Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thuyết Pháp Của Tổ Bồ Đề Đạt Ma Cho Lương Võ Đế (Vietnamese and English)

08 Tháng Tám 201911:30(Xem: 4322)
Bài Thuyết Pháp Của Tổ Bồ Đề Đạt Ma Cho Lương Võ Đế (Vietnamese and English)
Bài Thuyết Pháp Của Tổ Bồ Đề Đạt Ma
Cho Lương Võ Đế (Vietnamese and English)

THE DHARMA LECTURE OF BODHIDHARMA FOR
EMPEROR VŨ OF THE LƯƠNG DYNASTY

Phạm Công Thiện Translated from French to Vietnamese
Thích Thiện Trí Translated from Vietnamese to English

 
bai thuyet phap


PREFACE

 

I was seventeen years of age when I first read this text in Vietnamese. There is something special and indescribable about this text that has shaken me to my bone marrows even though at that time I did not know much about Buddhism. It was indeed the very first time I ever being exposed to Thiền (Zen). Although the tone and language of Thiền in this text were completely foreign and initially bewildered me, I felt strongly connected, close, intrigue, upbeat, ease, secure, and warm about it. Not to mention, I found peaceful moments and peace of mind when reading it. The more I read, the more I love it. Maybe because of its simplicity, directness, truthfulness, and profoundness. And maybe because I have practiced Thiền in my previous life. This text gave me such a great impression and imprinted strongly and deeply in my mind its profound perspective. It has been and always will have a special place in my heart. Indeed, it was one of the motivating forces leading me to learn more about and practice Thiền. I have printed, kept this text, carried with me, and continued reading it from time to time ever since. And yet every time I re-read it, I still find it’s insightful and exceptional. I have taken an initial step to translate this valuable text into English to sow a Buddha seed in everyone's mind, create a good causal condition, form a connection and friendship with everyone, especially, English speaking people in the present and future. I hope everyone will find this text useful, worthwhile, and beneficial the same way I did.

 

Because I'm still a human lost in the delusional cycle of rebirth, deceived by my karmic consciousness, and not able to see and understand all the true meaning of the text, therefore, there are certainly many shortcomings in this translation. Thus, I hope that all the good knowledgeable friends will point out and enlighten me on my shortcomings to make this translation clearer and more complete to benefit everyone. I am sincerely grateful for all of you for this. I also want to thank Dr. Phạm Công Thiện who was an influential Vietnamese professor, writer, poet, philosopher and was an author of many great books at his time for his admirable work translating skillfully this great text from French into Vietnamese. Without his extraordinary work, I would not be able to find, learn and practice Thiền.

 

May I and all beings realize our own Buddha-nature, being enlightened and liberated from all our constraints and sufferings. And together we will attain enlightenment, becoming a Buddha for ourselves and all beings, and is a Buddha of ourselves and all beings.

 

Namo Shakyamuni Buddha.

Liên Hoa Buddhist Temple, Summer 2019

Thích Thiện Trí

 

 

 

THE DHARMA LECTURE OF BODHIDHARMA FOR
EMPEROR VŨ OF THE LƯƠNG DYNASTY
Phạm Công Thiện Translated from French to Vietnamese
Thích Thiện Trí Translated from Vietnamese to English

luong vu de va bo de dat ma
Ảnh minh họa cảnh vua Lương Võ Đế và Tổ Bồ Đề Đạt Ma

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Tôi được mười bảy tuổi khi lần đầu tiên đọc văn bản này bằng tiếng Việt. Có một điều gì đó đặc biệt và không thể diễn tả được về văn bản này đã làm tôi rung động đến tận xương tủy mặc dù lúc đó tôi không biết nhiều về Phật giáo. Đó thực sự là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Thiền (Zen). Mặc dù giọng điệu và ngôn ngữ của Thiền trong văn bản này hoàn toàn xa lạban đầu làm tôi hoang mang, tôi cảm thấy được kết nối mạnh mẽ, gần gũi, hấp dẫn, lạc quan, dễ dàng, an toàn và ấm áp về nó. Chưa kể, tôi tìm thấy những khoảnh khắc yên bình và an tâm khi đọc nó. Càng đọc tôi càng thích nó. Có lẽ vì sự đơn giản, trực tiếp, trung thực và sâu sắc của nó. Và có lẽ bởi vì tôi đã thực hành Thiền ở kiếp trước. Văn bản này đã cho tôi một ấn tượng tuyệt vời và in sâu trong tâm trí tôi cái quan điểm sâu sắc của nó. Nó đã và sẽ luôn có một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi. Thật vậy, đó là một trong những động lực thúc đẩy tôi tìm hiểu thêm và thực hành Thiền. Tôi đã in, giữ văn bản này, mang theo bên mình và thỉnh thoảng đọc nó. Vậy mà mỗi lần đọc lại, tôi vẫn thấy nó sâu sắc và đặc biệt. Tôi đã thực hiện một bước ban đầu để dịch văn bản có giá trị này sang tiếng Anh để gieo hạt giống Phật trong tâm trí của mọi người, tạo điều kiện nhân quả tốt, hình thành mối liên hệtình bạn với mọi người, đặc biệt là những người nói tiếng Anh trong hiện tại và tương lai. Tôi hy vọng mọi người sẽ thấy văn bản này hữu ích, đáng giá và có lợi giống như tôi đã làm.

 

Bởi vì tôi vẫn còn là một người lạc lối trong vòng luân hồi ảo tưởng, bị lừa dối bởi nghiệp thức của chính mình, không thể nhìn và hiểu được tất cả ý nghĩa thực sự của văn bản; do đó, có lẽ và chắc chắn có nhiều thiếu sót trong bản dịch này. Vì vậy, tôi hy vọng rằng tất cả những người bạn thiện tri thức sẽ chỉ ra và khai sáng cho tôi về những thiếu sót của tôi để làm cho bản dịch này rõ ràng và đầy đủ hơn để mang lại lợi ích cho mọi người. Tôi chân thành biết ơn tất cả các bạn vì điều này. Tôi cũng muốn cảm ơn Tiến sĩ Phạm Công Thiện, một giáo sư, nhà văn, nhà thơ, nhà triết họcảnh hưởng của Việt Nam và là tác giả của nhiều cuốn sách tuyệt vời vào thời của ông cho công việc đáng ngưỡng mộ của ông đã dịch một cách khéo léo văn bản tuyệt vời này từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Nếu không có công việc phi thường của anh ấy, tôi sẽ không thể tìm, học và thực hành Thiền.

 

Nguyện cho tôi và tất cả chúng sinh nhận ra Phật tánh của chính mình, được giác ngộgiải thoát khỏi mọi ràng buộcđau khổ của chính mình. Và cùng nhau chúng ta sẽ đạt được sự giác ngộ, trở thành một vị Phật cho chính mình và cho tất cả chúng sinh, và là một vị Phật của chính mình và của tất cả chúng sinh.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Liên Hoa Đạo Tràng, Mùa Hạ 2019

Thích Thiện Trí

 

 

 

THE DHARMA LECTURE OF BODHIDHARMA FOR
EMPEROR VŨ OF THE LƯƠNG DYNASTY
Phạm Công Thiện Translated from French to Vietnamese
Thích Thiện Trí Translated from Vietnamese to English

 

The following is a translation of Bodhidharma’s teachings in the book, “Histoire des Croyances Religieuses et des Opinions Philosophiques en Chine (Depuis l'origine jusquà nos jusquà nos jours)” [English: History of religious beliefs and philosophical opinions in China (from the beginning to the present day)] of Léon Wieger (1922).

 

This is the first dharma lecture of Bodhidharma in China. He preached right at the court of Lương Vũ Đế (Emperor Wu of Liang, - the founding emperor of the Liang Dynasty 464 – 549) with the presence of the Emperor and the officials of the entire bureaucracy. They are the elite intellectual individuals in the country. Although Emperor Liang Wu is a devout emperor and the officials in the dynasty are intellectuals in the country, they do not comprehend and accept the main ideas in the dharma lecture. This is partly because the emperor and his officials were still holding on to their beliefs. Also, in part, because the dharma lecture is overly strong and tough, and almost being bluntly outright. However, the argument was very sharp, the words were succinctly clear and concise. Even though the dharma lecture is very short, but it truly has full meaning, including all the essence of Buddha's teaching and the core of Thiền (Zen). It can be said that the book, “Đạt Ma Huyết Mạch Luận” (The Core Argument of Bodhidharma) is just developed the thoughts from this dharma lecture. Failure in the first lecture in China, Bodhidharma left the Lương dynasty. He did not lecture any more but meditated in front of a wall for nine years.

 

Part One: The Nature of Mind

The whole world is thought in the mind. All the Buddhas, the past and the future have been and will be created in the mind. Knowledge is transmitted from the mind to the mind through words so all sutras (Buddhist canon) are of no use. The mind of each person has the same tune and corresponds to the eternal reality and the reality of all places. The mind is the Buddha; there is no Buddha outside the mind. Seeing enlightenment and nirvana are things outside the mind is a mistake. There is no enlightenment outside the lively mind. There is no place called the place of those who come to nirvana (because nirvana is not a place). Beyond the reality of mind, all are illusory. There is no cause, no condition, no reason, no results. There is only one reality. That is the thought of mind and the resting of the mind are nirvana. To find something outside the mind is to find nothing. The mind is Buddha and Buddha is the mind. Imagine a Buddha being outside the mind or picturing a Buddha outside the mind is delirious.

 

Part Two: Method

Therefore, we must look inside and not outside. We must settle in ourselves to see the Buddha-nature in ourselves. All beings are Buddhas just like us, so we do not need to save anyone. No Buddha is better than ourselves, so we do not need to pray and beg anyone. No Buddha understands us better than ourselves, so we do not need to learn their teachings in their sutras. No law restrains a Buddha. A Buddha cannot be falling so we shouldn't be afraid of sinning. There are no good nor evil, only the movements of the mind. But the mind is the Buddha, so the self-nature (original nature) cannot be mistaken. Making an offering, preaching, zealously upholding the precepts, giving alms, praying, and all other things are of no use at all. There is just only one thing and that is to see the Buddha in ourselves. Seeing the Buddha within us leads to liberation and nirvana.

 

Part Three: Buddha-nature

There are not any sutras nor any ascetic practice can take us out of the Samsara (the endless cycle of birth, death, and rebirth, or in Thiền it means the flow of karmic consciousness). Studying the sutras and practicing asceticism is completely useless and frivolous. In the absolute calmness and inactiveness, let's self-realize the Buddha-nature within ourselves (or seeing into one’s nature or be enlightened), in our mind. That's the real Buddha. Only learn to see the Buddha-nature because it is the only thing worth studying. All other images are mists and illusions. Let's look at the Buddha within us. That is the only honest look. Buddha-nature is in every person, and Buddha-nature is the same in all people. When we forget everything and only retain that reality, we are free from samsara and attain nirvana. All the sermonizers (theorizers) are Mara's assistants and bring people to fantasy. All philosophical systems are completely false and deceptive. Talking about the purification or cleansing, good karma, diligence, and progress are deceiving. Each person is his/her own Buddha and of all. What we have to do until the end is to realize that the sole reality and truth are within each of us. There is no sin or rather only one sin. That is ignorance - the sin not realizing the Buddha-nature within oneself. That is a serious sin because it confines us in the realm of impermanence. The body is ephemeral. Life is fast passing by like a dream. In this short time of life, we have to liberate ourselves by discovering our true self or nature. In this dream of life, we can see our true nature. In this dream of life, it is the Dharma Body that opens itself in the essence. That is the entity.

 

Part Four: Dharmakaya (Dharma Body)

This Dharmakaya (Dharma Body or the nature/essence of reality, the nature/essence of our Mind, or Original Mind, or Buddha-nature) is eternal. Through the cycle of rebirth, rise and fall through countless lifetime, Dharmakaya is still not born, not die, not increase, not decrease, not unclean, not clean, not love, not hate, not come, not go, no men, no women, not old, not young, not cultivating, not continue, no existing, no non-existing. The Dharmakaya is not one, but neither many, not holy but not ordinary. The Dharmakaya comes into all without obstacles and nothing can hinder it. Dharmakaya is cavalier in successive lives, in the cycle of birth and death.

 

Sentient beings and their lives are all returning to Dharmakaya. We see the Dharmakaya right in us. We must move and act in the light of Mind. The Dharmakaya encompasses all beings like the Ganges river keeps its water with boundless alluvial particles. We cannot describe the Dharmakaya, and we cannot explain the Dharmakaya with words. Each one of us must self contemplate, take in, and comprehend the Dharmakaya for ourselves. To comprehend the Dharmakaya is to be liberated and enlightened. To comprehend the Dharmakaya is to liberate from the fluctuation of the world forces (karmic forces) that Shakyamuni Buddha called it the Great Madness. Enlightenment brings us into complete silence. Everyone must discover themselves, discover Buddha-nature beyond the level of expression of words and thoughts. The Dharmakaya is invisible, unchanging, and cannot be destroyed. There is no Buddha other than Dharmakaya because the Dharmakaya is in the Buddhas. The Dharmakaya is also in everyone.

 

Part Five: Peace of Mind

As a reminder that because of the nature of the Dharmakaya (Dharma Body), we do not need prayers, sacrificial rituals, and worship; and also we do not need to find anything outside because we have everything within us. All things outside are illusory and temporary. Nothing is real outside Dharmakaya. Praying for what being worship is yourself, worshiping what is yourself is an absurd and useless thing. The main thing is how to have the stillness and peace of mind; because stillness and peace of mind help us seeing the Dharmakaya within ourselves, that is seeing the Buddha. All fantasy and physical icons are false. It is this mistake that keeps us or brings us into the cycle of rebirth. Do not worship the images that come from us because those images do not belong to Dharmakaya. Only worship the ideas emanating from the Buddha-nature. We must abandon all fantasies about the sacred divinities because they are frivolous illusions. Don't worship those imaginary objects, and don't be afraid of those things. We should also throw away all the phantasms about the Buddha. Phantasms are just frivolous illusions.

 

Part Six: Thiền (Zen)

Nothing is more precious than the invisible ideas of the mind emanating from the Buddha-nature. The only thing we see is the Dharmakaya (Dharma Body) in us. Buddha is an Indian language, not the name of a person. It means enlightenment, an enlightened nature that people can reach. This enlightenment is Thiền (Zen). Those who oppose us cannot understand the value that we bring into the noun Thiền. Thiền does not mean to meditate or contemplate. We only achieve Thiền when we see the Buddha-nature within ourselves. A person who reads countless texts without realizing his on Buddha-nature or attaining enlightenment is just a mundane mediocre person. My teaching is difficult for people to understand because words are not capable of expressing the Way. Only those who achieve it will understand. I can say to my disciples like this, you must reach the Buddha-nature in you, which is the Dharmakaya in you. How to describe… and because it cannot be said, therefore, all the Sutras, Vinaya, and Abhidharma (the three divisions of the Buddhist canon) are useless. The Sutras, Vinaya, and Abhidharma are just frivolous stories, going around the problem. Realizing the Buddha-nature is a simple act. Realizing the Buddha-nature cannot be divided into parts, therefore, we cannot comprehend and practice part by part. Realizing the Buddha-nature is like swallowing a food, also simple and immediate like that. People never talk lengthy about and around swallowing food. We know to swallow or do not know to swallow. Just simply like that! Those who imagine a reality outside the Buddha-nature and seek to specify that reality, they fall into a serious mistake. All ideas beyond the ideas about the intrinsic Buddha-nature are just frivolous phantom. It is these ideas that produce phantom, the mistakes and constantly keep people in the cycle of endless rebirth. Man will be liberated when he denies all the ghosts and those mistakes and at the same time connect to the inner intrinsic Buddha-nature. This moment of this enlightenment, this moment of this liberation, each person must go there themselves. Doctrine can only help people prepare. Doctrine cannot create enlightenment. A dream cannot be learned. Death cannot be learned. Realizing the Buddha-nature in us also cannot be learned. Dharmakaya is very simple. We cannot create it, but we can only realize it. Whoever has received or realized the Dharmakaya does not need heaven, no hell, no self, no other person, nothing left outside. So the realization of Dharmakaya is the work of absolute faith, there is absolutely no suspicious darkness mixing in it. When people dream, they never doubt because they see their true nature. While awake, we must also firmly believe in it, even if we are bound by the illusions of the senses and the mistakes of the imagination.

Part 7: Ignorance

For those who have discovered their silhouette (Buddha-nature) and are no longer bound by any consequences, then any action of the physical body can not affect the Dharmakaya. A mediocre person whose job is as a butcher can also be a Buddha. Those who have realized the Buddha-nature do not create karma anymore, even if they do any action because he is enlightened. Karma only pursues those who are not yet enlightened because those people are still in the darkness of ignorance. It is this ignorance that creates the cycle of rebirth, rebirth in the hell, the animal and the human realm. All moral debt ends when enlightenment destroys ignorance. Enlightened beings do not make sin nor committing a crime anymore.

 

Part Eight: Enlightenment

We must gradually reduce the impressions, gradually reduce ambition, be concentrated and having peace of mind. That is preparation. The sutras, the ascetic practice, the work of research and learning has no benefit at all. The realization of Buddha-nature cannot be learned. Why are there people who have carefully prepared and have the sincerity but still cannot realizing the Buddha-nature? Because their karma opposes them. Their blind coma, their stiff mistakes, and their inabilities are penalties for their sins in the past. They have not paid off the debt. They are not clean enough to achieve enlightenment. This is mental debt and personal effort rather than social status.

 

Part Nine: What is a Buddha?

I have come to China to spread the Mind-seal (the Master’s enlightened mind imprints directly into the enlightened mind of the disciple, this is the true transmission from a Zen master to his disciple), the new teaching that nobody knows in here. Buddha is in the mind of every person. Upholding Precepts, practicing austerity, praying, studying the meaning, all of these things cannot be used for anything. The only purpose that everyone must achieve is enlightenment. When one attains enlightenment, one becomes a Buddha. A Buddha just like all Buddhas even if one cannot read a word at all. Becoming a Buddha means seeing or realizing the Buddha-nature in us, in our mind, in the mind of our mind. Buddha-nature is invisible, cannot be touched, its nature is fragile as nothing. That mind, everyone carries in them.

 

O Mind, O Mind!
You are so big that cover the whole universe.
You are so small that the needle cannot penetrate.
My Mind! You are a Buddha.
It is because of you that I have to go to China to spread the teachings. 

 

 

 

BÀI THUYẾT PHÁP CỦA TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA CHO LƯƠNG VÕ ĐẾ

Phạm Công Thiện dịch

 

Sau đây là bản dịch Bài Thuyết Pháp của Bồ Đề Đạt Ma trong Histoire des Croyances Religieuses et des Opinions Philosophiques en Chine (Depuis l’origine jusquà nos jusquà nos jours) của Léon Wieger (1922).

 

Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và toàn thể văn võ bá quan là những thành phần trí thức ưu tú trong nước. Lương Võ Đế tuy là một ông vua sùng đạo và các quan văn trong triều tuy là những bậc trí thức trong nước, những cũng không lãnh hộichấp nhận nổi những ý chính trong bài thuyết pháp, một phần vì nhà vua và các quan còn chấp thủ, một phần vì lời thuyết pháp quá ư mạnh bạo, gần như sổ sàng tuy lý luận rất đanh thép, ngôn từ rỏ ràng và cô đọng. Bài thuyết pháp tuy rất ngắn gọn nhưng thật là đầy đủ ý nghĩa, bao gồm được tất cả tinh hoa của giáo pháp Phật và cốt lõi của thiền. Có thể nói cuốn Đạt Ma Huyết Mạch Luận chỉ triển khai những tư tưởng trong bài thuyết pháp nàỵ. Thất bại trong lần thuyết pháp đầu tiên ở Trung Hoa, Bồ Đề Đạt Ma bỏ ra đi. Ngài không thuyết pháp nữa mà ngồi thiền trước một bức tường (bích quán) trong suốt chín năm trời.

 

Phần thứ nhất: Bản Chất Của Tâm

Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật - quá khứvị lai - đã và sẽ được tạo thành trong tâm. Sự hiểu biết được truyền từ tâm sang tâm qua ngôn từ nên tất cả những kinh sách chẳng có ích lợi gì. Tâm của mỗi người đồng điệutương ứng với thực tại muôn đời, với thực tại muôn nơi. Tâm là Phật không có Phật ngoài tâm. Coi giác ngộniết bàn là những sự vật ở ngoài tâm là một điều sai lầm. Không có giác ngộ ở ngoài tâm linh động. Không có chỗ nào gọi là nơi chốn của những người đến niết bàn. Ngoài thực tại của tâm, tất cả đều là huyễn tượng. Chẳng có nhân, chẳng có duyên. Chẳng có lý do, chẳng có kết quả. Chỉ có một thực tại duy nhất. Đó là: Tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm chính là niết bàn. Đi tìm một sự vật ngoài tâm là đi tìm bắt hư không. Tâm là Phật và Phật chính là tâm. Tưởng tượng Phật ở ngoài tâm hay hình dung Phật ở ngoài tâm là mê sảng.

 

Phần Thứ Hai: Phương thức

Vậy phải nhìn vào trong chứ không nhìn ra ngoài. Phải tự lắng vào chính mình để thấy Phật tánh trong chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình nên mình chẳng cứu ai cả. Không có vị Phật nào hơn mình nên không phải van xin, cầu nguyện ai cả. Không có Phật nào hiểu mình hơn chính mình nên không phải học hỏi trong những kinh sách của các vị ấy. Không có luật pháp nào kiềm hãm được Phật. Một vị Phật không thể sa ngã nên ta không sợ phạm tội. Không có thiện, không có ác. Chỉ có những động tác của tâm. Mà tâm là Phật nên tự tánh không thể lầm lỗi được. Cúng kiến, hoằng pháp, nhiệt thành giữ giới, bố thí cầu kinh và tất cả những thứ khác đều không có ích lợi gì cả. Chỉ cần một điều duy nhất là nhìn thấy Phật nơi mình. Sự nhìn thấy Phật ở nơi mình đưa đến giải thoát, đến niết bàn.

 

Phần Thứ Ba: Phật Tánh

Không có bất cứ một cuốn kinh nào, không có bất cứ sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. Trong sự an tĩnh, vô vi hoàn toàn hãy kiến tánh ở nơi mình, nơi chính tâm mình. Đó mới đúng là Phật. Chỉ học nhìn thấy Phật tánh thôi vì đó là điều duy nhất đáng học. Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù, ảo ảnh. Hãy nhìn Phật nơi mình. Đó mới là cái nhìn trung thực duy nhất. Phật tánh ở trong mỗi người và trong tất cả mọi người, Phật tánh đều giống nhau. Khi quên tất cả mọi sự và chỉ giữ lại thực tại duy nhất đó là thoát khỏi vòng luân hồi và tới niết bàn. Tất cả những kẻ thuyết lý đều là trợ thủ của Mara và đưa con người đến chỗ huyễn tưởng. Mọi hệ thống triết học đều hoàn toàn sai lầm và có tính cách lường gạt. Nói đến sự tẩy uế, thiện nghiệp, chuyên tâmtiến bộ là phỉnh lừa thiên hạ. Mỗi người là Vị Phật của chính mình và của tất cả. Điều ta phải làm cho tới cùngnhận thức rằng thực tạichân lý duy nhất ấy tiềm tàng trong mỗi người chúng ta. Không có tội hay đúng hơn chỉ có một tội duy nhất: Đó là tội vô minh, tội không nhận được ra Phật tánh ở chính nơi mình. Tội này rất nặng vì nó giam ta trong cõi vô thường. Thân xác là phù du. Cuộc đời trôi nhanh như một giấc mộng. Trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá chính hình bóng của mình. Trong giấc mộng đời, ta có thể thấy được thực chất của mình. Trong giấc mộng đời, chính Pháp thân tự hé mở trong bản thể. Đó là thực thể.

 

Phần Thứ Tư: Pháp Thân

Pháp thân này vĩnh cửu. Trải qua vòng luân hồi, thăng trầm qua vô lượng kiếp, pháp thân vẫn không sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến, không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không có, không không. Pháp thân không một mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng không phàm. Pháp thân đi vào tất cả không bị trở ngại và không gì ngăn cản được. Pháp thân ung dung trong những kiếp liên tiếp, trong vòng sinh tử.

 

Chúng sanh và vận mạng của chúng sanh đều qui về pháp thân. Ta thấy pháp thân này ngay trong ta. Ta phải di động và hành động trong ánh sáng của tâm. Pháp thân bao trùm tất cả chúng sanh như sông Hằng giữ nước của nó hằng hà sa số những phân tử phù sa. Ta không thể diễn tả pháp thân được, mà cũng không thể giải thích pháp thân bằng ngôn từ. Mỗi người hãy tự chiêm ngưỡng, lãnh hội pháp thân cho chính mình. Lãnh hội được pháp thângiải thoát, là giác ngộ. Lãnh hội được pháp thân là ra khỏi sự giao động của thế lực mà đức Thích Ca Mâu Ni gọi là cuồng loạn vĩ đại. Giác ngộ đưa ta vào trong tỉnh lặng hoàn toàn. Người ta phải khám phá chính bản thân mình, khám phá Phật tánh ở mức độ ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từtư tưởng. Pháp thân vô hình, bất biến và không thể bị hủy diệt. Chẳng có Phật nào khác ngoài pháp thânpháp thân ở trong chư Phật. Pháp thân cũng ở trong tất cả mọi người.

 

Phần Thứ Năm: Tĩnh Tâm

Xin nhắc lại rằng vì tánh chất của pháp thân, ta chẳng cần kinh kệ, chẳng cần cúng tế, thờ phụng mà cũng chẳng tìm cái gì ở ngoài bởi lẽ trong mình ta có tất cả. Tất cả những sự vật bên ngoài đều là hư ảo giả tạm. Chẳng có gì thật ngoài pháp thân. Nguyện cầu những gì sùng bái chính là mình, sùng bái những gì chính là mình là một việc phi lývô ích. Điều cốt yếu là làm sao có yên lặng và tĩnh tâm; vì yên lặng, tĩnh tâm giúp ta thấy pháp thân chính nơi ta tức là thấy Phật. Tất cả những biểu tượng giả tưởng, tất cả những biểu tượng vật chất đều sai lầm. Chính sự sai lầm ấy giữ ta lại hoặc đưa ta vào trong vòng luân hồi tái sinh. Không nên sùng bái những hình tượng thoát thai từ nơi mình bởi vì những hình tượng ấy không thuộc pháp thân. Chỉ nên sùng bái những ý tưởng phát ra từ Phật tánh. Phải bỏ tất cả những giả tưởng về thần thánh linh thiêng vì đó chính là những ảo tưởng phù phiếm. Không nên thờ kính những vật giả tưởng đó mà cũng chẳng phải sợ hãi những thứ đó. Cũng nên quẳng bỏ tất cả những ảo ảnh về chư Phật. Ảo ảnh chỉ là những ảo tưởng phù phiếm.

 

Phần Thứ Sáu: Thiền Luận

Không có gì quí hơn những ý tưởng vô hình của tâm phát ra từ Phật tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là: Pháp thân ở nơi Ta. Phật là một tiếng Ấn Độ, không phải tên người và có nghĩa là giác ngộ, linh giácmọi ngườithể đạt tới được. Sự giác ngộ này chính là thiền. Những kẻ đối nghịch với chúng ta không thể hiểu được giá trịchúng ta đem vào danh từ thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng. Ta chỉ đạt đến thiền khi ta thấy được Phật tánh ở chính mình. Một người đọc vô số kinh luậnkhông kiến tánh thì chỉ là kẻ phàm tục tầm thường. Đạo lý ta khó hiểu đối với mọi ngườingôn từ không đủ khả năng diễn tả được đạo. Chỉ có kẻ nào đạt được mới hiểu. Ta có thể nói với những môn đồ ta như vầy: Các ngươi phải đạt đến Phật tánh nơi các ngươi tức là pháp thân nơi các ngươi. Làm thế nào diễn tả được... và bởi vì không thể nói ra được nên tất cả những kinh luận đều vô ích. Kinh luận chỉ là những câu chuyện phù phiếm, đi quanh vấn đề. Kiến tánh là một hành động giản dị. Kiến tánh không thể chia ra thành từng phần nên ta không thể tri và hành từng phần một. Kiến tánh cũng giống như nuốt một thứ đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế. Người ta không bao giờ thuyết lý viễn vông chung quanh sự nuốt đồ ăn. Ta biết nuốt hay không biết nuốt. Chỉ có thế thôi! Kẻ nào tưởng tượng một thực tại ngoài Phật tánh bên trong và tìm cách xác định thực tại ấy, kẻ ấy rơi vào sai lầm nghiêm trọng. Tất cả những ý tưởng ngoài ý tưởng về Phật tánh nội tại chỉ là những bóng ma phù phiếm. Chính những ý tưởng đó sinh ra bóng ma, những sai lầm và giữ con người triền miên trong vòng luân hồi. Con người sẽ được giải thoát khi đã phủ nhận tất cả những bóng ma và những sai lầm ấy, đồng thời gắn liền với Phật tánh ở trong nội tại. Giây phút giác ngộ này, giây phút giải thoát này, mỗi người hãy tự mình đi đến. Giáo lý chỉ có thể giúp người ta chuẩn bị. Giáo lý không thể tạo ra giác ngộ. Mộng không thể học được. Chết không thể học được. Lãnh hội Phật tánh nơi chính mình cũng không thể học được. Pháp thân rất giản dị. Ta không thể tạo ra được mà chỉ lãnh hội được. Kẻ nào đã lãnh hội được pháp thân thì không cần thiên đàng, không còn địa ngục, không còn mình, không còn kẻ khác, không còn gì bên ngoài. Vậy việc lãnh hội pháp thân là việc của đức tin tuyệt đối, không mảy may pha lẫn bóng tối ngờ vực. Khi người ta mộng, người ta không bao giờ nghi ngờ bởi vì người ta thấy thực tánh của mình. Trong khi thức, ta cũng phải tin tưởng vững chắc như vậy dù có bị những ảo tưởng của giác quan và những sai lầm của trí tưởng tượng ràng buộc.

 

Phần thứ bảy: Vô Minh

Đối với những người đã khám phá được bóng hình của mình và không còn bị bất cứ một hệ lụy nào ràng buộc, thì bất cứ một hành động nào của thể xác vật chất cũng không có thể ảnh hưởng đến pháp thân. Một kẻ phàm tục làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không tạo nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động nào bởi vì kẻ ấy đã giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những người chưa giác ngộ vì những người đó còn trong vòng u tối vô minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai, luân hồiđịa ngục, làm thú và làm người. Tất cả nợ tinh thần chấm dứt ngay khi giác ngộ phá hủy vô minh. Bậc giác ngộ không làm nên tội lỗi và cũng không phạm tội nữa.

 

Phần thứ tám: Giác Ngộ

Ta phải giảm dần những ấn tượng, bớt dần tham vọng, (bớt dần) tập trung và an trí. Đó là chuẩn bị. Kinh kệ, tu khổ hạnh, công trình nghiên cứu học hành đều chẳng có lợi ích gì cả. Kiến tánh không thể học được. Tại sao có những người đã chuẩn bị cẩn thận và có thành tâm đứng đắn mà vẫn không kiến được tánh? Bởi vì nghiệp của họ chống đối lại. Sự hôn mê mù quáng của họ, sự sai lầm chai cứng của họ, sự bất lực của họ là những hình phạt về những tội lỗi của họ trong quá khứ. Họ chưa trả hết nợ. Họ chưa đủ trong sạch để đạt được giác ngộ. Đây là nợ tinh thầnnỗ lực cá nhân chứ không phải do địa vị xã hội.

 

Phần thứ chín: Phật là gì?

Ta đến Trung Hoa để truyền bá tâm ấn, đạo lý mới lạ ở đây chưa ai biết. Phật ở trong tâm mỗi người. Giữ giới luật, tu khổ hạnh, cầu kinh, nghiên cứu nghĩa lý, tất cả những thứ này chẳng dùng được việc gì cả. Mục đích duy nhấtmọi người phải đạt đượcgiác ngộ. Khi nào đạt được giác ngộthành Phật, một vị Phật như tất cả chư Phật dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào cả. Thành Phật nghĩa là thấy Phật tánh nơi mình, nơi tâm mình, nơi tâm của tâm mình. Phật tánh vô hình, không thể rờ mó được, bản thể của nó mong manh như hư không. Tâm ấy mọi người đều mang trong mình.

 

Tâm hỡi, tâm ơi!
Mi lớn đến nỗi bao trùm cả vũ trụ.
Mi nhỏ đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được.
Hỡi tâm của ta! Mi là Phật.
Chính vì mi mà ta phải qua Trung Hoa để giảng truyền đạo lý.

Phạm Công Thiện dịch Việt
Thích Thiện Trí dịch Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19524)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33406)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34474)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54509)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37715)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17871)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63636)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17378)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49651)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16859)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56967)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29005)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33306)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38375)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31226)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13903)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14301)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12634)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14808)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19196)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13806)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11824)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30645)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30566)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31189)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37071)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32221)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23641)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12210)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14227)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14078)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33952)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27708)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12442)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28608)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29333)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12381)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29196)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27987)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25643)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22238)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33121)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31796)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39571)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22389)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34444)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27331)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28341)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35241)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31912)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant