Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoàng Bá Hy Vận

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 30764)
Hoàng Bá Hy Vận

Tổ Hoàng Bá giữ một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tôngđệ tử của tổ là tổ Lâm Tế, người đã sáng lập ra tông Lâm Tế. Muốn hiểu rõ về tông Lâm Tế thì cần biết rõ về tổ Hoàng Bá là người đã đào tạo tổ Lâm Tế. Tại Trung Hoa, sau thời Lục Tổ thì Thiền Tông chia làm 5 tông: Lâm Tế, Tào Ðộng, Quy Nhưỡng, Vân MônPháp Nhãn. Phần lớn các chùa tại Việt Nam trước đây đều thuộc tông Lâm Tế. Tại Nhật Bản thì hiện nay Zen (Thiền Tông) chỉ có hai tông được phát triển mạnh nhất là Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Ðộng (Nh: Soto).

Sự nghiệp

Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá. Tên Trung Hoa là Huang Po Hsi-yuan, tên Nhật Obaku Kiun. Tổ được người chỉ dẫn đến tham vấn Mã Tổ Ðạo Nhất (709-788) nhưng đến nơi thì Mã Tổ đã tịch nên sau đó tổ đến theo học Bá Trượng Hoài Hải (724-814). Sau đó tổ về trụ trì tại chùa Ðại An ở Hồng Châu, đồ chúng đến theo học rất đông. Ðôi khi tổ đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tại chùa Khai Nguyên, tổ có gặp một vị tướng quốc tên Bùi Hưu. Vị này đã xin nhận tổ làm thầy, theo học tổ rất tích cực và được coi như đã ngộ đạo. Sau này Bùi Hưu đến trấn Uyển Lăng lập đại Thiền Uyển và thỉnh tổ làm hóa chủ ở đó. Bùi Hưu được theo hầu tổ nhiều năm, ngày đêm, nên sau này có viết được tài liệu "Truyền Tâm Pháp Yếu" (năm 858) ghi rất rõ ràng, đầy đủ những lời dạy của tổ. Vì vừa là một nhân vật có văn hóa cao, vừa là người đã ngộ đạo nên Bùi Hưu đã để lại cho chúng ta một tác phẩm rất giá trị. Rất ít có tài liệu nào ghi được đầy đủ và rõ ràng về các lời giảng của các tổ Thiền Tông như cuốn này. Tuy đó là trái ý các tổ, vì Thiền Tông là 'không lập văn tự', nhưng lại là điều có ích cho chúng ta.
Tổ tịch năm 850 tại núi Hoàng Bá và được nhà vua sắc phong là Ðoạn Tế Thiền Sư.

"Truyền Tâm Pháp Yếu"

Cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu" của Bùi Hưu, ghi lại những bài giảng, lời dạy của tổ Hoàng Bá và các mẩu chuyện ngắn về cuộc đời của tổ. John Blofeld đã viết cuốn "The Zen teaching of Huang Po on the transmission of mind" và cho biết là dịch đầy đủ từ "Huang Po Ch'uan Hsiu Fa Yao" chứ không phải là trích dịch. Bản dịch này chia làm hai phần theo sự ghi chép của Bùi Hưu tại hai nơi là Khai Nguyên và Uyển Lăng. Phần lớn là ghi những câu hỏi của Bùi Hưu, còn lại là những câu thưa hỏi của các người khác và các bài giảng của tổ. Cũng nên chú ý là cuốn sách của John Blofeld trình bày rất rõ, chia đoạn, đánh số nên việc tham khảo dễ dàng. Cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu" đã được thiền sư Thích Thanh Từ giảng và ghi băng, theo sát tài liệu gốc, nhưng trong khi giảng thì thiền sư bỏ vài đoạn mà có lẽ cho là không cần thiết. Thiền sư Thích Duy Lực có viết cuốn "Hoàng Bá Thiền Sư Truyền Tâm Pháp Yếu" và ghi là trích trong Chỉ Nguyệt Lục của bộ Tục Tạng Kinh, tài liệu đại cương giống như cuốn sách của John Blofeld.

Bài tựa của Bùi Hưu

Trong bài tựa của cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu" ông trình bày pháp Tối thượng thừa mà tổ dạy là rời văn tự, chỉ truyền dạy Một Tâm, không có pháp gì khác. "Ðối với người chứng được lý đó thì không có gì là mới/cũ, những ý niệm về nông/sâu đều không có nghĩa, (tức là không còn chấp hai bên). Người nói đó không lập nghĩa giải, không lập tông chỉ, không mở cửa ngõ. Thấy ngay đó là phải, động niệm là trái, nhiên hậu mới là bổn Phật. Cho nên lời nói kia rất gọn, lý thấy chỉ thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt". Lời tán tụng này thật là xác đáng.

Những bài giảng của tổ 

Trước khi học về pháp môn của tổ Hoàng Bá, cũng nên ghi lại là từ khi tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ qua Trung Hoa vào đầu thể kỷ thứ 6 và đặt nền tảng cho Thiền Tông thì gần 200 năm sau tới Lục Tổ Huệ Năng Thiền Tông mới tạo ra được pháp tu hành vững chắc, nhưng trong lời dạy vẫn còn dẫn chứng kinh điển để dẫn dắt đệ tử dần dần tới chỗ "giáo ngoại biệt truyền". Từ sau đời Lục Tổ thì các tổ thấy rằng các đệ tử đã được thấm nhuần tông chỉ của Thiền Tông nên các tổ chỉ giảng dạy trực tiếp về Thiền Tông mà không còn giảng dạy về các kinh điển nữa. Tuy không còn dùng kinh điển để giảng dạy nhưng các tổ vẫn giữ y được mục đích tu hành của đạo Phật, không như một số người hiện nay tuy giảng giải kinh điển làu làu mà mục đích lại đi trái hẳn. 

Ngay bài giảng đầu tiên trong cuốn sách, tổ Hoàng Bá đã rứt khoát: "Chư Phật với tất cả chúng sanh chỉ là Một Tâm, chẳng có pháp khác. Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh, không từng diệt, không xanh, không vàng, không hình, không tướng, không thuộc có/không, không là mới/cũ, không dài, không ngắn, không lớn, không nhỏ, vượt qua tất cả hạn lượng, tên gọi, dấu vết, đối đãi. Thẳng ngay đó là phải, động niệm liền trái. Ví như hư không, không có giới hạn, không thể đo lường. Chỉ Một Tâm này tức là Phật. Phật cùng chúng sanh chẳng có sai biệt, chỉ vì chúng sanh chấp tướng bên ngoài, càng cầu càng lạc lối, đem Phật tìm Phật, dùng tâm mà bắt tâm, mãn đời cùng kiếp cũng không thể được."

Tâm

Tổ đã chỉ thẳng ngay mục đích tối hậu của Thiền tông là phải thấy được Một Tâm của chư Phật và tất cả chúng sanh. Tuy tổ đã căn dặn là Tâm đó vượt ra ngoài 'tên gọi', nhưng nếu không dùng tên gọi thì không có cách nào để giảng nên phải tạm gọi là 'Một Tâm'. Danh từ đó thật ra đồng nghĩa với nhiều danh từ khác như Chân tâm, Bản Tánh, Chân Tánh, Bản lai diện mục .. đều chỉ cái bản thể của vạn vật, cái bản thể mà không sanh/diệt, không đo lường được, không hình, tướng, bao la như hư không mà không phải là hư không. Tâm đó là Phật, đi tìm Phật ngoài Tâm đó là điều tốn công vô ích. Thực là phương pháp chỉ thẳng, không dùng đường lối quanh co nào khác. Pháp tu đó được truyền lưu đến nay không thay đổi, là một đặc thái của Thiền tông: "Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật". Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma cũng đã dạy: "Nếu muốn tìm Phật hãy cần thấy tánh. Tánh tức là Phật." Lục Tổ Huệ Năng đã nói: "Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật ... Trí Bát nhã đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào."

Tổ Hoàng Bá giảng thêm: "Tâm này là cái tâm mà vô tâm. Lìa tất cả tướng, chúng sanh cũng như chư Phật chẳng có khác biệt. Hễ được vô tâm thì đến chỗ cứu cánh." Tâm mà không tâm, có nghĩa tâm mà không còn vọng tâm. Vọng tâm chính là cái tâm suy nghĩ, tính toán, cái tâm phân biệt: yêu/ghét, phải/trái, khen/chê .. thường được chúng ta coi là cái "ngã", cái "ta" mà chúng ta quý trọng và dành cả cuộc đời để nuôi dưỡng. Khi thấy rõ được 'vọng tâm' và không còn bị nó điều khiển, lôi cuốn thì chân tâm, tức 'tâm vô tâm' hiện bày. 

"Người đời chẳng ngộ, chỉ nhận 'thấy nghe hiểu biết' (kiến văn giác tri) là tâm mình, bị 'thấy nghe hiểu biết' che khuất cho nên chẳng thấy cái bản thể tinh diệu sáng tỏ." Nhưng tổ e rằng người đời lại cho rằng như vậy thì phải cắt tuyệt 'thấy nghe hiểu biết', để tìm Tâm nên giảng thêm: "Bản Tâm thể hiện nơi 'thấy nghe hiểu biết', nhưng không thuộc 'thấy nghe hiểu biết', mà cũng không rời 'thấy nghe hiểu biết'. Chớ nên ở 'thấy nghe hiểu biết' khởi kiến giải, nhưng cũng chớ nên bỏ 'thấy nghe hiểu biết' đi tìm Tâm." Ðiểm này quan trọng vì có người cho là phải cắt đứt hẳn 'thấy ... biết', hoặc cho rằng càng 'thấy ...biết' ít, thí dụ những người ngu si, thì mới dễ đạt được bản tâm. Chân tâm (Tâm, Bản tâm ..) thể hiện nơi 'thấy ... biết' nhưng không phải cái 'thấy ... biết' đó là chân tâm. Cũng vậy, Chân tâm thể hiện nơi tánh Giác, nhưng cái tánh giác đó không phải là Chân tâm. Nói tánh giác là chân tâm, Phật tánh ... tức là chưa phân biệt rõ "thể" và "dụng". Không phải chỉ có cái thể của Giác là chân tâm, mà cái thể của Mê cũng là chân tâm. Kinh Viên Giác chỉ rõ Giác cũng là "huyễn", chỉ là phương tiện để giảng cho người huyễn thôi. Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh cũng dạy là "không có 'vô minh', cũng không có 'hết vô minh'". Nói một cách khác thì không có mê, cũng không có giác.

Tổ cũng chỉ rõ là chúng ta vốn sẵn có cái Tâm đó, không phải vì tu hành mới có: "Tâm này vốn thanh tịnh, chư Phật, Bồ tát, Trời, người cho đến sâu bọ hàm linh đều cùng một bản thể Phật tánh. Khác nhau chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo đủ thứ nghiệp." Chúng ta thường quan niệm chỉ đức Phật, các vị Bồ tát mới có tâm thánh, còn chúng sanh chỉ có tâm phàm, nhưng mẩu đối thoại sau đã giảng rõ hơn:

 "Hỏi: Theo lời hòa thượng dạy thì Tâm tức Phật; nhưng không rõ Tâm nào là Phật ?
Ðáp: Ngươi có bao nhiêu thứ tâm?
Hỏi: Tâm phàm là Phật hay tâm thánh là Phật?
Ðáp: Ngươi thấy tâm phàm, tâm thánh ở chỗ nào?
Hỏi: Trong các kinh Tam thừa nói có phàm thánh, tại sao hòa thượng lại nói không?
Ðáp: Trong các kinh Tam thừa nói rõ là các tâm phàm thánh là vọng. Ngươi không hiểu nên chấp thành có. Tuy không mà cho là thật há chẳng phải vọng sao? Vì vậy vọng che mất cái Tâm ngươi. Nếu biết buông bỏ, không chấp phàm thánh thì không có Phật nào khác ngoài Tâm. Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ đến đã chỉ thẳng Tâm của mọi người là Phật"

Cũng nên để ý là danh từ phàm/thánh dùng trên là nói về tâm phân biệt, đối đãi, tức cái tâm thấy hai bên như yêu/ghét, khen/chê, phải/trái, thiện/ác, có/không .. tâm phân biệt thường dẫn đến vọng tưởng tạo nghiệp. Khi bồ tát Văn Thù Sư Lợi dấy niệm phân biệt thì liền bị hai núi thép ép lại, đó là câu chuyện tượng trưng cho tâm phân biệt làm lu mờ trí huệ bát nhã

Pháp tu

Pháp tu mà tổ Hoàng Bá chỉ dạy rất là đặc biệt. Tổ chỉ rõ những pháp tu mà chúng ta thường được nghe thấy đều chỉ mới là phương tiện, tức là tùy căn cơ của mỗi người mà đức Phật đã chỉ những pháp tu khác nhau. Ngay cả pháp tu của các vị bồ tát tức là tu theo lục độ mà tổ cũng cho thấy đó cũng chỉ là phương tiện:

 "Hỏi: Nếu Tâm đã vốn là Phật thì còn cần tu lục độ, vạn hạnh không?
Ðáp: Ngộ ở nơi Tâm, chẳng dính dáng với lục độ, vạn hạnh. Những pháp đó chỉ dùng để giáo hóa chúng sinh trong cuộc sống cõi ta bà. Ngay cả những danh từ như Bồ đề, Chân như, Thực tướng, Giải thoát, Pháp thân cho đến Thập địa, Tứ quả, Thánh vị đều thuộc phần giáo hóa, không dính dáng gì đến tâm Phật, nên trong tất cả các môn hóa độ, tâm Phật là bậc nhất."
"Cho đến tu lục độ, vạn hạnh hoặc tạo phước nhiều như số cát sông Hằng, thì phải biết vốn đã tự đầy đủ nên các ngươi không phải tu theo như vậy. Nếu không quả quyết tin Tâm này là Phật mà cứ chấp tướng tu hành để cầu công dụng đều là vọng tưởngtrái với đạo."

Những lời dạy đó không phải là có ý nói không cần tu lục độ, vạn hạnh, vì tu như vậy vẫn được những quả tốt, nhưng chưa đạt tới chỗ cứu cánh. Nếu đã tu lục độ mà theo được như lời tổ thì mới đúng là tu theo lời Phật dạy, còn đã tự mãn cho là đủ thì là sai lầm. Tổ thấy rằng tu như vậy là hãy còn "chấp tướng" vì còn thấy có ngã, có pháp.

"Cho nên nói "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" chỉ là để dạy cho người ngoại đạo tà kiến. Còn nói Pháp thân là quả tột cùng, cũng chỉ là đối với tam hiền, thập thánh mà nói. Ðó là Phật muốn đoạn hai thứ ngu, một là vi tế sở tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu."

Các tông khác trong đạo Phật thường nói là có Ðịnh rồi mới có Huệ, coi như là có hai pháp khác nhau, nhưng Lục tổ Huệ Năng đã chỉ rõ là Ðịnh, Huệ chỉ là một: "Ðịnh là thể của Huệ, mà Huệ là dụng của Ðịnh, ngay trong lúc định có huệ, ngay trong lúc huệ có định, thấu được nghĩa này tức là Ðịnh, Huệ đồng nhau" (Pháp Bảo Ðàn Kinh, phẩm thứ tư).
Tổ Hoàng Bá dạy : "Những pháp như Ðịnh, Huệ (của các tông khác) trụ vào thấy, nghe, cảm, biết để được những trạng thái của định và động. Nhưng đó là những vọng tưởng trụ vào trần cảnh mà thôi, chỉ là phương tiện chỉ dạy cho những người hạ căn dễ hiểu."

Một vài điều thực hành:

"Suốt ngày đừng để mọi việc mê hoặc ngươi, nhưng cũng không cần trốn tránh chúng."
"Hãy coi mỗi niệm như hư không, như khúc gỗ mục, như tảng đá, như tro lạnh khi lửa tắt."
"Cúng dường mười phương chư Phật không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Tại sao? Người vô tâm là người bất cứ thế nào cũng không có tâm vọng."
"Tâm này là Phật. Người học đạo không ngộ được tâm thể này, cứ ở nơi tâm sanh tâm, hướng bên ngoài tìm Phật, chỉ biết chấp tướng tu hành, đều là pháp tà, chẳng phải đạo Bồ đề."
"Kẻ cầu 'thấy biết' thì rất nhiều, kẻ ngộ đạo thì rất ít."
"Khi một niệm khởi lên mà ngươi biết nó là mộng là huyễn thì ngươi cũng như các đức Phật quá khứ .. Ðiều cần nhất là khi niệm niệm nối tiếp nhau thì chớ có trụ vào niệm nào hết .. Cái thức huyễn hóa của ngươi, ngươi làm sao tính muốn đoạn dứt nó .. pháp tánh tự nó như vậy .. lấy chẳng được, bỏ cũng chẳng được."

Chúng ta thấy nói vọng che lấp chân tâm nên lại cố tu tập để trừ vọng. Nhưng như vậy cũng không đúng nữa:

"Hỏi: Vọng che lấp tự tâm, nhưng hòa thượng không dạy chúng con cách trừ vọng.
Ðáp: Khởi tâm trừ vọng cũng thành vọng. Vọng không có gốc, chỉ do tâm phân biệt của các ngươi nên thành có. Nếu các ngươi không còn chấp phàm thánh thì vọng tự nó chẳng có được. Vậy còn muốn trừ nó để làm gì? "

Tổ Hoàng Bá đặt trọng tâm pháp tu là ngộ được "Một Tâm", tức Chân tâm, Phật tánh, Chân tánh.. Không ngộ được Tâm này mà cứ chấp tướng để tu hành thì chẳng phải là đạo Bồ đề. Muốn ngộ được Tâm này thì cần "vô tâm", tức không có tâm vọng. "Cúng dường mười phương chư Phật không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm". Tổ cũng nói: "Phật nói tất cả các pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp." Như vậy pháp tu của tổ nhằm trước hết là phải thấy rõ Tâm của mình, tức chân tâm chứ không phải cái vọng tâm thường suy nghĩ, tính toán, phân biệt. Khi nào tu đến được chỗ vô tâm, tức không còn bị cái vọng tâm chi phối, lôi cuốn nữa thì mới thành quả.
------------------

Tài liệu trích dẫn:

- The Zen teaching of Huang Po - on the transmission of mind. John Blofeld dịch.

- Truyền tâm pháp yếu, Thiền sư Thích duy Lực dịch.

- Truyền tâm pháp yếuThiền sư Thích thanh Từ dịch, giảng..


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12479)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9597)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10160)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20470)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11690)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46778)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12139)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11804)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17903)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10193)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17869)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18252)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17085)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11511)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11677)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19822)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7202)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9233)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14904)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18701)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15313)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17350)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29828)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31606)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32863)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30864)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32649)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39399)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40511)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50217)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16110)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25503)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17844)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33378)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39694)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44064)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23124)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44127)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42950)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44447)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39271)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19296)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35721)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24257)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20431)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19034)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18959)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19357)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20349)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15603)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36371)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20320)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31582)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15973)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 35968)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34428)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19522)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18980)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22964)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20220)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant