Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư

11 Tháng Tư 201607:17(Xem: 9904)
Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư

Bài Thứ Tư 
GÓP NHẶT NHỮNG VIÊN NGỌC CHÁNH NIỆM 

Quán Như Phạm Văn Minh

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư


FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm?

Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm.  Hai: Tâm Tư Duy (Thinking mind) qua khái niệm và ý tưởng. Các nhà khoa học não bộ cho biết còn có hai giác quan khác nữa: một là proprio sense, (proprio nghĩa là self), biết vị trí thân thể của chúng ta trong không gianthời gian. Giác quan này ít khi bị mất trừ trường hợp dây thần kinh liên hệ bị cắt đứt. Nạn nhân không thể nào dùng muỗng đưa thức ăn vào miệng, một hành động mà ta làm hàng ngày nhưng thường ít quan tâm. Chúng ta cũng mất ý niệm về thời gian (trước, sau)! Một giác quan khác mà các nhà khoa học não bộ cho biếtintero-ception, nghĩa là cảm giác trực tiếp bên trong thân tâm (lạnh, nóng, vui, buồn, lo lắng, đau đớn) mà từ ngữ thông thường gọi là gut feelings (biết trực tiếp tình cảm, cảm giácý tưởng và ‘biết’ về những cái chúng ta biết và cả những cái chúng ta không biết!) Chỉ có homo sapien-sapiens như loài người mới có trực quan này! Nhớ câu Socrate hay nhắn nhủ đồ đệ” “hãy tự biết mình” Làm sao tự biết mình? Nhờ trực quan này.

Trong khi thinking mind biết thế giới bên ngoài qua khái niệm, sensing mind biết thế giới bên ngoài qua những giác quan nói trên’. Các nhà khoa học não bộ gọi tên thinking mind là DOING MODE, và Sensing Mind là BEING MODE. Vun xới Chánh Niệm có nghĩa là chuyển từ Doing Mode qua Being Mode.

Tâm Tư Duy hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc, tạo ra văn minh, văn hóa, nghệ thuật, triết lý. Não bộ đã học được nhiều kỷ năng trong quá trình tiến hóa nhờ ký ức hoạt động (working memory). Không có ký ức này, mỗi lần chúng ta muốn buộc dây giày, chúng ta phải học lại từ đầu! Nhưng vì phải dựa vào ký ức nên Doing Mode  thường bị điều khiển bởi thói quenchúng ta gọi là automatic pilot và đưa đến tình trạngchúng ta cuối cùng chỉ ‘sống trong đầu’ và thường không còn ‘ý thức’ về những chuyện mà chúng ta ‘đang làm’. Khi ăn mà không biết hay quên mình ‘đang ăn’, khi đi mà ‘quên’ là mình ‘đang đi’ vì trong đầu tràn ngập một  dòng thác lũ của ý tưởng về các chuyện cần làm ngày mai hay tuần tới. Thành thử chúng ta quên sống trong hiện tại nên nhiều khi mất hay vuột cơ hội ‘sống’ những biến cố quan trọng trong đời. Sống như người say rượu và chết như người mộng du!

Chánh niệm giúp chúng ta sống trong khoảnh khắc hiện tại: hiện tạithời gian duy nhấtchúng ta có thể lựa chọn hành động thích hợp. Chánh niệm giúp chúng ta không bỏ phí thời gian và do đó tính ra chúng ta còn ‘lời’ thêm nhiều thời gian để làm những chuyện khác! Cho nên quý vị không thể nói thực hành Chánh Niệm ‘tốn’ thì giờ!

Tâm Tư Duy và Tâm Cảm Thọ: Phân tích ngược lại với cảm thọ

Thinking Mind có những chức năng như suy nghĩ, phân tích, hồi tưởng, hoạch địnhso sánh. Vì thế chúng ta luôn bận “sống trong đầu” với những lo âu này và không còn ý thức về những chuyện xảy ra chung quanh hay nhiều khi ngay trước mắt. Chánh niệm Sensing mind do đó có thể nói là một cách để biết trực tiếp thế giới bên ngoài và bên trong, hay chính xác hơn một cách khác để sống ở đời. Chánh niệm giúp chúng ta trở lại sống với trực quan cho nên chúng ta thấy, nghe, tiếp xúc, ngữi và nếm mọi sự mọi vật như chúng ta tiếp xúc với chúng lần đầu và chúng ta trở nên tò mò nhiều hơn về thế giới bên ngoài và thân tâm. Chánh niệm giúp chúng ta có một cách nhìn mới, không bỏ qua điều gì dù nhỏ đến đâu. Đây là nền tảng của chánh niệm: thức tỉnh, cảnh giác những gì xảy trong bên trong chúng tathế giới bên ngoài từng khoảnh khắc một.  

Mong cầu và vô cầu

Nhiều người thực tập chánh niệm với hy vọng thực hiện được ít nhất là thư giản, hay tăng mức miễn nhiểm để được khỏe mạnh, như khi học lái xe thì đến một mức nào đó, lái xe trở thành một kỹ năng tự nhiên. Điều này rất hợp lý theo sự suy nghĩ thông thường của chúng ta. Nếu không “được gì” thì thực tập làm chi cho mất công! Các Thiền sư dởm thường hứa Quảng hứa Tiều là thực tập Chánh Niệm, hành giảthể đạt được nhân điện (Thiền Bá Láp) hay khai mở luân xa (Thông Thiên Học). Đây là các loại Thiền ngoại đạo, xin cẩn thận khi thực tập vì có thể gặp các biến chứng tẩu hỏa nhập ma. Và Nhất là ngược với nguyên tắc vô cầu của Chánh Niệm.

Đây là một trong những nghịch lý đầu tiên của thực hành chánh niệm,  nếu nhắm một mục đích “nhất định’ có thể là một trở ngại cho động hơn là hữu ích, vì nếu không đạt được mục đích ‘mong muốn’, chúng ta có thể thất vọng là cho rằng Chánh niệm không thích hợp với mình, hay mình không có khả năng thực tập. Nhiều người mong cầu rất cụ thểhợp lý như mong làm giảm áp suất máu hay làm tăng mức “miển nhiễm”. Khi thấy điều này không xảy ra quý vị thất vọng dù nhiều thí nghiệm cho thấy Chánh Niệm thực sự làm giảm áp suất máu, nhưng đó là một hiệu quả phó sản của chánh niệm. Mục đích chủ yếu của Chánh Niệm lớn hơn các mong cầu đó nhiều: mục đích Chánh niệm là giúp quý vị tỉnh thức, chú ý vào bất cứ một hành động đang làm nào trên đời. Còn các kết quả khác sẽ tự nhiên đến.

Chánh Niệm yêu cầu chúng ta tạm thời gạt bỏ phán đoán, thương cái này, ghét cái nọ, mà chỉ ghi nhận. Chúng ta lùi ra sau một bước để quan sát cuộc đời đang hé lộ ‘như chúng là’ trong khoảnh khắc hiện tại. Tâm tiếp xúc với mọi sự mọi việc không thiên kiến (pre-conception), mà chỉ bàng quan ghi nhận hiện trạng đang xảy ra và sau đó chấp nhận thực trạng. Khi chấp nhận hiện trạng, quý vị vô tình làm giảm cường độ của biến cố này và cho phép mình tự do chọn lựa những hành động kế tiếp. Chánh niệm giúp vị kiểm soát lại cuộc đời mình và tìm ra một giải pháp tốt nhất có thể được trong khoảnh khắc hiện tại. Ví dụ khi bị chẩn đoán là bị bệnh ung thư, quý vị chấp nhận là mình bị bệnh, thay vì lo âu, sầu thảm, trách trời, trách đất và sau đó quý vị có thể tìm đúng thầy đúng thuốc để chữa bệnh. Đó là một giải pháp tốt nhất trong tình trạng đó.

Ý tưởng không phải lúc nào cũng là sự thật

Không ai biết ý tưởng từ đâu đến nhưng chúng ta lúc nào cũng suy nghĩ. Các Đại sư Tây Tạng gọi ý tưởngchữ viết trên mặt nước, đó mà không có đó. Thế nhưng Tâm chúng ta xem ý tưởng như những chất liệu có ‘thật’.  Nếu có một biến cố nào đó xảy ra, quý vị dễ bị ý tưởng khống chế, sai khiến. Thay vì là một ‘người phục vụ’ tốt, ý tưởng trở thành một ông chủ độc tài khó tính. Nhờ Chánh niệm quý vị nhận ra ý tưởng chỉ là một tâm hành trong ý thức, đến rồi đi. Chúng không phải là quý vị và cũng không phải lúc nào sự thật. Trong kinh Người Biết Sống Một Mình, Đức Phật cảnh báo là ‘nhiều khi chúng ta bị cuốn khỏi hiện tại, khi nghĩ thân này là Ta, cảm giác này là của Ta, ý tưởng này là của Ta’ (Nhất Hạnh Our Appoinment With Life, P 7). Ý tưởng chỉ là những phán đoán của tâm về quý vị và thế giới, nhiều khi đúng, nhiều khi sai. Thấy được điều này giúp quý vị giải thoát những lo âu không dứt trong tâm của quý vị.

Trốn tránhđối đầu

Trong Tâm tư duy, ngoài nỗi đau do biến cố gây ra, quý vị còn tự bắn vào mình mũi tên thứ hai làm tăng thêm mức căng thẳng đến khi quý vị kiệt sứcthân tâm sụp đổ lúc nào không biết. Chánh niệm quan sát nỗi đau thứ nhất và khuyến khích quý vị chấp nhận thực trạng (Things are the way they are!) và tìm ra một giải pháp ổn thỏa. Khi ghi nhận những khó khăn thì ý tưởng không tự động biến mất, nhưng ít ra chúng giảm cường độ rất nhiều. Quan sátchấp nhận hiện trạng thì chúng dần dần tự biến đi như những tâm hành khác. Đó là sự kỳ diệu của Chánh Niệm, chỉ cần quan sát theo dõi ý tưởng, quyền lực của ý tưởng tự nhiên giảm hay biến mất.

Trong Thinking Mind, quý vị thường có khuynh hướng sống lại những kinh nghiệm đau thương quá khứ và sống trước những đau thương có thể xảy trong tương lai. Không cần nói cường độ đau khổ dĩ nhiên là tăng lên. Chánh niệm huấn luyện cho Tâm chỉ ghi nhận ý tưởng khi chúng xuất hiện. Điều này không có nghĩa là quý vị bị nhốt trong hiện tại, nhưng biết quá khứquá khứ đã qua không trở lại. dự định trong tương lai là dự định trong tương lai, chưa đến.  Trong Sensing Mind quý vị có thể hồi phục sự quân bình tình cảm, giúp quý vị nhìn thấy rõ những nỗi khổ niềm đau nào không thể tránh được trong đời (như vô thường) và do đó có thể có đối ứng thích hợp. Và nếu cần có hành động quý sẽ chọn lựa những quyết định khôn ngoan nhất.

Chánh niệm giúp quý vị có những đối phó với trãi nghiệm bình thản hơn. Và về lâu về dài chánh niệm còn giúp quý vị độ lượngtừ bi đối với chính mình cũng như đối với người khác.

Về phương diện khoa học não bộ, Chánh niệm gây những biến đổi tích cực lên các tế bào não. Những phần tế bào có liên hệ đến các tình cảm tích cực như hạnh phúc, đồng cảm và từ bi được khích động nhiều hơn. Các nghiên cứu cụ thể cho thấy chỉ cần thực hành chánh niệm mỗi ngày trong vòng 8 tuần lễ (như trong chương trình MBSR), quý vị cũng có thể thấy được những ích lợi này.  Dr Sarah Lazar tại ĐH Massachusett cho biết là những người thực hành Chánh Niệm  trong nhiều năm, có mức điểm khởi đầu  (set point)  hạnh phúc cao, nghĩa là những người này ít giận dữ và ít hung hăng, luôn thấy hạnh phúc vui vẻ và trong người thêm nhiều năng lực hơn thay vì mệt mõi. Dr Lazar cũng nhận thấychánh niệm làm kích động một bộ phận của não gọi là Insular, bộ phận làm chúng ta tăng mức đồng cảm và lòng từ bi với người khác trong giao dịch xã hội. Đồng cảm nghĩa là hiểu được động cơ hành động của người khác, do đó thông cảm với họ, dù là mình không chấp nhận hành động của họ. Càng thực tập Chánh niệm nhiều chừng nào phần Insular càng hoạt động nhiều chừng đó. (Ibid p, 49)

Nếu khởi điểm (set point) hạnh phúc của quý vị tăng lên, về lâu về dài, dấu ấn này có thể được in đậm trong các genes cá nhân. Nghĩa là các thế hệ con cháu của quý vị là những đứa con có tâm tính hạnh phúc hơn con cái của những người không thực tập! (Mark Williams, 46).

Chánh niệm và các bệnh tật cơ thể.

Hai kết quả khả quan nhất của Chánh Niệm đối với cơ thể là làm giảm đau cho các bệnh nhân mà bệnh viện đã chịu bó tay, không còn giúp thêm gì nữa. Theo Kabat Zinn các bệnh nhân theo các khóa Chánh niệm MBSR nhiều nhóm tham dự viên có thể làm giảm các cơn đau nhức xuống từ 33%, một số nhóm khác có thể giảm các cơn đau mãn tính xuống đến 50%,  dù đo theo những chỉ số đau nhức nào. Nhiều thí nghiệm lâm sàng cho thấy Chánh niệm có những ảnh hưởng tích cực lên mức độ khỏe mạnh (wellness) của cơ thể. Trong một cuộc nghiên cứu do Viện Sức Khỏe Quốc Gia Mỹ công bố vào năm 2005 cho một số người tham dự thực tập Thiền Siêu Việt (Transcendental Meditation- Thiền Ấn Giáo) trong vòng 19 năm, số tử vong nói chung giảm xuống 23%. Số tử vong liên hệ đến các bệnh tim mạch cũng giảm xuống 30% và số tử vong liên hệ đến ung thư cũng giảm xuống một mức đáng kể. Việc này tương đương với việc sáng chế một loại thuốc mới, nhưng bệnh nhân khỏi phải bị các phản ứng phụ. (ibid, p. 51).

Chánh niệm và trầm cảm 

Hiệu quả nổi bật nhất của Chánh Niệm là đối với bệnh Trầm cảm. Song song với phương pháp MBSR, phương pháp MBCT (Mindfulness Based Cognitive Treatment) do GS Mark Williams và các đồng nghiệp tại ĐH Oxford phát kiến và áp dụng đã làm giảm mức độ tái phát của bệnh trầm cảm xuống còn một phần ba. Viện Y Tế Quốc Gia Anh Quốc khuyến cáo các bệnh nhân nên áp dụng phương pháp MBCT để chữa trị, hoặc áp dụng riêng, hoặc chung với việc dùng thuốc. Nghiên cứu do GS Heeringen ở Bỉ cũng cho thấy bệnh nhân hoặc chỉ thực tập MBCT cho thấy là nguy cơ tái phát giảm xuống một cách đáng kể. Một thí nghiệm khác ở Gia Nã Đại cho thấy kết quả còn ngoạn mục hơn nữa. GS Zindel và các đồng nghiệp ở ĐH Toronto chứng tỏ ngay cả khi bệnh nhân không uống thuốc chống trầm cảm khi thực tập MBCT, kết quả cũng tương đương, nếu không muốn nói còn tốt hơn! (ibid, p. 52).  Những kết quả trên đã được chứng nghiệm bằng nghiên cứu lâm sàng hay trong phòng thí nghiệm của những nhà khoa học não bộ đã thành danh, là hard science, chứ không phải là những lời quảng cáo thương mại nhảm nhí, kiểu sơn đông mãi võ.

Ngoài việc ngăn ngừa bệnh hoạn thân thểtâm lý, Chánh niệm còn giúp chúng ta thanh lọc tâm ý trở thành những người nhân ái hơn. Không có điều thiện nhỏ nào không làm, không phạm điều ác dù là nhỏ tới đâu. Nếu quý vị nào chưa thực tập, xin tỉnh tâm ngồi theo dõi hơi thở. Practicing is believing. Một, Hai. Vào, Ra. Nếu quý vị đang thực tập, tôi chỉ xin nhắc nhở một câu ngắn: Xin tiếp tục. Keep doing.

ABC Ứng Xử: Khoa học tâm lý Ứng Xử (Behaviorism) có đề cập tới hai giai đoạn: Khích động (Stimulus) và phản ứng (reponse). Giữa hai mốc này có một khoảng cách để chúng ta chọn lựa quyết định. Các giai đoạn này tượng trưng cho các giai đoạn ABC. A là stimulus và C là response. B là những lý giải cá nhân về sự cố. C là hành động phản ứng của chúng ta. Thí dụ một người bạn hẹn đi uống cà phê, nhưng không đến. Chúng ta có thể lý giải là bạn bận, chủ không cho về sớm, chẳng hạn. Hoặc chúng ta có thể nghĩ là bạn không còn muốn giữ mối liên hệ nữa. Hành động phản ứng của chúng ta tùy thuộc vào lý giải B. Không phải vì yếu tố A (bạn quên hẹn) mà chúng ta phản ứng cách này hay cách khác. Không cần nói, phản ứng của quý vị có thể khác nhau rất xa, từ tha thứ, thông cảm, hay giận dữ, cắt đứt mối liên hệ. Nếu khoảng cách từ A tới C kéo dài hơn, và chúng ta lý giải sự cố trong chính niệmchúng ta có thể phản ứngý thức, không làm chúng ta hối tiếc về sau.

Chánh niệm phản ảnh trung thực mục đích cứu khổ của Đạo Phật. Như Lai không dạy gì ngoài hơn là phương pháp diệt khổ. Chánh niệm là hương vị của đại dương, tức là hương vị cứu khổ, giải thoát. Đó cũng là đại sự nhân duyên tại sao Đức Phật ra đời, một món quà quý hiếm Phật giáo đã cống hiến cho nhân sinh. Một viên ngọc bích trong sáng được hầu hết các nhà Khoa học Tây phương hiện đại trân trọng, cổ độngáp dụng. Xin quý vị đừng bỏ phí đời mình như người cùng tử trong kinh Pháp Hoa!

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31955)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 35107)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 43906)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 53166)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 24962)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 38107)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24886)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 21166)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 27990)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 39206)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25635)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14118)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 8609)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 30639)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 38101)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20174)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 15570)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 38758)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 13345)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17580)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 12428)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13839)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13022)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12905)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14189)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 21123)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 13896)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 17094)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12649)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30760)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 14665)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13078)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 20306)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant