Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dạo Bước Vườn Thiền

15 Tháng Hai 201200:00(Xem: 33421)
Dạo Bước Vườn Thiền

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

 tức GÓP NHẶT CÁT ĐÁ Hiệu Đính và Bổ Sung

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


Cùng người dịch:

 Đã in:
Góp Nhặt Cát Đá Thiền sư Muju

 Milarepa, Con Người Siêu Việt Rechung

 Gửi Lại Trần Gian Milarepa

 Ca Ngợi Cô Đơn Kahlil Gibran

 Ba Trụ Thiền (1991) Philip Kapleau

 Ấn bản điện tử (e-book):

 Dạo Bước Vườn Thiền Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 Tiếng Sáo Thép (100 công án Thiền) Như Huyễn Thiên Khi

 Ba Trụ Thiền (2011) Philip Kapleau

 Đang dịch:

 Trung Luận Bồ-tát Long Thọ

 

 daobuocvuonthien-dodinhdong-content

  Tự Tùng Nhất Kiến Đào Hoa Hậu

 Trực Chí Như Kim Bất Cánh Nghi.


“Từ khi chợt thấy hoa đào nở

Cho đến giờ đây hết cả ngờ.”


Phụ bản: Thơ Ngộ của Linh Vân khi thấy Hoa Ðào Nở

(Tranh của Kano Motonobu, đầu thế kỷ 16)


TỰA

Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Trong khi dạo, thấy hoa lá cây cỏ cát đá núi sông biển cả hư không đất liền người vật... đều để mắt ngắm nhìn. Có lúc ngắm lâu, có khi đến mười, hai mươi, ba mươi năm... một hạt cát, một lá cây, một cọng cỏ, một giọt sương, một phiến đá..., có lúc chỉ thoáng nhìn giây lát. Nhưng dù ngắm lâu hay chỉ thoáng nhìn, tất cả lưu ảnh đều rơi vào cái túi vô hình không đáy của người góp nhặt. Một khi đã vào túi không đáy rồi, mỗi mỗi đều rơi chỗ ấy, không rơi chỗ khác; và tất cả đèu là chân thật bất hư. Cứ như thế đã mấy chục năm qua. Gần đây, bỗng nhiên hứng khởi, liền dùng mắt lửa tròng vàng của Tôn Hành Giả làm cho người vật trong túi kia hiện ra chốc lát để người cùng sở thích liếc mắt xem qua, tùy duyên lựa ngắm. Sau khi ngắm qua, ảnh có lưu lại hay không là tùy người ngắm.

Nếu có người hỏi:

- Người vật hoa lá trong các vườn ấy là giống hay là khác? Mỗi vườn có đặc điểm gì?

 Xin đáp rằng:

- Giống thì chẳng giống, khác cûng chẳng khác. Trái chín ở vườn Tàu, cây phát triển ở vườn Nhật, hạt nảy mầm ở vườn Mỹ. Vườn Tàu và vườn Việt là vườn thiên đàng, có Tam Tạng, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng...sinh hoạt. Vườn Nhật là vườn địa đàng, có thêm ông A-đam, bà E-và, con rắn và quả táo... hành tác. Vườn Mỹ lại có thêm máy điện tử cạnh tranh.

- Tôi nghe nói có các Thiền sư làm chủ vườn. Họ đâu cả rồi?

- Tịch cả rồi!

- Sao lại tịch hết? Tịch hồi nào ?

- Khi anh bắt đầu hỏi, họ liền tịch.

- ? ? ? !

- Ðừng lo. Khi nào hoa vườn nhà anh tự nở, tất cả sẽ sống lại.

 Lại hỏi: 

-Hình ảnh từ trong túi không đáy của anh do mắt lửa tròng vàng hiện ra có thật không?

- Ảnh chỉ giống hình, chẳng phải vật thật. Mỗi ảnh chỉ cho thấy một khía cạnh, chẳng phải toàn thể, chẳng phải vật thật. Muốn được vật thật, hãy trở lại vườn nhà mình, nhìn vào trong, không để gián đoạn, đến kỳ hoa vườn nhà mình sẽ tự nở ra, liền là hoa thật, chẳng có chi khác với hoa xưa trong các vườn kia.

- Anh nói nhìn vào trong là nhìn như thế nào?

- Hãy nhìn như người đàn bà trong câu chuyện sau đây:

 Một hôm, một người đàn bà, tên gì không ai biết, đến nghe Bạch Ẩn thuyết pháp. Trong bài pháp, có đoạn sư nói, “Tịnh tâm Tịnh độ, Phật ở nơi mình: một khi Phật hiện, mọi vật trên thế gian liền chiếu hào quang. Nếu ai muốn thấy được như thế, hãy quay vào tâm mình, nhất tâm tìm kiếm.”

 “Vì là Tịnh tâm Tịnh độ, làm sao Tịnh độ được trang nghiêm? Vì là Phật ở nơi mình, Phật có tuớng tốt gì?”

Nghe vậy, người đàn bà suy nghĩ, “Cái đó có khó gì lắm đâu.” Trở về nhà, bà nhìn vào đó ngày đêm, mang nó trong lòng, dù thức hay ngủ. Rồi một hôm, trong lúc đang rửa nồi, bỗng nhiên bà thông suốt.

Ném cái nồi sang một bên, đến gặp Bạch Ẩn, bà nói: “Tôi đã qua đến ông Phật trong chính thân tôi đây. Mọi vật đều chiếu sáng. Kỳ diệu quá! Thật là kỳ diệu!” Bà sung sướng nhảy múa vì vui.

Bạch Ẩn nói, “Ðó là bà nói, còn cái hầm chứa phân thì thế nào?”

Bà liền bước lên tát Bạch Ẩn một cái, nói, “Cái lão này chưa thông rồi.”

Bạch Ẩn cười rống lên.

 (Dạo Bước Vườn Thiền, trg. 23)

Rồi nếu có ai hỏi:

- Thế nào là Thiền?

Xin đáp rằng:

- Đi đường thấy đèn đỏ, chớ vượt qua.

- Cái đó ai chẳng biết.

- Biết mà vẫn phạm.


Xin thêm một lời. Ða số các câu chuyện trong túi không đáy vốn không có tên, nhưng khi quí vị đọc liền thấy mỗi mỗi đều có tên, ấy là do người góp nhặt thêm vào cho tiện gọi. Thường là lấy từ trong câu chuyên ra. Các tài liệu dùng lấy ảnh, phần lớn bằng tiếng Anh, phần nhỏ là tiếng Việt, chút ít là chữ Hán. Cuối mỗi chuyện có ghi xuất xứ, và cuối sách có thư mục.

Sách này phát xuất từ Sa Thạch Tập (Shaseki-shu) của Thiền sư Vô Trụ (Muju), người Nhật sống vào thế kỷ mười ba. Vào năm 1971, người góp nhặt đã dịch sách này lần đầu tiên, lấy tên là Góp Nhặt Cát Ðá, do nhà Lá Bối ấn hành tại Sài Gòn. Rồi từ khi nhiều đồng bào rời quê hương đi khắp ta bà thế giới, đến đâu có điều kiện, họ liền cho in lại để đọc. Nay trước khi làm ấn bản điện tử (e-book), thấy có đôi chỗ sai, liền dịch lại toàn bộ, sửa chỗ sai, bỏ cũ một phần, thêm mới bội phần. Tinh thần vẫn vậy nhưng nội dung thay đổi nhiều, nên không tiện giữ tên của Thiền sư Vô Trụ nữa và tên sách cũng thay đổi, mong độc giả lượng thứvui lòng chỉ cho những chỗ sai lạc để có thể sửa lại khi có dịp. Xin đa tạ.

 Frederick, ngày 20 Tháng 03 Năm 1999

 Đỗ Đình Đồng

 Đọc sách dạng PDF

 

  MỤCž LỤC

 Tựa,

 Mục Lục

1. Ðường Vào Cổng Thiền, trg. 18

2. Một Tách Trà, 18

3. Không Biết, 19

4. Biết Ðể Làm Gì?, 19

5. Cây Bách, 20

6. Mây Trắng, 21

7. Bát Nhã, 21

8. Mẹ của Chư Phật, 22

9. Tịnh Tâm Tịnh Độ, 23

10. Uống Trà Ði!, 24

11. Im Lặng, 24

12. Vô Ngôn Thông, 25

13. Mỗi Ngày Là Một Ngày Tốt, 26

14. Trồng Tùng, 26

15. Hoa Núi Nở Như Gấm, 27

16. Không Sinh Không Tử, 27

17. Mặt Trăng Lặn Chẳng Lìa Bầu Trời, 28

18. Núi Là Núi, Nước Là Nước, 28

19. Ðược Viên Kim Cương Trên Quãng Ðường Lầy, 29 

20. Thế À?, 31

21. Vâng Lời, 32

22. Không Chút Từ Bi, 33

23. Ðại Ba, 33

24. Không Thể Ăn Cắp Mặt Trăng, 34

25. Kệ Phó Pháp của Hoshin, 35

26. Người Trung Hoa Hạnh Phúc, 36

27. Một Ông Phật, 37

28. Ðoạn Ðường Lầy, 38 

29. Shoun và Mẹ, 38

30. Không Xa Phát Tánh, 40

31. Hà Tiện Lời Dạy, 40

32. Ngụ Ngôn, 42

33. Lâu Ðài Cát, 42

34. Ðệ Nhất Ðế, 43

35. Lời Khuyên của Mẹ, 44

36. Tiếng Vỗ Một Bàn Tay, 44

37. Tim Tôi Bừng Cháy Như Lửa, 46

38. Eshun Qua Ðời, 47

39. Tụng Kinh, 47

40. Ba Ngày Nữa, 48

41. Cuộc Ðối Thoại Mặc Cả Chỗ Ở, 48

42. Giọng Nói của Hạnh Phúc, 50

43. Không Nước Không Trăng, 50

44. Danh Thiếp, 51

45. Miếng Nào Cũng Ngon Nhất, 51

46. Bàn Tay của Mặc Tiên, 52

47. Nụ Cười Trong Ðời, 52

48. Mọi Phút Thiền, 53

49. Mưa Hoa, 53

50. Xuất Bản Kinh, 54

51. Việc Làm Trong Ðời Gisho, 55

52. Ngủ Ngày, 56

53. Trong Cõi Mộng, 56

54. Thiền của Triệu Châu, 57

55. Người Chết Trả Lời, 57

56. Thiền Trong Nếp Sống Ăn Mày, 58

57. Ăn Cắp Trở Thành Ðệ Tử, 58

58. Ðúng và Sai, 59

59. Cỏ Cây Giác Ngộ Thế Nào?, 60

60. Nghệ Sĩ Bần Tiện, 61

61. Ðiểm Cân Ðối Chính Xác, 62

62. Ông Phật Mũi Ðen, 63

63. Ryonen, 63

64. Diệu Nhân, 64

65. Vị Tương Chua, 66

66. Ánh Sáng Có Thể Biến Mất, 66

67. Người Cho Phải Cảm Ơn, 67

68. Di Chúc và Ước Mong, 67 

69. Trà Sư và Kẻ Ám Sát, 68

70. Chánh Ðạo, 69

71. Cửa Thiên Ðàng, 70

72. Bắt Ông Phật Ðá, 70

73. Những Người Lính của Lòng Nhân Từ, 71

74. Con Ðường Hầm, 72

75. Ngu Ðường và Hoàng Ðế, 73

76. Sinh Từ Ðâu Ðến, Chết Ði Về Ðâu?, 74

77. Trong Bàn Tay Ðịnh Mệnh, 75

78. Sát Sinh, 75

79. Mồ Hôi Kasan, 76

80. Hàng Phục Ma, 76

81. Những Ðứa Con của Ðức Hoàng Thượng, 77

82. Ngươi Làm Gì Vậy? Thầy Nói Gì Vậy?, 78

83. Một Nốt Nhạc Thiền, 79

84. Ăn Lời Trách Mắng, 80 

85. Vật Có Giá Trị Nhất Trên Thế Gian, 80

86. Học Im Lặng, 81

87. Lãnh Chúa Ðầu Bò, 81

88. Mười Người Thừa Kế, 82

89. Sự Cải Hóa Chân Thật, 82

90. Tánh Tình, 83 

91. Cái Tâm Ðá, 84

92. Không Vướng Bụi Trần, 84

93. Giữ Mình Trong Sạch, 85

94. Sự Phát Ðạt Chân Thật, 86

95. Cái Lư Hương, 87

96. Phép Lạ Chân Thật, 88

97. Hãy Ngủ Ði, 88

98. Không Có Gì Hiện Hữu, 89

99. Bắt Chim, 89

100. Ðã Ðến Lúc Chết, 90

101. Ông Phật Sống và Người Ðóng Thùng Gỗ, 91

102. Ba Loại Ðệ Tử, 91

103. Bốn Hạng Người Tu, 92 

104. Ðối Thoại Thiền, 92

105. Cái Cốc Cuối Cùng, 93

106. Thiền Chiếc Kẹp Gắp Than, 94

107. Thiền của Người Kể Chuyện, 94

108. Lá Thư Gửi Người Hấp Hối , 95

109. Lời Dạy Tối Hậu, 95

110. Không Ràng Buộc, 96

111. Dấm của Tosui, 97

112. Ngôi Chùa Im Lặng, 98

113. Thiền của Phật, 98

114. Niệm Phật, 99

115. Cảm Ơn Lòng Tốt, 99

116. Mây Trên Trời, Nước Trong Bình, 100

117. Thế Nào Là Diệu Pháp, 100

118. Kho Báu Trong Nhà, 101

119. Nếu Biết Ðèn Là Lửa, 101

120. Thế Nào Là Ðạo?, 103

121. Tìm Thầy Học Ðạo, 103

122. Giận Dữ Là Của Quí Trong Nhà, 105 

123. Khi Gặp Cảnh Sống Chết Thì Sao?, 105

124. Tôi Không Muốn Chêt, 106

125. Một Giọt Nước, 106

126. Không Lãng Phí, 107

127. Lạc Thú Trong Núi Sâu, 108

128. Vẽ Rồng, 109

129. Ông Không Ho Ðấy Chứ?, 110

130. Lễ Bái, 111

131. Phước Ðức Trong Ðời, 111

132. Hai Con Thuyền, 112

133. Lông Trắng Phơi Dòng Biết, 113

134. Dự Tiệc, 114

135. Cảnh Cáo, 114

136. Còn Mùi Thiền, 115

137. Cẩn Thận! Cẩn Thận!, 115

138. Sao Chẳng Nói Con Biết, 116

139. Người Trí Không Ngộ Ðạo, 116

140. Chớ Phỉ Báng Tiên Sư Tôi, 117

141. Dạy Con Hồi Nào?, 118

142. Dùng Hằng Ngày Nhưng Chẳng Biết, 119

143. Chỉ Tệ Bằng Một Nửa, 119

144. Ai Trói Ông, 120

145. Ðói Ăn, Mệt Ngủ, 120

146. Ngộ Rồi Ðồng Chưa Ngộ, 120

147. Hãy Về Nhà Ðóng Cửa Lại, 121

148. Ông Tăng Thất Bại, 122

149. Hãy Xem Con Ong, 123

150. Ngộ Không Phải Là Mặt Trời, 124

151. Khuyến Cáo Các Thiếu Nữ, 124

152. Bất Cứ Quyền Hạn Nào, 125

153. Hãy Nói Chuyện Từ Bi Trước Ðã, 125

154. Tôi Không Mua Chuyện Nghiệp Này Ðâu, 127 

155. Phân Trâu Cũ Ði Ðâu Cũng Vậy, 128

156. Tại Sao Tôi Phải Ngồi Thiền, 129

157. Ðêm Qua Tôi Là Khách, 129

158. Chúng Ta Hãy Cứ Như Vậy Ði, 130

159. Lời Mời của Ðịa Ngục, 130

160. Ðàn Bà Là Kho Tàng của Phật Giáo, 131

161. Tôi Không Muốn Nữa, Cảm Ơn, 132 

162. Nếu Anh Thật Yêu Tôi, Hãy Ôm Tôi Ði, 132

163. Cái của Bổn Ni Sâu Không Có Ðáy, 133

164. Công Án của Shosan, 134

165. Gốc của Sanh Tử, 134

166. Làm Sao Dứt Bỏ Ðam Mê Tình Dục, 135

167. Người Tu Không Nên Gần Ðàn Bà, 136

168. Thật Là Một Thử Thách Gian Nan, 136

169. Ði Chơi Ðêm, 137

170. Ở Hoàn Cảnh Nào Cũng Ngộ Ðược, 137

171. Ông Có Cô Con Gái Khá Sắc Sảo Ðấy, 138

172. Ðam Mê và Giải Thoát, 139

173. Thể Hiện Cái Dụng của Phật Tánh, 140 

174. Bài Học Từ Bi, 141

175. Hoa Sen Ðêm, 143

176. Ðôi Khi Con Nghĩ Kinh Nghiệm Tình Dục Còn Thực Hơn Kiến Tánh, 149

177. Không Là Gì?, 156 

178. Ðọc về Ngộ Cũng Như Gãi Ngứa Ngoài Giày, 157

179. Ðọc Hay Không Ðọc, 158

180. Nếu Tôi Nói Thiền, Ðấy Chẳng Phải Là Thiền Tôi Nói, 162

181. Tại Sao Các Thiền Sư Trả Lời Bằng Giọng Khó Ưa?, 163

182. Cái Gì Thực Sự Có?, 164 

183. Thế Nào Là Phật Tâm?, 165

184. Không Có Thiền Sư, 165

185. Thiền Ðịnh Siêu Việt: Ai Siêu Việt Cái Gì?, 167

186. Máy Ðiều Khiển Tâm Sinh Lý: Thiền Ðiện Tử?, 169

187. Tôi Có Thể Vừa Tu Thiền Vừa Là Tín Ðồ Do Thái (hay Ky-tô) Giáo Tốt Không?, 171

188. Thế Nào Là Ngộ?, 173

189. Lão Sư Ðã Ngộ Chưa?, 173

190. Ngộ Giống Cái Gì?, 174

191. Thế Nào Là Ngã Mạn?, 174

192. Tám Gió Thổi Chẳng Ðộng, 175

193. Bà Lão Hay Khóc, 176 

194. Tôi Ðã Diệt Hết Tật Xấu Rồi, 177

195. Con Nhện và Thiền Tăng, 177

196. Giàu và Nghèo, 178

197. Núi Tu Di Chứa Trong Hạt Cải, 179

198. Trúc Cao Trúc Thấp, 179

199. Tôi Không Có Gì Dấu Ông, 180

200. Không Ta Không Người, 181

201. Vì Có Tôi Ở Ðây, 181

202. Tiếng Mưa Rơi, 182

203. Trở Về Tay Không, 182

204. Ði Trong Mưa, 183

205. Có và Không, 183 

206. Theo Dòng Mà Ði, 184 

207. Tới Lui Ðều Khó, 185

208. Không Bằng Thằng Hề, 185 

209. Cái Gì Chẳng Phải Phật Pháp?, 186

210. Bắt Hư Không, 187

211. Ðường Ðến Nết Bàn, 187

212. Lạnh Khi Lạnh, Nóng Khi Nóng, 188

213. Nơi Không Sinh Tử, 188 

214. Ai Biết Cô?, 189 

215. Ba Cân Gai, 189

216. Tuyết Rơi Mảnh Mảnh, 190

217. Cầu Ðá Triệu Châu, 191

218. Rửa Chén Ði!, 191

219. Triệu Châu Hỏi Ðường, 192

220. Ðiểm Cái Tâm Nào?, 192

221. Anh Có Phải Là Phật Tử Không?, 193

222. Vì Tôi Là Y Sĩ, 194

223. Không Cầu Không Mong, 195

224. Sống Ư? Chết Ư?, 196

225. Chỉ Mặt Trăng, 197

226. Khỉ Trong Chuồng, 197

227. Vô Tâm, 198

228. Ðứa Trẻ Ba Tuổi Cũng Biết, 199

229. Tôi Chỉ Ðứng Ðây Thôi, 200

230. Trên Ðỉnh Cô Phong, 201

231. Ðan Hà Ðốt Tượng Có Ý Gì ?, 201

232. Cười Với Ðất Trời, 202

233. Hương Nghiêm Leo Cây, 202

234. Ý Kinh Và Ý Tổ, 203

235. Nhìn Mà Không Thấy , 203

236. Tâm Bình Thường, 203

237. Cậu Bé Bính Ðinh Ðến Xin Lửa, 204

238. Hư Không Có Ðể Mắt Nhìn Hoàng Thượng Không?, 205

239. Ông Biết Bắn Không?, 206

240. Bay Mất Ðược Sao?, 207

241. Phật Mặt Trời, Phật Mặt Trăng, 207

242. Qui Củ Thiền Ðường của Bách Trượng, 208

243. Ma Ngôn Ngữ, 209

244. Triệu Châu Ðội Dép Rơm, 210

245. Bị Lừa Ðá , 210

246. Cớ Sao Lại Có Bụi, 211

247. Chỗ Có Phật Chớ Ðứng Lại, 212

248. Không Mắt Tai Mũi Lưỡi, 212

249. Nước Con An Ổn, 214

250. Không Chỗ Nào Không Ðến, 216

251. Là Người Hay Là Phật, 216

252. Ðầy Mắt Núi Xanh, 217

253. Tấm Lòng Trong Sạch, 218

254. Thiền và Thuật Trị Nước, 218

255. Giấy Ði Cầu, 219

256. Tỉnh Ngộ, 219

257. Gan Ruột, 220

258. Chớ Lo Lắng, 220

259. Ẩn Cư, 222

260. Ðẹp Hơn Hoa, 222

261. Hét Trống Ðịa Ngục, 223

262. Lời Cuối Cùng, 224

263. Kinh Một Chữ của Ðại Giác, 225

264. Kinh Không Chữ của Phật Quang, 225

265. Ðịa Tạng Nguyên Hình, 226

266. Tham Vấn Ban Ðêm, 227

267. Bức Tranh Người Ðẹp, 229

268. Tiếng Hét của Toden, 229

269. Thanh Kiếm Giấy, 231

270. Ðất Trời Tan Vỡ, 231

271. Vẽ Tánh, 232

272. Bản Sao, 233

273. Bài Pháp của Ni Sư Shido, 234

274. Tổ Sư Hiệp Sĩ Từ Phương Tây Ðến, 234

275. Thiền Một Chiếc Áo của Ðại Giác, 235

276. Thiền Cái Khố của Phật Quang, 236

277. Ðịa Tạng Ra Khỏi Chánh Ðiện, 237

278. Vây Rồng, 238

279. Vật Dưới Rốn của Thời Tông, 239

280. Cổng Ra Vào Thế Giới Chư Phật, 240

281. Chiếc Y Niệm Phật, 241

282. Thuyết Pháp, 242

283. Múa Thương Tay Không, 242

284. Ðánh Chuông, 243

285. Sao Không?, 244

286. Ăn Cá Thịt Làm Sao Thành Phật?, 245

287. Mưa Ðêm, 246

288. Thiền Sư Thông Thái, 247

289. Ông Phật Say, 247

290. Ðại Sư Vi Tế, 250

291. Phật Trong Ðời Này, 251

292. Ấn Khả Quá Sớm, 252

293. Ðại Sự, 253

294. Sai Lầm, 255

295. Một Ngày Không Làm, Một Ngày Không Ăn, 256 ` 

296. Yêu Hoa, 257

297. Cỏ Thơm, Hoa Rụng, 258

298. Ba Chuyển Ngữ, 259

299. Ai Ở Trong Giếng, 259

300. Nên Cười Hay Nên Khóc, 260

301. Tổ Phật Lừa Người, 261

302. Dứt Bỏ Thế Tình Mê Hoặc, 262

303. Lưới Tình Thế Gian Không Có Ngày Dứt, 262

304. Gọi Trâu Ði Tắm, 263

305. Hai Mảnh Ngọc Hợp, 264

306. Ăn Cơm Mặc Áo, 265

307. Ai Là Kẻ Không Cùng Muôn Pháp Làm Bạn, 266 

308. Câu Hỏi Nhất Thừa Ðã Mất, 267 

309. Cư Sĩ Có Ðây Không?, 267

310. Một Câu Sau Cùng Chẳng Ai Nói Ðược, 270

311. Làm Sao Quên Ðược, 270

312. Hãy Còn Câu Thứ Nhì, 272

313. Ai Nhờ May Mà Thua, 272

314. Lão Già Ganh Tị, Chẳng Phân Tốt Xấu, 273

315. Bàng Cư Sĩ Ðọc Kinh, 274

316. Mai Ðã Chín Chưa?, 274

317. Một Câu Cũng Chẳng Cần, 275

318. Miệng Câm Mắt Mù, 276

319. Ðường Ấy Ði Ðâu?, 276

320. Chuyển Y Công Ðức, 277

321. Bàng Cư Sĩ Cùng Vợ Và Con Gái , 277

322. Kẻ Không Hiểu Là Ai?, 278

323. Bởi Vì Tôi Coi Ðó Là Kẻ Thù, 279

324. Vướng Mắc Thân Tâm, 279

325. Thoát Lạc Thân Tâm, 280

326. Ðọc Ngữ Lục Thiền Ðể Làm Gì?, 281

327. Tìm Ngộ, 282

328. Ngộ Là Gì?, 282

329. Bằng Chứng, 283

330. Hãy Ở Trong Tâm Phật Bất Sanh , 283

331. Còn Gì Ðể Truyền, 284

332. Ông Núi, 285

333. Ông Tăng Trì Ðộn, 285

 Thư Mục, 287
Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Mười Một 201208:00
Khách
kinh gui anh DO DINH DONG, co the cho em xin email khong . em la nguoi quen cu o xom nha duong ray xe lua , em o ke gan nha mo Ba LOng, mo cua anh . Em mong duoc lien lac voi anh de hoi tham tin tuc gia dinh Mo'. Phung
15 Tháng Hai 201208:00
Khách
120. THẾ NÀO LÀ ĐẠO?

Triệu Châu Tòng Thẩm là một Thiền sư sáng ngời của Trung quốc. Một hôm có ông tăng hỏi, “Thế nào là Đạo?” Triệu Châu liền đáp, “Ngoài hàng rào đó.” Đạo ư? Ồ vâng, kìa, nó đó! Ngoài hàng rào đó. Nhưng về phía ông tăng--đó chẳng phải cái mà tôi đang hỏi, con đường nhỏ ngoài hàng rào. Ông tăng nói, “Cái gì thế, con muốn nói Đại Đạo kià.” Ông ta muốn nói Đại Đạo của vũ trụ.

Bây giờ Triệu Châu nói: “Đại đạo đến Trường an.”

Đại đạo ư? Nếu là đại đạo mà ông muốn nói, đó là con đường dẫn đến kinh đô Trường an. Đây sẽ là xa lộ chính và trong thời hiện đại này chúng ta có thể đi đến kinh đô bằng tàu suốt. Đại đạo đến Trường an, đó là câu trả lời của sư.

GS001: Nói chuyện đạo mà ba xàm như thế này thì ghi nhớ làm cái gì? Lợi ích gì? Trí tuệ để ở đâu mà ca ngợi những chuyện ba xàm như thế này?
15 Tháng Hai 201208:00
Khách
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG: Cái học hàn lâm chẳng phải là bát nhã, tích lũy kiến thức chẳng phải là bát nhã, tất cả những gì do học mà có chẳng phải là bát nhã.

GS001: Kiến thức nào có CHÁNH KIẾN (đúng với sự thật) ví dụ LUẬT NHÂN QUẢ, thì vẫn thuộc về BÁT NHÃ.


ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG: Mặt khác, có thể hiểu bát nhã bằng thái độ ngược lại, nghĩa là, bằng cách gột sạch tất cả kiến thức đã có. Hành động tinh thần và thể xác đặt căn bản trên trực giác bản hữu là bát nhã. Chẳng hạn như một người bị đánh kêu, “Ui cha!” -- không nghĩ tốt hay xấu, chỉ “Ui cha!” thôi. Đây là bát nhã.

GS001: Thế với các bậc đã giải thoát như PHẬT hay các vị A LA HÁN, khi nhập DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH, không kêu lên UI CHA! thì các ngài không có BÁT NHÃ sao?
15 Tháng Hai 201208:00
Khách
3. KHÔNG BIẾT

Khi Bồ-đề Đạt-ma (532 d.l.), Thiền Tổ thứ nhất, từ Ấn độ đến Trung quốc, Lương Vũ Đế (502-550 d.l.) muốn gặp Tổ. Hoàng đế hỏi Tổ, “Thế nào là nghĩa tột cùng của Thánh Đế?” Tổ đáp, “Rỗng thênh, không thánh.”

Hoàng đế lại hỏi, “Ai đang ở trước trẫm đây.”

Tổ đáp, “Không biết.”

Một bậc giác ngộ làm gì có câu trả lởi như "KHÔNG BIẾT" giống kẻ u mê như thế. Tổ phải trả lời rằng: "KHÔNG LÀ AI CẢ". Đó mới khế hợp với sự giác ngộ VÔ NGÃ của những bậc giải thoát. Kẻ nào kể lại câu chuyện như trên là đã phỉ báng tổ ĐẠT MA.
15 Tháng Hai 201208:00
Khách

Thiền sư Đạo Nguyên (1200-1253) nói:

1. Học Phật pháp là học chính mình.

2. Học chính mình là quên chính mình.

3. Quên chính mình là trở thành một với Đại Tâm vô biên.

GS001:

Câu số 1, ĐÚNG!

Câu số 2, SAI! (Học chính mình để thấy mình không có, VÔ NGÃ).

Câu sô 3, SAI! Rơi vào ĐẠI NGÃ của Bà la Môn.
15 Tháng Hai 201208:00
Khách
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG: - Thế nào là Thiền?

Xin đáp rằng:

- Đi đường thấy đèn đỏ, chớ vượt qua.

- Cái đó ai chẳng biết.

- Biết mà vẫn phạm.


GS001: Qúi vị biến Đạo Phật như trò chơi của những kẻ trà dư tửu hậu. Qúi vị chỉ biết bắt chước những ông thiền sư Tàu và Nhật nói những lời vô nghĩa. Đức Phật xa xưa khi ra đi từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ đâu phải chỉ để tìm được những thứ rởm đó. Nó chả giúp gì để cho cuộc đời bớt khổ đau một chút nào cả.

Hãy vào trong nhà thương để thấy những rên la đau đớn của bao nhiêu người để xem mấy thứ thiền mà quí vị đã học có áp dụng được chút nào không? Ngoại trừ khi quí vị cho rằng "BÌNH THƯỜNG TÂM LÀ ĐẠO" để che dấu một sự ĐẦU HÀNG trước những khổ đau của cuộc đời, thì tôi khỏi cần bàn cải nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19845)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19534)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 34485)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54527)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37730)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21138)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17889)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22460)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56975)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13843)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29016)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33322)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38390)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14619)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14306)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12644)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13809)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30394)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11835)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30654)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29395)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30576)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31199)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37090)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32230)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23655)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12219)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14090)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33969)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27721)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12456)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28634)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29358)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12387)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29218)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27998)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25663)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26033)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22264)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33134)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31802)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39579)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22421)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34469)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27341)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28356)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant