- Chương Một: Vì sao phải quan tâm đến thiền?
- Chương Hai: Những gì không phải là thiền?
- Chương Ba: Thiền là gì?
- Chương Bốn: Thái độ
- Chương Năm: Sự thực tập
- Chương Sáu: Phương cách điều thân
- Chương Bảy: Phương pháp điều tâm
- Chương Tám: Ngồi thiền
- Chương Chín: Chuẩn bị trước khi ngồi thiền
- Chương Mười: Những khó khăn trong lúc ngồi thiền
- Chương Mười Một: Đối trị với sự xao lãng - Phần I
- Chương Mười Hai: Đối trị với sự xao lãng - Phần II
- Chương Mười Ba: Chính niệm (Sati)
- Chương Mười Bốn: Niệm và định
- Chương Mười Lăm: Thiền tập trong đời sống hằng ngày
- Chương Mười Sáu: Được gì cho ta?
- Lời Kết: Năng lực của tâm từ
CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN
Nguyễn Duy Nhiên dịch,
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản: Thanh Hóa 2009
Chương
Bốn
Thái độ
Trong thế kỷ vừa qua, giới khoa học phương Tây đã có một khám phá lớn làm chấn
động tất cả mọi người: Chúng ta là một phần của thế giới ta nhìn. Điều ấy có
nghĩa là, chính sự quán sát của ta sẽ thay đổi đối tượng mà ta quán sát.
Ví dụ, hạt điện tử là một vật thể nhỏ bé nhất. Chúng ta không thể nào nhìn thấy
nó bằng mắt thường. Và những khí cụ nào ta sử dụng để nhìn sẽ quyết định
những
gì ta nhìn thấy. Nếu ta nhìn một hạt điện tử, dưới một góc cạnh nó sẽ có
những
đặc tính của một hạt phân tử (particle), một viên banh bé tí nhảy theo những
đường thật thẳng. Và khi ta nhìn nó dưới một góc cạnh khác, hạt điện tử ấy lại
có đặc tính của một làn sóng (wave), nó rực sáng và nghiêng ngửa khắp nơi,
không có một vẻ gì là đặc rắn hết. Một hạt điện tử là một sự kiện (event) hơn
là một vật, và người quán sát tham gia vào sự kiện ấy bằng chính hành động quán
sát của họ. Không có cách nào để tránh khỏi mối tương quan ấy.
Khoa học của phương Đông đã nhận ra được nguyên lý căn bản này từ lâu. Tâm thức
cũng vậy, tự nó là một nhóm sự kiện, và chúng ta tham gia vào các sự kiện ấy
mỗi khi ta quay lại nhìn vào chính mình. Thiền tập là một sự quán chiếu có tham
gia: đối tượng quán chiếu sẽ phản ứng tùy theo sự quán chiếu của ta. Trong trường
hợp này, đối tượng quán chiếu là chính ta, và những gì ta thấy sẽ hoàn toàn tùy
thuộc vào cách ta nhìn. Vì vậy, phương pháp thực tập thiền quán phải vô cùng
tinh tế, vì kết quả sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của ta. Tôi
muốn trình bày cho bạn một số thái độ quan trọng, cần thiết cho sự thực tập.
Những thái độ này cũng đã được nói sơ qua trước đây, nhưng ở đây tôi muốn gom
chúng lại như là những quy luật thiết yếu cho sự thực tập:
1. Đừng kỳ vọng bất cứ điều gì
Chỉ việc ngồi lại và xem chuyện gì sẽ xảy ra. Coi tất cả như là một cuộc
thí
nghiệm. Hãy tích cực chú tâm, nhưng đừng để bị dính mắc vào những kỳ vọng về
bất kỳ một kết quả nào. Cũng thế, đừng lo nghĩ về bất cứ một việc gì sẽ xảy ra.
Hãy để cho tiến trình thiền quán xảy ra theo nhịp độ và đường hướng của nó. Hãy
để sự thực tập dạy cho ta. Trong thiền quán ta chỉ muốn thấy được sự vật
đúng
thật như chúng đang hiện hữu. Cho dù có đúng với sự kỳ vọng của ta hay không,
ta cũng cần tạm gác qua một bên mọi ý niệm và định kiến của mình. Trong suốt
thời gian ngồi thiền, chúng ta cần bỏ qua hết những hình ảnh, ý kiến, và
sự phê
phán của ta. Bằng không ta có thể bị vấp ngã.
2. Đừng nỗ lực căng thẳng quá
Đừng thúc ép bất cứ điều gì hoặc cố gắng quá mức bình thường. Thiền tập không
thể bạo động. Mọi cố gắng có tính chất bạo động đều không có chỗ đứng và
hoàn
toàn không cần thiết trong thiền tập. Hãy giữ cho sự nỗ lực của ta thật vừa
phải và bền vững.
3. Đừng vội vã
Không có gì gấp gáp cả, cứ từ tốn. Hãy ngồi xuống tọa cụ và cứ ngồi như là ta
có trọn ngày. Bất cứ điều gì quý giá đều cần phải có thời gian để phát triển.
Kiên nhẫn, kiên nhẫn và kiên nhẫn.
4. Đừng bám víu và cũng đừng bác bỏ
Hãy để cho việc gì đến cứ đến, và làm cho mình thích nghi với nó, bất cứ
là
việc gì. Nếu một hình ảnh tốt đẹp nào khởi lên trong tâm, cũng được. Nếu
một
hình ảnh xấu xa khởi lên trong tâm, cũng không sao. Hãy nhìn tất cả bằng
một
con mắt bình đẳng, và giữ cho mình được thoải mái trước mọi việc xảy ra,
đừng
chống lại những gì mình kinh nghiệm, chỉ quán sát nó trong chính niệm.
5. Buông xả
Hãy để mình trôi theo với những biến đổi phát sinh ra. Buông xả mọi thứ và thư
giãn.
6. Chấp nhận những gì khởi lên
Hãy chấp nhận những cảm thụ của mình, cho dù đó có thể là những điều mình không
muốn. Hãy chấp nhận những kinh nghiệm của mình, cho dù đó là những gì mình
ghét. Đừng bao giờ tự lên án mình vì đã có những khiếm khuyết và lỗi lầm. Hãy
xem tất cả những hiện tượng trong tâm là rất tự nhiên và có thể hiểu được. Hãy
cố thực tập lúc nào cũng có một thái độ chấp nhận khách quan đối với mọi
kinh
nghiệm của mình.
7. Hãy rộng lượng với chính mình
Hãy xử sự tốt với chính mình. Bạn có thể không hoàn hảo, nhưng chính sự không
hoàn hảo này là những gì bạn có để thực tập. Tiến trình trở thành một người
hoàn hảo như mong muốn phải được khởi đầu trước hết bằng sự chấp nhận hoàn toàn
con người thật hiện nay của bạn.
8. Quán chiếu tự thân
Đặt câu hỏi với tất cả. Đừng bao giờ cho bất cứ một điều gì là dĩ nhiên hết.
Đừng bao giờ tin một điều gì chỉ vì nó nghe có vẻ đầy tuệ giác, thiêng liêng,
hoặc vì một thánh nhân nào đó đã nói. Hãy tự mình thấy. Nhưng điều ấy không có
nghĩa là ta cần phải đa nghi, bất kính hoặc sỗ sàng. Nó chỉ có nghĩa là ta nên
có tinh thần thực nghiệm. Hãy thử nghiệm hết tất cả những lời tuyên bố ấy, và
lấy kết quả làm kim chỉ nam cho mình. Thiền quán phát sinh từ một khát vọng
muốn được tỉnh thức, tiếp xúc với thực tại, và thắp sáng hiện hữu. Toàn bộ quá
trình thực tập phải dựa trên một ước mơ muốn thấy được chân lý. Bằng không thì
sự thực tập ấy sẽ chỉ là cạn cợt, hình thức mà thôi.
9. Xem mọi khó khăn như là sự thử thách
Hãy nhìn mọi vấn đề tiêu cực khởi lên như là những cơ hội giúp ta học hỏi và
trưởng thành. Đừng chạy trốn, đừng tự trách móc, cũng đừng ôm nặng trong
lòng
với sự im lặng của bậc thánh. Bạn có vấn đề? Tốt! Thêm cơ hội để cho ta thực
tập. Vui lên, dấn thân vào và quán chiếu.
10. Đừng suy luận
Chúng ta không cần phải hiểu hết tất cả mọi chuyện. Lối suy nghĩ miên man sẽ
không giúp ta giải thoát được. Trong thiền quán, tâm ta được thanh lọc bởi năng
lượng của chính niệm, bởi một sự nhận diện đơn thuần không cần đến ngôn từ.
Những lối suy luận và bàn thảo theo thói quen là không cần thiết cho sự giải
thoát của ta. Điều cần thiết là một nhận thức không định kiến, không phân biệt
về tự tính của sự vật. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ làm cho những sợi dây trói
buộc ta bị đứt tung. Ý niệm và lý luận chỉ là những cản trở mà thôi. Đừng nghĩ
ngợi gì hết. Nhìn đi.
11. Đừng cố chấp vào những sự khác biệt
Giữa con người với nhau sẽ có những sự khác biệt, nhưng nếu để mình bị kẹt vào đó thì rất là nguy hiểm. Phải cẩn thận lắm, bằng không nó có thể trực tiếp đưa ta đến một thái độ chấp ngã. Lối suy nghĩ của một người bình thường bao giờ cũng đầy những tham lam, ganh tỵ và tự ái. Một người đàn ông gặp một người khác đi trên đường có thể nghĩ ngay: “Anh chàng này đẹp trai hơn mình.” Và kết quả lập tức sẽ là sự ganh tỵ hay mặc cảm. Một cô gái gặp một cô gái khác có thể nghĩ: “Mình chắc chắn là đẹp hơn cô ta.” Và kết quả là sự tự kiêu. Thái độ so sánh đó là một tập quán của tâm ý, và nó sẽ trực tiếp dẫn đến một cảm thụ bất an nào đó, như là ham muốn, ganh tỵ, tự ái, tự kiêu, hoặc thù ghét. Chúng là những tâm trạng bất thiện, nhưng lại luôn xảy đến với ta. Chúng ta so sánh vẻ ngoài của mình với người khác, hoặc là sự thành công, tiền bạc, tài sản, hoặc chỉ số thông minh... và tất cả đều dẫn đến cùng một kết quả: sự xa rời, ngăn cách giữa mọi người và một cảm giác bất an.
Công việc của người thiền sinh là hoá giải thói quen bất thiện này bằng cách nhìn cho sâu sắc, và rồi thay thế nó bằng một cái khác. Thay vì tìm kiếm những điểm sai biệt giữa ta và người khác, chúng ta hãy ghi nhận những điểm tương đồng của nhau. Ta chú tâm đến những điểm chung phổ biến ở mọi sự sống, những điều sẽ mang chúng ta xích lại gần nhau hơn. Và nếu có sự so sánh, thì đó phải là những gì dẫn ta đến một cảm giác tương thân chứ không phải là chia cách.
Hô hấp là một tiến trình phổ biến. Tất cả động vật đều có một lối thở giống như nhau. Mọi sinh vật đều trao đổi thán khí và dưỡng khí với môi trường chung quanh mình, bằng cách này hoặc cách khác. Đó cũng là một trong những lý do mà hơi thở được chọn làm một đề mục của thiền quán. Thiền sinh được khuyên nên tự khám phá tiến trình thở của mình, nó sẽ giúp ta ý thức được sự liên hệ mật thiết giữa mình và những sự sống khác chung quanh. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta nên nhắm mắt làm ngơ trước những sự khác biệt trên cuộc đời này. Sự khác biệt bao giờ cũng có mặt. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta nên bớt quan trọng hóa những sai biệt, và nên nhấn mạnh vào những yếu tố chung, phổ biến mà trong chúng ta ai cũng giống như ai.
Phương pháp nhận thức ấy là như thế này: Khi tiếp nhận một đối tượng của giác quan, chúng ta sẽ không ôm giữ nó theo một lối thông thường. Thay vào đó, chúng ta sẽ quán sát tiến trình nhận thức ấy. Ta theo dõi xem đối tượng ấy ảnh hưởng đến giác quan và nhận thức của ta như thế nào. Ta theo dõi xem có những cảm thụ và tâm hành nào khởi lên tiếp theo sau. Ta ghi nhận kết quả là một sự thay đổi xảy ra trong tâm thức mình. Và trong khi theo dõi những hiện tượng này, chúng ta cần ý thức được tính chất phổ biến của những gì mình nhìn thấy. Nhận thức ban đầu sẽ làm phát sinh những cảm thụ dễ chịu, khó chịu, hoặc trung hòa. Và đó là một sự kiện rất phổ biến, nó xảy ra trong tâm thức của tất cả mọi người khác, cũng như trong ta, và ta cần thấy rõ được điều ấy. Tiếp theo những cảm thụ ấy sẽ là những phản ứng, và chúng có thể khác nhau. Chúng ta có thể cảm thấy ham muốn, khao khát hoặc ghen ghét. Chúng ta cũng có thể cảm thấy sợ hãi, lo lắng, bất an hoặc buồn chán. Những phản ứng ấy cũng rất là phổ biến. Chúng ta chỉ cần ghi nhận và gom chúng lại với nhau. Ta nên nhớ rằng, những phản ứng này chỉ là sự đáp ứng bình thường của mọi con người, nó có thể khởi lên trong bất cứ một ai.
Sự thực tập theo phương pháp so sánh này, lúc đầu có thể cảm thấy như là hơi bị ép buộc và giả tạo. Nhưng thật ra nó cũng không kém phần tự nhiên hơn những gì chúng ta vẫn hành xử thường ngày. Chỉ có điều là ta chưa quen mà thôi. Với một sự thực tập, thói quen mới này sẽ thay thế thói quen so sánh cũ đầy ngã chấp, rồi về sau ta sẽ cảm thấy nó tự nhiên hơn. Và kết quả là ta trở thành một người rất hiểu biết và cảm thông. Chúng ta không còn bực mình vì những thiếu sót của kẻ khác. Ta tiến dần đến một trạng thái hài hòa với tất cả mọi sự sống quanh ta.