Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Định Giúp Con Người Trị Đau

04 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 20504)
Thiền Định Giúp Con Người Trị Đau

Thiền Định Giúp Con Người Trị Đau 

Nguyễn Hữu Đức


thien-dinh-tri-dau-contentTrong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực. Từ “đau khổ” cũng cho thấy đau đớn đưa đến khổ, một cái khổ ghê gớm là bị đau và đau thể xác sẽ gắn với đau về mặt tinh thần. Hiệp hội Quốc tế Nghiên cứu về Đau (International Association for the Study of Pain) vào năm 1979 đã cho định nghĩa về đau gắn liền với khổ như sau: “Đau là một kinh nghiệm khó chịu về mặt cảm giác (sensory) và cảm xúc (emotional) liên quan đến tổn thương có thật trong cơ thể hoặc tổn thương tiềm tàng hoặc được mô tả như có tổn thương!”. Định nghĩa cho thấy đau không chỉ là cảm giác mà là phức hợp gồm cảm giác, nhận thức, tình cảm, tâm lý.

Đau là triệu chứng thường hay gặp ở người bệnh. Khi bị đau, phản ứng tự nhiên của con ngườitìm cách giảm và hết đau. Vì vậy, thuốc giảm đau là loại thuốc được dùng thường xuyênphổ biến nhất. Từ lâu cho đến nay và mãi về sau trong tương lai rất xa, con người vẫn phải chữa đau bằng thuốc. Hiện nay, người ta vẫn chưa tìm ra loại thuốc giảm đau nào hoàn toàn không có tác dụng phụ có hại. Nếu một loại thuốc giảm đau nào không gây nghiện như nghiện ma túy (morphin là thuốc giảm đau rất tốt nhưng chính nó nếu dùng ngoài mục đích điều trị y khoa thì đó là ma túy) thì hoặc thuốc đó gây hại dạ dày (như aspirin) hoặc hại gan (như paracetamol) hoặc làm khởi phát hen suyễn, làm tăng huyết áp… Khổ nổi, khi bị đau là người ta tìm cách thoát khỏi cơn đau ngay bằng cách dùng thuốc và lạm dụng thuốc giảm đau đưa đến bị tai biến do thuốc giảm đau ngày càng phổ biếntrở thành vấn đề nghiêm trọng cho sức khỏe.

Để giúp việc sử dụng thuốc giảm đau hợp lýgiảm thiểu các tai biến do thuốc, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đề ra 3 bậc thang dùng thuốc giảm đau như sau.

Bậc 1 là khi đau nhẹ và vừa, ta nên dùng thuốc giảm đau thông thường mua không cần có đơn thuốc của bác sĩ (gọi là thuốc OTC, viết tắt của Over The Counter tức thuốc mua tại quầy) là paracetamol hoặc thuốc nằm trong nhóm có tên gọi chung là thuốc chống viêm không steroid (viết tắt là NSAID, gồm có: aspirin, ibuprofen, diclofenac…). Nếu dùng thuốc giảm đau bậc 1 là paracetamol hay aspirin không cải thiện đau có nghĩa người bệnh bị đau ở bậc cao hơn tức nặng ở bậc 2 hoặc đau dữ dội như đau ung thư là đau bậc 3. Lúc này phải dùng đến thuốc giảm đau thuộc loại gây nghiện có nguồn gốc thuốc phiện với loại gây nghiện trung bình như codein hoặc loại gây nghiện mạnh như morphin. Thuốc giảm đau bậc 2 và 3 có tính chất gây nghiện bắt buộc phải để cho bác sĩ điều trị chỉ định, tức là chỉ dùng khi có đơn thuốc được ghi bởi bác sĩ.

Trong điều trị nhiều bệnh, ngoài việc dùng thuốc còn có phương thức trị liệu gọi là không dùng thuốc. Biện pháp không dùng thuốc thường không có tác dụng trị liệu nhanh và mạnh như biện pháp dùng thuốc nhưng bù lại, đây là biện pháp không hoặc rất ít gây hại. Biện pháp không dùng thuốc thường được dùng trước tiên, khi tỏ ra không hiệu quả, người ta mới dùng đến thuốc. Trong điều trị đau hiện nay, người ta có dùng thêm biện pháp không dùng thuốc như châm cứu, vật lý trị liệu, tiếp cận tâm lý… Và luôn có sự mong muốn tìm được một biện pháp không dùng thuốc nào đó nếu không thay thế hẳn thì cũng giúp giảm liều đáng kể thuốc giảm đau nhằm không bị tác dụng có hại của loại thuốc này. Hiện nay người ta đang kỳ vọng vào một biện pháp không dùng thuốc là thực hành thiền định và bắt đầu có chứng cứ xác định tác dụng kỳ diệu của biện pháp này.

Trong tạp chí Khoa học Não bộ số ra ngày 6 tháng 4 năm 2011 đã đăng bài đề cập thử nghiệm lâm sàng chứng minh thiền định giúp giảm đau với các hình ảnh chụp não bộ rất rõ ràng. Bài báo khoa học này có tên : “Cơ chế của não bộ cho thấy thiền định làm thay đổi sự đau” (Brain Mechanisms Supporting the Modulation of Pain by Mindfullness Meditation, The Journal of Neuroscience, April 6, 2011. 31(14):5540-5548).

Công trình nghiên cứu kể trên được thực hiện bởi các nhà khoa học của Khoa Sinh học Não bộ và Giải phẫu, Khoa Thao tác Y sinh học (trường đại học y khoa Wake Forest, Winston Salem, North Carolia) và Khoa Tâm lý (trường đại học Marquette, Milwaukee, Wiscosin). Đây là thử nghiệm lâm sàng thử trên 15 người tình nguyện khỏe mạnh, gồm 6 nam, 9 nữ độ tuổi từ 23 đến 35, có 14 người da trắng và 1 da vàng châu Á.

Các nhà nghiên cứu trong công trình này đã dùng kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh tiên tiến là fMRI (functional magnetic resonance imaging) và PASL MRI (pulsed arterial spin labeled MRI) để chứng minh sự giảm đau do thực hiện thiền định liên kết với hình ảnh rõ ràng của các biến đổi ở những vùng khác nhau của não bộ.

Nội dung thử nghiệm gồm 4 giai đoạn:

- Giai đoạn chuẩn bị tâm lý: Người tình nguyện làm quen với việc kích thích gây đau bằng nhiệt (từ 35 0C tăng dần 49 0C) và giúp ghi cách đánh giá thang tâm lý do cường độ đau gây ra từ “cảm giác không đau” hay “không khó chịu chút nào” đến mức đau nhất là “khó chịu gần như không chịu nổi” (most unpleasant imaginable).

- Giai đoạn đo MRI lần 1 (trước khi tập thiền định): Giai đoạn này lại chia ra làm 2: nửa giai đoạn đầu MRI lần 1, người thử nghiệm tập “nhắm mắt và nằm im” đồng thời chịu kích thích nhiệt và được đo MRI; nửa giai đoạn sau MRI lần 1, người thử nghiệm tập “chú ý theo dõi hơi thở”, đồng thời chịu kích thích nhiệt và được đo MRI. Ngoài đo MRI, mức độ tâm lý chịu đau cũng được đánh giá, đây được xem là giai đoạn đối chứng (chưa biết về thiền định) với giai đoạn sau là giai đoạn thực hành thiền định.

- Giai đoạn tập thiền định: Kéo dài 4 ngày, mỗi ngày người thử nghiệm có 20 phút tập thiền định Shamatha dưới sự hướng dẫn của thiền giả đã có ít nhất 10 năm thực hành thiền định. Đặc biệt vào 2 ngày cuối, người thử nghiệm tập thiền định trong âm thanh của máy đo MRI để điều kiện thử nghiệm giống như thử nghiệm giai đoạn cuối.

- Giai đoạn đo MRI lần 2 (trong khi thực hành thiền định): Trong giai đoạn này, người thử nghiệm không chỉ “nhắm mắt, nằm im”, “tập trung chú ý hơi thở như khi chưa tập thiền định” mà còn thực hành thiền định Shamatha như đã tập khi phải chịu đau do kích thích nhiệt. Việc đo MRI và đánh giá tâm lý ở các mức độ đau khác nhau cũng giống như giai đoạn MRI lần 1.

Kết quả của nghiên cứu cho thấy “nhắm mắt, nằm im” hay “tập trung chú ý hơi thở khi chưa tập thiền định” không làm giảm đau, chỉ có thiền định mới giúp giảm đau. Thiền định đã giúp làm giảm đau đến 57% dựa vào thang đánh giá mức độ đau (tức đau bình thường là 100% thì đau ở trạng thái thiền định chỉ còn 43%). Đặc biệt, nhờ kỹ thuật đo MRI các tác giả đã xác định rất rõ ràng các vùng não bộ chịu trách nhiệm về cảm giác đau và khi giảm đau thì những vùng này có sự thay đổi hình ảnh rất cụ thể.

Có thể nói, công trình nghiên cứu thiền định giúp trị đau mở ra triển vọng tìm được phương thức giảm đau không gây tai biến như dùng thuốc mà loài người mơ ước từ lâu. Không những thế, công trình bước đầu cho thấy con người có thể giải mã phần nào cái gọi là “thần diệu bất khả tri” của Thiền định. Kinh nghiệm Thiền định không chỉ người nào thực hành người đó biết mà có thể chứng minh cho người khác biết bằng tiến bộ của khoa học. „

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31993)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 35162)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 43948)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 53202)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 38135)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24908)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21967)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 21200)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 28028)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 39249)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25680)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14134)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 8648)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 30669)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 38126)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20189)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 15582)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 38779)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 13362)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17620)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 12448)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13861)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13033)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12923)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14219)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 21137)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 13913)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 17105)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12675)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30778)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 14709)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13092)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 20335)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant