Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh Niệm Cơ Bản

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14123)
Chánh Niệm Cơ Bản


CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

blank

Vài lời về Tác giả

blankThượng tọa Henepola Gunaratana thọ cụ túc giới vào năm 12 tuổi, trong một ngôi chùa nhỏ ở làng Malandeniya, quận Kurunegala thuộc quốc gia Miến Điện. Thầy bổn sư của ngài là thượng tọa Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. Vào tuổi 20, ngài được thụ phong đại đức ở Kandy, năm 1947. Ngài hoàn tất chương trình giáo dục tại đại học Vidyalankara và đại học Phật học ở Colombo. Ngài sang Ấn độ trong 5 năm để làm việc thiện nguyện cho hội từ thiện Mahabodhi, giúp đỡ người Harijana ở những thành phố Sanchi, Delhi, và Bombay. Mười năm sau đó, ngài sang Mã lai, làm cố vấn tôn giáo cho hội Sasana Abhivurdhiwardhana, hội từ thiện Phật giáo, và Liên đoàn thanh niên Phật tử Mã Lai. Ngài cũng là giáo sư dạy các trường Kishon Dial, Temple Road Girls, và Trụ sở Nguyên tắc Phật học hội ở thủ đô Kuala Lumpur. 

Với sự thỉnh mời của hội Sasana Sevaka, thượng tọa Gunaratana đã đến Hoa kỳ vào năm 1968 với chức vụ Tổng thư ký danh dự cho hội Phật giáo Vihara ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Năm 1980 ngài được bổ nhậm làm Chủ tịch của hội. Trong những năm ở Vihara, ngài dạy những lớp học về giáo lý Phật đà, hướng dẫn những khóa tu thiền, và thuyết giảng một cách rộng rãi khắp nơi Hoa kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và New Zealand. 

Ngài tiếp tục sự học và hoàn tất các bằng cấp Cử nhân, Cao học, và Tiến sĩ triết học ở viện đại học American. Ngài dạy Phật học tại những trường đại học American, Georgetown, và Maryland. Những quyển sách và bài báo do ngài viết đã được phát hành ở Mã lai Á, Ấn độ, Miến điện, và Hoa kỳ.

Từ năm 1973 ngài làm cố vấn ở trường đại học American, khuyến khích giúp đỡ những học sinhý muốn tìm hiểu giáo lý phật giáo và Thiền. Hiện nay, ngài là chủ tịch hội Bhavana ở West Virginia tại thung lũng Shenandoah, chừng 100 dặm cách thủ đô Hoa Thịnh Đốn, hướng dẫn thiền tập và điều khiển những khóa tu học.

Lời nói đầu

Theo kinh nghiệm riêng thì tôi thấy ra rằng, phương pháp hữu hiệu nhất dùng để diễn đạt một vấn đề gì cho người khác hiểu, là dùng các từ ngữ bình dân nhất, đơn giản nhất. Hơn thế nữa, tôi đã học được từ phương pháp mô phạm là, ngôn ngữ càng cứng ngắt khô khan bao nhiêu thì có tác dụng càng ít đi bấy nhiêu. Người ta thường không có phản ứng đối với những ngôn từ nghiêm khắc và khuôn khổ; nhất là khi chúng ta đang cố gắng giảng dạy những gì mà người nghe cho là không dính dáng gì với đời sống hàng ngày của họ. Đối với nhiều người, thiền tập là những gì mà họ không thể làm được một cách thường xuyên hay liên tục. Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập mà không có một vị thầy bên cạnh. Quyển sách này là theo sự đáp ứng của rất nhiều thiền sinh yêu cầu; những người này rất cần một phương pháp hướng dẫn đơn giản bằng ngôn ngữ thông thường bình dân

Để chuẩn bị cho quyển sách này, tôi đã được sự giúp đỡ của rất nhiều bạn đạo. Tôi rất lấy làm biết ơn tất cả. Đặc biệt là đối với John Patticord, Daniel J. Olmsted, Matthew Flickstein, Carol Flickstein, Patrick Hamilton, Genny Hamilton, Bill Mayne, tì kheo Dang Pham Jotika, và tì kheo Sona. Những quí thân hữu này đã cống hiến những đề nghị, lời dẫn giải quí giá, cũng như vô số lời phê bình trong khi soạn thảo quyển sách này. Tôi cũng không quên lời tạ ơn đối với sự giúp đỡ của Sister Sama và Chris O’Keefe trong vấn đề ấn tống.

H. Gunaratana Mahathera
Bhavana Society
Rt. 1 Box 218-3
High View, WV 26808
December 7, 1990

Phần giới thiệu: Phật Giáo Hoa Kỳ

Đề tài trong quyển sách này là phương pháp tu tập Thiền Minh Sát Tuệ. Xin lập lại ở đây “Tu Tập”. Đây là một cẩm nang hướng dẫn tu Thiền Tuệ, là quyển sách chỉ dẫn từng bước công phu để đạt đến Tuệ giác. Điều này cũng có nghĩa là thực hành, là thực dụng. Đã có nhiều quyển sách bao hàm về Phật giáo, trên lãnh vực Triết họclý thuyết về tu Thiền Phật giáo. Nếu vị nào có hứng thú về phạm trù này, chúng tôi khuyến khích bạn nên đọc những cuốn sách đó. Phần nhiều những quyển sách này được viết rất xuất sắc. Còn quyển sách mà bạn đang cầm trên tay, diễn giải cách thức “làm như thế nào”. Nó được viết cho những ai thật sự muốn tu tập thiền, và đặc biệt nhất là những người muốn bắt đầu ngay bây giờ. Thật ra ở Hoa kỳ hiện nay có rất nhiều giáo thọ tốt, đang tu và dạy tu thiền Phật giáo theo truyền thống. Ý định của chúng tôicung cấp cho bạn những gì cần thiết để bắt đầu. Những ai thực hành theo sự hướng dẫn trong quyển sách này, mới có thể biết được là có kết quả hay không. Khi thật sự tu tập một cách liên tục và siêng năng, người ấy mới nhận ra cái kết quả mình đạt được. Không một quyển sách nào khả dĩ có thể bao gồm hết tất cả mọi vấn đề mà một người tu thiền gặp phải. Bạn rồi đây sẽ cần phải gặp một người thầy có đủ năng lực để hướng dẫn triệt để hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện tại, những điều cơ bản và sự hiểu biết rõ ràng những gì diễn tả trong quyển sách này, cũng đủ giúp bạn đi một đoạn đường rất xa. 

Có rất nhiều phương pháp tu thiền. Mỗi truyền thống tôn giáo lớn đều có một vài phương pháp tu tập mà họ gọi là sự trầm tư hay thiền định, và từ ngữ này thường hay bị dùng một cách rất lỏng lẻo. Xin vui lòng hiểu rằng, trong quyển sách này đề cập đến Thiền Minh Sátphương pháp tu tập theo truyền thống của Phật giáo ở miền Nam và Đông Nam Á châu. Pháp tu này thường hay được gọi là Thiền Tuệ, vì bởi mục đích của đường lối tu thiền này là, giúp cho hành giả có được Tuệ giác về bản chất của sự thật và sự hiểu biết xác thực về sự vận hành của mọi hiện tượng

Đạo Phật trong cách nhìn tổng quát, thì rất ư là khác biệt so với các tôn giáo thần học khác, mà người phương Tây đã từng biết qua. Phật Giáo thì giống như là một cánh cửa trực tiếp mở tới lãnh vực tâm linh hay thiêng liêng mà không có sự liên đới hay trợ giúp của một vị thần linh nào cả. Cái phong cách của đạo Phật thì rất là giản dị, rõ ràng: chỉ là một quá trình xem xét liên tục không ngừng về hiện thực; một sự khảo xát tỉ mỉ về tiến trình nhận thức ngay trong hiện tại. Với mục đích là chỉ rõ ra tính nguỵ tạo và sự thiếu hiểu biết trong cách nhìn thế gian của chúng ta, để rồi lột trần ra bộ mặt thật của sự thật rốt ráo. Thiền Minh Sát là một phương pháp cổ xưa và hoàn hảo nhất cho mục đích này. 

Trường phái Phật giáo nguyên thủy trình bày cho chúng ta một đường lối hữu hiệu dùng để khám phá đến tầng lớp sâu kín của tâm, tận nơi gốc rễ cái bản chất của Ý thức. Nó cũng cung cấp một hệ thống nghiêm chỉnh đúng mức về nghi lễ. Truyền thống tốt đẹp này được nung kết theo lối hòa nhập vào tập quán của từng địa phương trong suốt 2,500 năm ở miền Nam và Đông nam Á châu.

Trong quyển sách này, chúng tôi sẽ cố gắng tách biệt phần cơ bản chủ yếu và phần phụ thuộc, để hầu mong diễn đạt thực chất của vấn đề một cách rõ ràng mà vẫn không đánh mất đi tính trung thực của nó. Những đọc giả nào có khuynh hướng về lễ nghi thì nên nghiên cứu phương pháp tu tập Phật giáo nguyên thủy trong những quyển sách khác, và họ sẽ tìm thấy ra một hệ thống nghi thức to lớn với đầy nét phong tục tính, mà vẫn bảo tồn rõ nét truyền thống bản xứ trong phong cách nghi lễ. Còn ở đây, với khuynh hướng đơn giản để áp dụng những phương cách vào những hoàn cảnh thay đổi của tư tưởngcảm giác khi hành giả cần. Thực hànhcứu cánh. Sự khác biệt giữa Thiền Minh Sát và những pháp môn thiền khác thì rất ư là quan trọng và cần phải được thấu hiểu rành rẽ. Đạo Phật chỉ ra rõ hai hệ phái lớn của Thiền. Chúng có sự khác biệt về khả năng tinh thần, sự vận hành hay tác động của Tư tưởng. Theo Kinh Tạng Pali, chúng được gọi là “Thiền quán” hay “Thiền Minh Sát Tuệ” và “Thiền Chỉ”. 

Thiền Minh Sát” có thể phiên dịch là “Trí tuệ”, một sự tỉnh giác rõ ràng và xác thực về những gì đang xảy ra trong lúc này. “Thiền Chỉ” có thể chuyển dịch là “Tập trung” hay “Tịch tĩnh”. Đó là một trạng thái mà tâm đã được đưa vào cảnh giới Định, chỉ tập trung vào một đề mục và không còn trôi dạt lang thang trong lúc đó. Khi đạt được lãnh vực này, một sự tĩnh lặng xuyên suốt thấm nhập khắp thân và tâm, một trạng thái tịch tĩnh cần phải được kinh nghiệmthông suốt rõ ràng. Phần lớn các dòng thiền đều nhấn mạnh về bộ phận “Định” này. Hành giả nhiếp tâm vào đề mục, chẳng hạn như lời cầu nguyện, một vật thể nào đó, tụng một thời kinh, ngọn lửa của một cây nến, một hình tượng của tôn giáo, và loại trừ tất cả tư tưởng cùng khái niệm ra khỏi Ý thức. Kết quả của buổi tọa thiền là một trạng thái hạnh phúc tuyệt vời cho đến khi xuất thiền. Đây là một trạng thái rất tốt đẹp, thú vịquyến rũ, nhưng nó chỉ có tính cách tạm thời thôi. Thiền quán thì đặt phần quan trọng vào bộ phận khác, “Trí Tuệ.”

Hành giả tu Thiền Minh Sát dùng sự tập trung của mình như là loại dụng cụ, để cho sự chú tâm có thể đục bể từng mảnh cái bức tường ảo tưởng; bức tường này đã từ bấy lâu nay vẫn luôn che lấp ánh sáng sự thật về đời sống. Quá trình này sẽ dần dần làm sự chú tâm mạnh dần lên và đến gần thêm hơn với bản chất của sự thật. Đây là một tiến trình cần rất nhiều thời gian, nhưng nếu duy trì bền bỉ và liên tục thì một ngày nào đó, hành giả có thể xuyên thấu cái bức tường kia và làm cho nó xụp đổ dưới ánh sáng của phút giây hiện tại. Cái quá trình biến đổi đến đây coi như là hoàn tất. Lãnh vực này còn được gọi là “giải thoát”, và nó thì vĩnh hằng. Sự giải thoátmục đích tối hậu của mọi pháp tu trong bất cứ pháp thừa nào của đạo Phật. Nhưng đường lối để đạt đến cứu cánh thì thật là đa dạng. 

Có nhiều sự khác biệt to lớn giữa các tông phái trong Phật giáo. Nhưng tựu trung được xếp loại vào hai Tông phái chính — Đại thừa và Nguyên thuỷ. Đại thừa Phật pháp thì phổ biến lan tràn qua các vùng Đông Á, tạo nên nền văn hóa của Trung hoa, Hàn quốc, Nhật bản, Trung Á Nepal, Tây tạngViệt Nam. Nhánh được biết rộng rãi nhất trong Đại thừaThiền Tông, dòng này được thực hành rộng rãiNhật bản, Hàn quốc, Việt nam và Hoa kỳ. Phật giáo Nguyên thủy tồn tại về phía Nam và Đông Nam Á, lan tràn và phổ biến ở những quốc gia như Miến điện, Thái lan, Lào, Miên. Trong quyển sách này, chúng tôi phổ cập theo đường lối tu tập của Phật giáo Nguyên thủy.

Tài liệu về truyền thống Nguyên thủy đều diễn đạt cả hai phương pháp về Thiền Chỉ (tập trung và tâm tĩnh lặng) và Thiền Quán (Tuệ giácTỉnh giác). Có 40 đề mục được dẫn giải trong tài liệu Pali. Chúng được đề nghị như là những đối tượng tập trung và là đề tài cho sự xem xét để dẫn đến Tuệ giác (kinh nghiệm trực giác). Nhưng đây chỉ là sổ tay căn bản, và chúng tôi chỉ hạn chế sự bàn luận về tầm mức quan trọng của những đề mục này — Hơi thở. Quyển sách này là phần giới thiệu về sự đạt được khả năng Chánh niệm qua sự chú ý vừa phải, và hiểu biết rõ ràng về cả tiến trình của sự thở. Dùng hơi thở như là điểm chú ý chính, thiền giả áp dụng sự quan sát vào toàn bộ những gì đang vận hành trong Tri giác. Hành giả học nhìn sự thay đổi đang xảy ra trong tất cả kinh nghiệm sinh lý, cảm giácquan niệm. Người ấy học hoạt động của sự kiện tâm lý và lề lối biến chuyển trong bản chất của Tri thức. Tất cả những thay đổi này luôn luôn xảy ra liên tục không ngừng và hiện hữu trong mỗi phút giây kinh nghiệm trong đời sống của chính mình. 

Tu thiền là một phương thức sống, một phương thức kinh nghiệm tự nhiên (vốn có). Phương pháp này không thể nào được dạy như là một môn học trong học đường. Cái tâm điểm của phương pháp dạy phải xuất phát từ kinh nghiệm tự thân của người thầy. Tuy nhiên, vẫn còn có cả một khối giáo lý khổng lồ về đề tài này, nó vốn là sản phẩm đã được để lại của bậc trí tuệ, toàn giác trong lịch sử nhân loại. Những tài liệu này rất đáng giá cho mọi người nghiên cứu. Điểm quan trọng nhất trong cuốn sách này được trích dẫn ra từ Tam Tạng kinh điển (Tipitaka), đây là ba Tạng kinh bao gồm những gì đức Phật đã dạy khi ngài còn hoằng pháp độ sinh. Tam Tạng luận gồm có Luật Tạng (Vinaya), nói lên những điều luật dành cho những tu sĩ Phật giáophật tử; Kinh Tạng (Suttas), ghi lại những bài giáo pháp của chính đức Phật dạy; và Luận Tạng, là toàn bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) bao gồm tất cả những Triết lý và Tâm lý học Phật giáo.

Vào thế kỷ thứ nhất, có một học giả Phật giáo nổi danh là Ưu-bà-đế-tu (Upatissa) đã viết quyển “Con đường giải thoát” (Vimuttimagga), mà trong đó tác giả đã tóm lược lời dạy của đức Phật về pháp tu Thiền. Cho đến thế kỷ thứ 5th, một học giả Phật giáo uyên thâm khác, ngài Phật Âm (Buddhaghosa), cũng đã viết một luận thuyết về lãnh vực này — Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) là quyển sách có tiêu chuẩn cao về thiền định, giá trị cho mãi đến ngày nay. Những vị thầy dạy tu thiền thời hiện đại, tùy thuộc vào Tam Tạng kinh điển và vào những kinh nghiệm của chính mình. Mục đích của chúng tôi ở đây là trình bày cho bạn một đường lối rõ ràng, xúc tích về Thiền quán qua Anh ngữ. Nhưng quyển sách này chỉ mời gọi bạn bước vào ngưỡng cửa mà thôi. Phần còn lại là tùy thuộc vào bạn có chịu cất những bước đầu tiên hay không, trên con đường khám phá ra “bạn là ai” và tất cả những thứ đó có ý nghĩa là gì. Đây là một cuộc hành trình xứng đáng cho chúng ta vấn thân vào. Chúng tôi chúc bạn được thành công.

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10610)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11088)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9584)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10465)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12080)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9738)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10248)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10263)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19205)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14652)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24364)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15409)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10376)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21489)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10264)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19329)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11391)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18751)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9299)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15949)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25715)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37923)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19648)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18748)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14316)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20153)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9544)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14404)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35641)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10682)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19765)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23245)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13395)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20293)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10640)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9660)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9236)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8524)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9787)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11231)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8336)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14145)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9947)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15255)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12625)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11366)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12112)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11089)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36463)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8997)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17317)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10506)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12227)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13680)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9195)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24888)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11679)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10359)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14558)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13034)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant