải ngộ.
2.Do
minh tâm kiến tánh trực quán thể nghiệm mà ngộ gọi là
chứng ngộ.
3.Ngộ
là mục đích của tham thiền, nhưng trong quá trình tham thiền
không được có ý thức mong cầu khai ngộ vì bản thân ý
niệm mong cầu đã trở ngại sự khai ngộ.
4.Quá
trình ngộ và ngộ cảnh không thể dùng ngôn ngữ diễn tả
được, nhưng người đã khai ngộ thì nhất cử nhất động
đều biểu thị mình đã giác ngộ.
-Tự
thấy : thấy ở đây là trực kiến không khởi ý thức phân
biệt, nếu khởi một niệm muốn thấy thì đã có người
thấy và cái muốn thấy, tức là phân 2 rồi không phải là
tự thấy nữa.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : giấc mơ là hư vọng, nếu nói cho người điên biết
chẳng là đã hư vọng, lại thêm hư vọng sao ?
Câu
3 và 4: Hồ tử ở đây chỉ khuôn mặt xưa nay (tự tánh),
nếu tâm còn ám muội dùng trí phân biệt để biện biệt
có râu, không râu thì là từ sáng suốt trở thành hồ đồ
vậy.
-Lời
nói và khái niệm đều do tâm tạo, chỉ làm che lấp chân
lý. Phải nắm bắt chân lý, chứ đừng khư khư chấp vào
cái bóng của nó.
(Sekida)
-Bồ
Đề Đạt Ma, vị tăng Ấn Độ đã mang Thiền sang trung Hoa
vào thế kỷ thứ 6, thường được mô tả là rậm râu. Khi
chúng ta nói Bồ Đề Đạt Ma, Phật, chúng ta đã khái niệm
hóa họ. Chúng ta đã tự mình trở thành nạn nhân của khái
niệm. Bằng cách chối bỏ bề ngoài (tướng) Hoặc Am đã
mời chúng ta vượt lên cặp đối đãi rậm râu và trụi râu
và nhìn thấy Bồ Đề Đạt Ma thực sự.
(Kubose)
Tắc Năm
HƯƠNG NGHIÊM TRÊN CÂY
Cử
:
Hòa
thượng Hương Nghiêm nói :
-Như
người trên cây, mồm cắn vào cành cây, tay không vin vào cành,
chân không đạp vào cây. Dưới cây có người hỏi ý tổ
sư từ Tây sang. Không đáp thì phụ người hỏi. Nếu trả
lời thì chôn thân mất mạng. Chính lúc đó phải làm sao ?
Bình
:
Dù
có biện luận như nước chẩy cũng không dùng làm gì, giảng
được bộ đại tạng kinh cũng vô dụng. Nếu chỗ này đáp
được thì làm sống con đường đã chết, làm chết đi con
đường đã sống. Nếu chưa đáp được thì chờ sau này hỏi
Di Lặc.
Tụng :
香
嚴 眞 杜 撰
Hương
Nghiêm chân Đỗ Soạn
惡
毒 無 盡 限
Ác
độc vô tận hạn
啞
卻 衲 僧 口
Á
khước nạp tăng khẩu
通
身 迸 鬼 眼
Thông
thân bính quỷ nhãn.
Hương Nghiêm thật bày đặt
Ác độc không thể lường
Khiến nạp tăng câm miệng
Toàn thân mắt quỷ giương.
Chú
Thích :
-Hương
Nghiêm (?-898) : Hương Nghiêm Trí Nhàn học trò Quy Sơn.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : Hương Nghiêm hư cấu ra tình cảnh trên cây để khai
thị cho người tham thiền.
Câu
3 và 4 : đây là 1 nan đề khiến chư tăng khó ứng đáp, cũng
không thể mở mồm ra được.
-Làm
sống lại con đường đã chết : lúc trước con đường chưa
thông nay thì đi được.
-Làm
chết đi con đường đã sống : diệt được lối sống trong
ảo vọng. Theo lý mà nói một người chỉ dùng răng cắn vào
cành cây, toàn thân lơ lửng trong không, không sớm thì muộn
cũng phải rơi xuống đất. Trả lời hay không trả lời câu
hỏi không phải là vấn đề khẩn cấp của ông ta. Cái ông
ta cần không phải là triết lý mà là một người có thiện
tâm và dõng cảm, cứu ông ta xuống đất.
(Yoel
Hoffmann)
-Giác
ngộ là vấn đề sinh tử, nó đòi hỏi sự cố gắng toàn
diện, không chỉ dùng trí thức. Vài thiền sinh cố hiểu các
công án một cách trí thức và khi đạt được nội dung trí
thức này họ tưởng rằng họ đã hiểu. Thực ra sự hiểu
biết này không ăn nhằm gì với cuộc đời. Sống Thiền là
sống trọn vẹn.
(Kubose)
-Cảnh
giới thiền không dùng lời nói, phủ định tất cả mọi
hiện tượng rồi thì thấy được khuôn mặt xưa nay. Sự
truyền tâm giữa thầy và trò có khi là trợn mắt, nhăn mày,
có khi là đánh mắng, la hét. Có khi là im lặng chẳng quan
tâm, có khi làm lộn tùng phèo. Nói tóm lại thiền sư làm
khởi nghi tình nơi người học, bức người học không có
lối đi cho tới khi “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn” thì mới thôi. Truyền đăng là
tham cứu không thể lý giải, chỉ có thể dùng ý hiểu không
thể dùng lời để truyền, giống như công án này của Hương
Nghiêm không có cách nào đáp được. Tốt nhất là như Hổ
Đầu Chiêu thượng tọa không hỏi kết quả, chỉ luận tiền
nhân, bắt giặc tìm tang vật mới có thể giải quyết được
vấn đề, Hương Nghiêm cười ha hả đó là dùng tiếng nhưng
không dùng lời để khẳng định.
(Tinh
Vân)
-Hương
Nghiêm đưa ra một nan đề chỉ rằng Thiền không thể nói.
Nếu có người hỏi, hễ mở miệng ra là mất mạng. Nhưng
nếu ông không nói thì người ta làm sao biết Thiền là cái
gì ? Có người đáp :
-Miệng
cha mẹ sinh ra là để hưởng thụ sơn hào hải vị, nếu không
có chuyện thì lắm mồm làm gì ?
Có
người đáp :
-Nếu
đã không thể nói, tôi đánh rắm để ông ngửi vậy.
Có
người đáp :
-Nguyện
vì chúng sanh thoát khổ, dù tan xương nát thịt cũng không
tiếc.
Do
đó, các thiền sư dõng cảm mở miệng nói pháp.
Chiêu
thượng tọa nói :
-Lúc
chưa lên cây thì thế nào ?
Câu
đáp thật cao minh, hà tất lọt vào bẫy tiến thối lưỡng
nan, phải suy nghĩ đối sách. Nhưng chưa lên cây là cảnh giới
đã giác ngộ rồi. Chúng sanh hiện đang lơ lửng trong không,
các ông nói phải làm sao ? Hãy học Hương Nghiêm chỉ cười
cười, đừng mở miệng lắm lời mà mất mạng. Nguyên lai
làm gì có cây, chỉ là chúng sanh nằm mộng thấy mình lơ
lửng trong không. Tỉnh mộng rồi các ông lại an nhiên nằm
trên giường.
(Liệu
Duyệt Bằng)
Tắc Sáu
THẾ TÔN GIƠ HOA
Cử
:
Xưa,
Thế Tôn ở pháp hội Linh Sơn, giơ cành hoa lên chỉ cho đại
chúng. Lúc đó đại chúng đều im lặng chỉ có tôn giả Ca
Diếp là mỉm cười. Thế Tôn bảo :
-Ta
có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng
vô tướng, vi diệu pháp môn, chẳng lập văn tự, ngoài giáo
truyền riêng, nay giao cho Ca Diếp.
Bình
:
Cồ
Đàm mặt vàng chẳng coi ai vào đâu, ép tốt thành xấu, treo
đầu dê bán thịt chó, coi bộ cũng có chút tài mọn. Nếu
lúc đó đại chúng đều cười, chánh pháp nhãn tạng làm
sao truyền ? Giả sử Ca Diếp không cười, chánh pháp nhãn
tạng lại truyền làm sao ? Nếu nói chánh pháp nhãn tạng có
truyền thọ thì lão mặt vàng đã dối trá xóm làng; nếu
nói không truyền sao lại nói truyền riêng cho Ca Diếp ?
Tụng :
拈
起 花 來
Niêm
khởi hoa lai
尾
巴 已 露
Vĩ
ba dĩ lộ
迦
葉 破 顏
Ca
Diếp phá nhan
人
天 罔 措
Nhân
thiên võng thố.
Vừa giơ cành hoa
Cái đuôi đã lộ
Ca Diếp cười xòa
Trời người thất thố.
Chú
Thích :
-Cồ
Đàm mặt vàng : chỉ Đức Phật, vì Ngài có thân sắc vàng.
-Cồ
Đàm : là một trong 5 tiếng gọi họ Đức Phật, 4 tiếng kia
là Cam Giá, Nhật Chủng, Xá Di, Thích Ca.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : Thế Tôn vừa giơ cành hoa lên, chủ ý đã lộ
ra rồi, Ca Diếp mỉm cười vì hiểu rõ chuyện ấy. Chỉ có
trời và người là lúng túng không biết đã xảy ra chuyện
gì.
Câu
3 và 4 : khi Thế Tôn giơ cành hoa lên, chỉ có Ca Diếp là mỉm
cười. Ông đã hiểu tâm Phật. Hoa là hoa không là gì cả.
Nó không tự phụ, mắc cỡ, giả đò. Tinh túy của vạn pháp
là lời không lời, tướng không tướng. Chân lý không phải
là lời nói. Lời và giáo pháp chỉ để trỏ đường. Thiền
là truyền tâm mà không dùng lời.
(Kubose)
-Niết
Bàn là trạng thái của tâm khi đã diệt trừ hết phiền não,
trở thành thanh tịnh. Trạng thái đó là sự khai ngộ; vì
không dùng lời nói để tả ra được nên gọi là diệu tâm.
Niết Bàn diệu tâm không phải là Niết Bàn và diệu tâm mà
là Niết Bàn là diệu tâm, cũng là thiền tâm. Đức Phật
giao phó tâm này cho Ca Diếp. Cái tâm khai ngộ này có sẵn
trong tâm Ca Diếp, do tâm Ca Diếp bạo phát mà giác tỉnh thành
nội tâm ấn chứng. Thiền sư Đạo Nguyên đã hình dung Niết
Bàn diệu tâm bằng hai câu sau :
Cố hương hoa bốn mùa
Xuân đi hoa vẫn thơm.
Bốn
mùa là chỉ thời gian, cố hương là chỉ căn nguyên của tâm
không vì làm thiện, làm ác mà nhiễm thiện ác. Cái tâm này
không vì hoàn cảnh mà biến đổi vì vậy mới nói :”Xuân
đi hoa vẫn thơm”.
(Minh
Tuệ)
-Hoa
ở đây là chỉ tự tánh. Vì tự tánh không thể dùng lời
mà diễn tả được. Chư Phật đều do ngộ tự tánh mà thành
Phật. Thế Tôn giơ cành hoa lên hướng đại chúng mà nói
pháp không lời. Ca Diếp hiểu ý này, tự tánh chỉ có thể
tự chứng, có nói cũng vô ích nên không nói một câu nào
chỉ mỉm cười biểu thị ông đã hiểu. Hai thầy trò là
hai kỳ thủ ngang sức, còn đại chúng như câm điếc, đã
không nhận được Phật tâm. Mượn đồ vật hay động tác
để nói về tự tánh là do Thế Tôn sáng tạo đã được
chư Tổ Trung Hoa tập đại thành đã trở nên một phong cách
độc đáo của Thiền.
Thế
Tôn nói :”Ta có chánh pháp . . . nay trao cho Ca Diếp” cho thấy
sự phó pháp của Thiền là ấn chứng trên quả chứ không
trên nhân. Chỉ cần học nhân chứng ngộ Niết Bàn diệu tâm
là có thể gọi là đắc pháp. Sự thực Niết Bàn diệu tâm
không thể thọ hoặc truyền cho người khác mà là tự mình
dập tắt được ngọn lửa dục vọng.
-Ý
nghĩa bài kệ : Tự tánh không thể dùng lời mà nói được,
miễn cưỡng giơ cành hoa lên để tỷ dụ tự tánh, là có
năng (chủ thể), sở (đối tượng) là đã lộ ra sơ hở.
Lại còn vẽ rắn thêm chân nói cái gì là trao chánh pháp nhãn
tạng cho Ca Diếp, khiến người sau tưởng có phó pháp thật.
Ca Diếp mỉm cười là khác với đại chúng. Đúng là thầy
lắm chuyện gập trò lắm chuyện.
Có
ông tăng hỏi ý chỉ giơ hoa, Vân Phong Duyệt nói :
-Một
lời nói ra, tứ mã khó đuổi.
-Ca
Diếp mỉm cười là ý gì ?
-Mở
miệng là họa.
Nói
ra bất cứ lời nói gì cũng không thâu hồi lại được. Giơ
cành hoa lên để biểu thị không thể nói được vì nói là
lạc vào hình nhi hạ, ngược lại bản thể. Giơ cành hoa lên
và mỉm cười là ngôn ngữ chân thật.
Phật
Huệ Tuyền nói :
-Mùa
đông dài, sương tuyết che phủ đại địa, ai biết được
xuân đã về chưa ? Chỉ có một cành mai núi, nở hoa trong
trời tuyết là tiết lộ xuân đã về. Cành mai núi chỉ Ca
Diếp, chỉ có ông mỉm cười được Thế Tôn truyền pháp
làm người truyền đăng tiên khởi.
(Dương
Tân Anh)
Tắc Bẩy
TRIỆU CHÂU RỬA BÁT
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con
vừa vào Tùng Lâm, xin thầy chỉ dạy.
-Ông
ăn cháo rồi, chưa ?
-Đã
ăn rồi.
-Đi
rửa bát đi !
Ông
tăng có chỗ tỉnh.
Bình
:
Khi
Triệu Châu mở miệng liền chỉ cho chúng ta một túi mật.
Ông đã phơi ra cả tim gan. Ông tăng chẳng hiểu tưởng chuông
là hũ.
Tụng :
只
為 分 明 極
Chỉ
vi phân minh cực
翻
令 所 得 遲
Phiên
lệnh sở đắc trì
早
知 橙 是 火
Tảo
tri đăng thị hỏa
飯
熟 已 多 時
Phạn
thục dĩ đa thời.
Đã rõ ràng như vậy
Làm lại chậm như rùa
Sớm biết đèn là lửa
Cơm đã chín từ khuya.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : vì phân tích và giảng giải quá rõ ràng nên lại
khiến cho người ta khó lãnh hội, nhận thức, thể hội.
Câu
3 và 4 : nếu biết đèn là lửa, dùng lửa để thổi cơm thì
cơm chín từ bao giờ.
-Cái
gọi là Phật pháp, là Thiền tâm đều không thể rời sinh
hoạt. Ăn cho ra ăn, ngủ cho ra ngủ đó là thiền vậy. Nếu
lìa sinh hoạt ra, thì Phật pháp còn có công dụng gì ?
(Tinh
Vân)
-Thiền
là đời sống hàng ngày : tự nhiên, thứ tự. Sự việc được
làm từng việc một. Rắc rối đến từ sự khái niệm hóa
và giả định.
(Kubose)
-Câu
hỏi của Triệu Châu “Ăn cháo rồi chưa?”, rồi và chưa
đều là biên kiến, phải trừ bỏ biên kiến, đối đãi thì
mới chứng được tự tánh. Tự tánh không để vật nào dính
vào vì vậy Triệu Châu mới khuyên đi rửa bát.
Triệu
Châu dạy chúng ta không nên lìa hiện thực, đã ăn cháo rồi
thì phải đi rửa bát. Con người ta khi làm một việc gì,
không chịu chú ý làm, chỉ lo hướng ngoại. Những người
bên cạnh Triệu Châu như vậy, chúng ta cũng vậy. Thí dụ
đi đường là đi đường. Triệu Châu không lấy sự kiện
đi đường là một sự kiện đặc biệt trừu tượng để
suy tưởng, chỉ y theo tâm chân thật mà đi đường. Nếu là
người đi đường chân chánh thì đường là cái gì ? Không
dùng lời cũng biết, không cần thí dụ cũng hiểu. Nếu đi
hỏi người thì là thừa vậy. Đạo là phải tự mình đi,
đi đến khi đủ để vô tâm là được.
(Tiêu
Vũ Đồng)
-Thiền
không lìa sinh hoạt. Mặc áo ăn cơm là Thiền, bổ củi xách
nước là Thiền. Một người không lo sinh hoạt cho tốt : bát
không rửa, nhà không quét thì làm sao giải quyết được vấn
đề sinh tử giải thoát .
(Tinh
Vân)
-Công
án này rất nổi danh gọi là “Cháo Triệu Châu”. Lúc đó
có lẽ đã quá bữa sáng và ông tăng có lẽ là từ nơi khác
đến tham học. Triệu Châu chỉ hỏi một câu trong sinh hoạt
hàng ngày. Chẳng lẽ ăn cháo và rửa bát lại có thể khai
ngộ ? Lúc ăn cháo thì ăn cháo, ăn cháo xong thì rửa bát.
Đó là sinh hoạt hiện thực. Ngộ cảnh cũng không thể lìa
hiện thực. Nhiều người cho rằng khai ngộ là một cái gì
sâu xa không thể đo lường được. Kỳ thật trong sinh hoạt
hàng ngày mỗi cử mỗi động đều là chân lý hiển lộ.
Ông tăng tưởng là phải bị đánh một gậy, bị hét một
tiếng, phải trải qua nhiều giai đoạn ly kỳ, thâm ảo, huyền
diệu mới tới được ngộ cảnh, nào ngờ Triệu Châu chỉ
dùng một câu nói giản dị, bình thường mà phiền não biến
mất, ngộ cảnh hiện tiền. Thiền là ngay trong hiện tại,
hiện tại không có được mất. Được, mất thuộc về quá
khứ, vị lai, tuyệt đối không ở trong hiện tại. nếu chỉ
sống trong hiện tại không tính toán, không bẻ cong nhận thức
thì thấy mọi người chung quanh đều đáng yêu, đều đồng
cảm, đó chẳng phải là tự tại, giải thoát ư ?
(Thánh
Nghiêm)
Tắc Tám
HỀ TRỌNG LÀM XE
Cử
:
Nguyệt
Am hòa thượng hỏi một ông tăng :
-Hề
Trọng làm bánh xe 100 nan, nếu bỏ cả 2 đầu xe và trục đi
thì sẽ còn gì ?
Bình
:
Nếu
hiểu ngay, mắt như lưu tinh, cơ như điện chớp.
Tụng :
機
輪 轉 處
Cơ
luân chuyển xứ
達
者 猶 迷
Đạt
giả do mê
四
維 上 下
Tứ
duy thượng hạ
南
北 東 西
Nam
bắc đông tây.
Chỗ bánh xe lăn
Do mê mà đạt
Trên dưới bốn bên
Đông Tây Nam Bắc
Chú
Thích :
-Nguyệt
Am : (1089-1152)
-Hề
Trọng là người làm xe nổi tiếng thời cổ. Lúc trước bánh
xe chỉ có 30 nan. Hề Trọng làm bánh xe có 100 nan.
Xe
(chỉ Phật pháp) chỉ do bánh, trục kết hợp mà thành. Nếu
tháo bỏ bánh, trục đi thì xe không còn là xe nữa.
Con
người ta cũng vậy, xương, thịt (địa), máu (thủy), hô hấp
(phong), thân nhiệt (hỏa), kết hợp mà thành người, tan ra
thì trở về tứ đại. Đây là thuyết minh lý vô ngã.
(Thánh
Tham)
-Bỏ
cả 2 đầu xe : đây là 1 song quan ngữ, bề ngoài là chỉ 2
đầu xe, nhưng thật ra là chỉ : thị phi, thiện ác, trước
sau, trên đưới.
-Nếu
hiểu ngay : chỉ không trải qua tư duy, phân tích, suy lý, phân
biệt mà trực quán.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : khi cơ ngữ vừa thoát ra khỏi miệng thì hành giả
sẽ bị rơi vào cái bẫy mê hoặc.
Câu
3 và 4 : đừng chấp vào thiền ngữ mà nên để ý đến các
phương diện khác.
-Bánh
xe chỉ là bánh xe. Nếu ông tháo bỏ nan xe, vành xe thì không
còn bánh xe. Một cái xe là dụng cụ để chuyên chở. Tháo
bỏ bánh xe, trục, thân xe sẽ không còn là xe. Một cái nhà
gồm mái, tường, cửa sổ, cửa ra vào. Một phần sẽ không
có giá trị gì khi tách ra khỏi toàn thể. Nếu phân ra rồi
phân tích, phán đoán là đánh mất toàn thể. Đời sống không
phải chỉ là sự ráp lại của các phần tử.
(Kubose)
Tắc Chín
PHẬT ĐẠI THÔNG TRÍ THẮNG
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Hưng Dương Nhượng hòa thượng :
-Phật
Đại Thông Trí Thắng mười kiếp tọa đạo tràng, Phật pháp
chẳng hiện tiền, cũng không thành Phật đạo là sao ?
-Hỏi
đúng lắm.
-Nếu
đã tọa Đạo tràng, tại sao lại không thành Phật đạo ?
-Vì
không thành Phật.
Bình
:
Chỉ
để lão Hồ biết, không để lão Hồ hiểu. Nếu người phàm
biết thì là bậc Thánh, nếu bậc Thánh biết thì là người
phàm.
Tụng :
了
身 何 似 了 心 休
Liễu
thân hà tự liễu tâm hưu
了
得 心 兮 身 不 愁
Liễu
đắc tâm hề thân bất sầu
偌
也 心 身 俱 了 了
Nhược
dã tâm thân câu liễu liễu
神
仙 何 必 更 封 侯
Thần
tiên hà tất cánh phong hầu.
Thân biết chẳng bằng tâm được biết
Biết được tâm rồi, thân chẳng sầu
Nếu cả thân tâm đều biết rõ
Là tiên há phải đợi phong hầu.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : rõ được thân đâu bằng rõ được tâm. Thành Phật
là thấy rõ được bản tâm, lấy tâm làm chủ, thân chỉ
là thứ yếu, do đó rõ tâm rồi thì đâu còn vì thân mà sầu
khổ.
Câu
3 và 4 : nếu thân tâm đều rõ, thì tiêu dao tự tại như thần
tiên đâu cần phải làm vương hầu nữa.
-Hưng
Dương Nhượng là pháp tử của Ba Tiêu. Ba Tiêu là đồ tôn
của Ngưỡng Sơn. Công án này xưng tán thiền phong của tông
Quy Ngưỡng. Phật Đại Thông Trí Thắng dẫn từ phẩm Hóa
Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa. Câu trả lời của Hưng Dương
Nhượng có nghĩa là “Vốn là Phật thì cần gì thành Phật”.
(Thánh
Tham)
-Thiền
định không làm một người trở thành một vị Phật, một
người giải thoát. Con người đã được giải thoát ngay từ
đầu. Trong thiền định, thiền sinh tìm ra ông vẫn luôn luôn
là một vị Phật. Phật không trở thành Phật. Ông đã là
Phật rồi. Cây, đá, hoa, cỏ, mặt trời, mặt trăng đều
là Phật, tại sao nhân loại lại không phải ?
(Kubose)
-Đại
Thông là chỉ tự mình ở mọi nơi đều thấy vạn pháp không
tánh, không tướng. Trí Thắng là chỉ ở mọi nơi, mọi thời
không nghi ngại, không có một pháp nào để được. Phật
là thanh tịnh chiếu sáng suốt pháp giới. Mười kiếp tọa
đạo tràng chỉ 10 pháp tu Ba La Mật. Phật vốn không sanh,
pháp vốn không diệt, nói gì đến hiện tiền ? Phật chẳng
phải làm gì để thành Phật. Cổ nhân có nói :
-Phật
thường ở thế gian, nhưng không nhiễm pháp thế gian.
Đạo
lưu ! nếu muốn thành Phật đừng chạy theo vạn vật. Tâm
sanh thì muôn pháp sanh, tâm diệt thì muôn pháp diệt. Một
tâm chẳng sanh, vạn pháp chẳng lỗi. Thế và xuất thế, chẳng
có Phật, có pháp cũng chẳng hiện tiền, cũng chẳng có gì
mất mát cả. Nếu có một vật thì chỉ là danh ngôn, chướng
cú để dụ con nít uống thuốc trị bệnh, chỉ là bề ngoài.
Nhưng những danh cú này không tự mình kêu là danh cú. Chính
là các ông, trước mắt tôi, phân biệt, ghi nhớ, thấy, nghe,
lý giải, đốt sáng đuốc tuệ điều khiển mọi danh cú.
(Lâm
Tế)
Tắc Mười
THANH THOÁT LẺ LOI VÀ NGHÈO KHÓ
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Tào Sơn :
-Thanh
Thoát lẻ loi và nghèo khó, xin thầy giúp đỡ.
-Thoát
xà lê.
-Dạ
!
-Ông
đã uống 3 chén rượu Thanh Nguyên rồi, sao còn bảo chưa ướt
môi.
Bình
:
Thanh
Thoát trình cơ vậy là có ý gì ? Tào Sơn nhanh mắt biết ngay
cơ ý. Tuy là vậy, nhưng căn cứ vào đâu mà bảo Thoát xà
lê uống rượu.
Tụng :
貧
似 笵 丹
Bần
tự phạm đan
氣
如 項 羽
Khí
như Hạng Võ
活
計 雖 無
Hoạt
kế tuy vô
敢
與 鬥 富
Cảm
dữ đấu phú.
Nghèo tựa Phạm Đơn
Khái như Hạng Võ
Kiếm sống nghề không
Dám sánh phú hộ.
Chú
Thích :
-Thanh
Thoát : tên ông tăng, lai lịch không rõ.
-Thanh
Nguyên Bạch Gia tửu : Thanh Nguyên là địa danh, có thể chỉ
tên một loại rượu nổi danh đương thời, cũng có thể là
chỉ viễn tổ Tào Động tông là Thanh Nguyên Hành Tư.
-Nghèo
chỉ phiền não, nếu được trợ giúp thì hết nghèo, hết
phiền não. Lời nói của Thanh Thoát là diễn tả cảnh giới
giác ngộ vượt lên vô hữu là lời trình cơ. Câu đáp của
Tào Sơn là đã rõ cơ ý.
(Thánh
Tham)
-Chữ nghèo ở đây chỉ cảnh giới chân không. Như trong bài kệ của Hương Nghiêm Trí Nhàn :
去
年 貧 未 是 貧
Khứ
niên bần vị thị bần
今
年 貧 始 是 貧
Kim
niên bần thủy thị bần
去
年 貧 猶 有 桌 錐 之 地
Khứ
niên bần do hữu trác chùy chi địa
今
年 貧 錐 也 無
Kim
niên bần chùy dã vô.
Năm ngoái nghèo chưa là nghèo
Năm nay nghèo mới là nghèo
Năm ngoái nghèo còn đất để cắm
Năm nay nghèo, không cả dùi cắm.
Đã
biết mình nghèo tức là đã đạt chân không, mà chân không
thì đầy đủ chẳng thiếu gì cả. Khi Động Sơn lên tiếng
gọi, Thanh Thoát dạ. Có thể dạ là dụng của tự tánh. Từ
dụng có thể vào Thể.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : Thiền giả như một người nghèo khó tương tự như
Phạm Đan không có một xu.
Câu
3 và 4 : Nhưng nếu kiến tánh thì như tìm ra bảo tàng có khí
thế của bậc vương giả. Thanh Thoát biết vậy nên dám đấu
pháp với Tào Sơn.
-Nam
Hoa nói : Có tự tánh như trong nhà có đầy vàng nhưng không
thừa nhận thì như người nghèo than khổ. Thanh Thoát bị Tào
Sơn gọi bèn lên tiếng thưa, không đánh mà khai, như uống
3 chén rượu say lảo đảo mà bảo còn chưa say, thật nực
cười.
-Khẳng
Đường Sung : Thanh Thoát như người lái buôn Ba Tư có bảo
tàng đem dấu đi đến Đại Đường buôn bán, ngửa tay xin
tiền, bị Tào Sơn vạch ra chỗ dấu tiền.
(Dương
Tân Anh)
-Nghèo
khó là lý tưởng của Thiền tăng. Khi không có gì thì không
phải lệ thuộc vào gì cả, không cả chỗ để ở. Ông hoàn
toàn tự do, tự tại. Cả thế giới thuộc về ông. Khi Thanh
Thoát nói ông là lẻ loi và nghèo khó, ông muốn nói ông đang
sống Thiền. Tào Sơn biết rõ Thanh Thoát đã ngộ và còn chấp
vào cái bóng của sự giác ngộ đó. Do đó, Tào Sơn giúp ông
ta tháo gỡ cái mặt nạ giả đò và sự chấp trước của
ông.
(Kubose)
Tắc Mười Một
TRIỆU CHÂU KHÁM PHÁ AM CHỦ
Cử
:
Triệu
Châu tới gặp một am chủ hỏi :
-Có
không ? Có không ?
Am
chủ giơ nắm đấm lên.
-Nước
cạn không phải là chỗ neo thuyền !
Bèn
đi.
Lại
tới nơi một am chủ khác hỏi :
-Có
không ? Có không ?
Am
chủ này cũng giơ nắm đấm lên.
-Có
thể buông, có thể bắt, có thể giết, có thể tha.
Bèn
lạy tạ.
Bình
:
Một
nắm đấm giơ lên, vì sao một lần khẳng định, một lần
không ? Thử hỏi lừa bịp ở chỗ nào ? Nếu hướng vào chỗ
ấy nói được một chuyển ngữ liền thấy Triệu Châu lưỡi
không xương có thể tung hứng, được đại tự tại. Tuy rằng
thế, chẳng dè Triệu Châu lại bị 2 am chủ khám phá. Nếu
bảo 2 am chủ có hoặc không hơn kém là không có mắt của
người tham học.
Tụng :
眼
流 星
Nhãn
lưu tinh
機
掣 電
Cơ
xế điện
殺
人 刀
Sát
nhân đao
活
人 劍
Hoạt
nhân kiếm.
Mắt sao rơi
Cơ xẹt lửa
Đao giết người
Kiếm cứu người.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : người giác ngộ ánh mắt như lưu tinh, cơ phong nhanh
như tia điện.
Câu
3 và 4 : đã có dao nhọn chém sai lầm, lại có kiếm sắc phát
sinh trí tuệ.
-Có
thể giết : trừ tất cả những vọng tưởng, chấp trước,
khiến thiền giả đang từ trầm không trở thành tỉnh thức.
-Mắt
của người tham học : tức chánh nhãn.
-Câu
hỏi của Triệu Châu có nghĩa là có thường tỉnh thức không
? Hai am chủ đều nhận mình luôn tỉnh thức. Câu nói của
Triệu Châu với am chủ 1, nhận mình thô thiển (nước cạn)
là căn bản của sự tiến bộ trong tọa thiền. Câu nói của
Triệu Châu với am chủ 2 : diễn tả sự tự do hoàn toàn vì
luôn luôn tỉnh thức.
(Sekida)
-Cả
2 am chủ đều phản ứng giống nhau nhưng Triệu Châu thấy
một ông giác ngộ một ông không. Công án này tương tự công
án “Cây gậy của Ba Tiêu”. Chỉ khi nào vượt lên được
hình tướng, cái này, cái kia, là và không là, yêu mà không
chiếm hữu, đói ăn, mệt nghỉ thì mới hiểu được cái
một.
(Kubose)
-Đại ý bài kệ này : người kiến tánh không chấp vào một bên nào, có thể phê bình người thiên hạ cao thấp. Lúc đó mắt hắn như lưu tinh, cơ như xẹt lửa có thể giết người (phủ định tha nhân), có thể cứu sống người (ấn khả tha nhân).
-Phật Tích nói : 2 am chủ đáp câu hỏi của Triệu Châu cùng một dạng. Khi khảo sát công án này không thể ứng phó mơ hồ, nếu tự mình không vượt được cảnh giới lưỡng biên thì không được ấn khả, phí công tham công án này.
-Pháp Âm Lâm nói : 2 am chủ cùng giơ nắm đấm lên, Triệu Châu ứng phó khác nhau thật là miệng lừa chẳng tương can mồm ngựa khiến người ta chẳng biết đường nào mà mò. Công án này như buông dây câu ngàn thước tại 4 biển, 5 hồ (lấy công án này làm mồi để tiếp dẫn vô số chúng sanh).
(Dương Tân Anh)