Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc đời của tổ sư Long Thọ

06 Tháng Mười 201100:00(Xem: 22552)
Cuộc đời của tổ sư Long Thọ

CUỘC ĐỜI CỦA TỔ SƯ LONG THỌ

Nguyên tác: Biography of Nagarjuna - Alexander Berzin
Tuệ Uyển chuyển ngữ

blankLong Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không từ Văn Thù Sư Lợi, trong khi Vô Trước (cùng với Thiên Thân) truyền thừa những giáo nghĩa bao la của những sự thực hành bồ tát từ Di Lặc.

Long Thọ - Nagarjuna sinh ra trong một gia đình bà la môn chắc chắn khoảng giữa đầu hay đầu thế kỷ thứ hai sau Tây lịch ở miền Nam Ấn Độ, trong vương quốc Vidarbha, ngày nay là vùng Maharashatra và Andhra Pradesh. Ngài đã được tiên đoán trước trong nhiều kinh điển khác nhau, như Kinh Lăng Già. Lúc sinh ra, một vị tiên tri dự đoán ngài sẽ chỉ sống trong bảy ngày, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường đến một trăm vị sa môn, ngài có thể sống đến bảy tuổi. Lo sợ cho sự sống của ngài, vào lúc bảy tuổi, cha mẹ Long Thọ-Nagajuna đưa ngài đến Đại học Tu viện Na Lan Đà ở miền Bắc Ấn, nơi ngài gặp vị đạoPhật giáo Saraha. Saraha nói với ngài rằng nếu trở thành một vị xuất gia và trì tụng mật ngôn A Di Đà, ngài sẽ sống trường thọ. Long Thọ-Nagajuna làm như thế và rồi thì gia nhập tu viện, nhận một tên là “Shrimanta.”

Tại Na Lan Đà, Long Thọ-Nagajuna học kinh điển hiển giáomật điển tantra với Ratnamati – một hóa thân của Văn Thù Sư Lợi – và, với Saraha, đặc biệt Tantra Bí Mật. Thêm nữa, ngài học thuật giả kim với một vị Bà la môn, và đạt đến khả năng biến sắt thành vàng. Dùng khả năng này, ngài có thể nuôi dưỡng những tu sĩ của Na Lan Đà trong nạn đói. Cuối cùng, Long Thọ-Nagajuna trở thành Viện trưởng của Na Lan Đà. Ở đấy, ngài đã tống xuất tám nghìn tu sĩ, những người không giữ gìn giới luật xuất gia một cách thích đáng. Ngài cũng đánh bại năm trăm người không phải Phật tử trong tranh luận.

Hai người trai trẻ, là hóa thân của những đứa con của long vương, đến Na Lan Đà. Họ có trong họ những hương thơm tự nhiên của trầm hương. Long Thọ-Nagajuna hỏi làm thế nào như thế và họ thú nhận với ngài họ là ai. Long Thọ-Nagajuna rồi thì yêu cầu tinh dầu trầm hương cho bức tượng của nữ Bồ Tát Tara và sự giúp đỡ của dòng dõi rồng để dựng chùa chiền. Họ trở lại thế giới rồng và yêu cầu cha của họ, và ông nói rằng ông chỉ có thể giúp nếu Long Thọ-Nagajuna đến thế giới của họ dưới biển để giảng dạy cho họ. Long Thọ-Nagajuna đã đi, tiến hành nhiều lễ cúng dường, và dạy cho loài rồng.

Long Thọ-Nagajuna đã từng biết rằng loài rồng có bộ Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đathỉnh cầu cho một bản. Khi Đức Phật thuyết giảng về Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, tuệ trí toàn thiện, hay tỉnh thức phân biệt sâu xa, loài rồng đã đem về long cung để bảo quản, chư thiên một bản khác, và những chúa dạ xoa của thịnh vượng một bản nữa. Long Thọ-Nagajuna đem về bản một trăm nghìn bài kệ, mặc dù long chúng giữ hai chương cuối cùng để bảo đảm rằng ngài sẽ trở lại để giảng dạy cho họ xa hơn. Sau này, hai chương cuối cùng được bổ xung vào với hai chương cuối cùng của Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là tại sao hai chương cuối cùng của hai văn kiện duyệt lại là giống nhau. Long Thọ-Nagajuna cũng đem về đất sét của rồng và xây dựng nhiều chùa chiền và tháp miếu với nó.

Một lần, khi Long Thọ-Nagajuna đang giảng dạy Bát Nhã Ba La Mật Đa, sáu con rồng đã đến và làm thành một bảo cái phía trên đầu ngài để che ngài khỏi nắng mặt trời. Do bởi điều này, ngài có tên là Long-Naga. Và từ sự kiện khả năng thiện xảo của ngài trong giảng dạy Phật Pháp đi thẳng tới trọng điểm của vấn đề, giống như những mũi tên của nhà cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng của Ấn Độ cổ đại trong bộ kinh Ấn giáo Bhagavad Gita), ngài có tên là Arjuna. Vì thế, ngài trở thành được gọi là “Nagarjuna” hay Long Thọ.

Sau này Long Thọ đi lên miền Bắc Hải đảo (Bắc Lục địa) để giảng dạy. Trên đường, ngài đã gặp một số trẻ con đang nô đùa trên đường. Ngài tiên tri rằng một đứa trong chúng, tên là Jataka, sẽ trở thành một vị vua. Khi Long Thọ trở lại từ Bắc Hải đảo, cậu bé trong thực tế đã trưởng thànhtrở thành vị vua của một vương quốc rộng lớn ở Nam Ấn. Long Thọ đã ở lại với vị vua trong ba năm, dạy dỗ ông, và sau đó dành những năm cuối cùng ở những nơi khác trong vương quốc ấy, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng liêng trông xuống ngày nay là Nagarjunakonda [1]. Long Thọ-Nagarjuna đã viết tác phẩm Quốc vương một Tràng Hoa Quý BáuBảo Hành Vương Chính Luận (Ratnavati). Đây cũng là vị vua mà Long Thọ viết tác phẩm Lá Thư Cho Một Người Bạn (Suhrllekha), vua tên là Udayibhadra.

Một số học giả phương Tây xác quyết Vua Udayibhadra với Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì 106- 130 sau Tây lịch) của triều đại Shatavahana (230 trước Tây lịch đến 199 sau Tây lịch), hiện nay là Andhra Pradesh. Một số xác quyết ông với vị vua kế là Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Tây lịch). Thật khó khăn để xác định vị vua này một cách chính xác. Những vị vua triều đại Shatavahana là những người bảo trợ bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật thuyết Mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra) lần đầu tiên và nó gần Shri Parata.

Quốc vương Udayibhadra có một người con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông ta nói với ông rằng ông ta sẽ chẳng bao giờ có thể lên ngôi cho đến khi Long Thọ chết, vì Long ThọQuốc vương Udayibhadra có cùng tuổi thọ. Mẹ ông ta nói hãy thỉnh cầu Long Thọ cho thủ cấp của ngài và vì Long Thọ là người rất bi mẫn, không nghi ngờ gì nữa ngài sẽ đồng ý ban cho ông. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể cắt đầu ngài với một thanh gươm. Long Thọ nói rằng trong tiền kiếp, ngài đã từng giết hại một con kiến trong khi cắt cỏ. Như một kết quả nghiệp báo, đầu của ngài chỉ có thể cắt rời với lá của của cỏ kusha. Kumara làm như thế và Long Thọ lìa đời. Máu từ cái đầu bị cắt đứt biến thành sửa và thủ cấp nói, “Bây giờ ta sẽ đi đến Cực Lạc Tịnh Độ, nhưng ta sẽ nhập vào thân thể này lần nữa.” Kumara đưa thủ cấp xa khỏi thân thể, nhưng như được kể lại rằng thủ cấp và thân thể đang đi đến gần lại với nhau mỗi năm. Khi chúng hợp lại, Long Thọ sẽ trở lại và giảng dạy lần nữa. Nói chung, Long Thọ đã sống sáu trăm năm.

Trong nhiều tác phẩm trên chủ đề kinh điểnLong Thọ đã viết là

- Tập Họp Lý Luận, Collections of Reasoning - Nhập Trung Luận
 Madhyamakavata,
- Tập Họp Những Bài Kệ Tán, Collections of Praises.
- Tập Họp Những Giải Thích Mô Phạm, Collections of Explanations.

Sáu Tập Họp của Lý Trí hay Nhập Trung Luận là:

- Những Bài Kệ Căn Bản của Trung Quán Luận, Tỉnh Thức Phân Biệt 
- Discriminating Awareness - Prajna-nama- mulamadhyamaka-karika.

- Tràng Hoa Quý Báu – Precious Galand – Ratnavati.
- Hồi Tránh Luận ThíchBác Bỏ Chống Đối – Vigrahavyavarti.
- Thất Thập KhôngTính Luận – Bảy Mươi Bài kệ Tánh Không – Sunyatasaptati.
- Quãng Phá Kinh Danh – Vaidalya sutra nama.
- Lục Thập Tụng Như Ý Luận – Yuktishashtika.

Bao gồm Tán Dương Kệ Tập là:

- Pháp Giới Tán – Dharmadhatu stava.
- Chân Đế tán – Paramartha stava.
- Siêu Thế Gian tán – Lokatita stava.

Bao gồm Mô Phạm Thích Tập là:

- Giác Ngộ Tâm Luận – Bodhicittavana.
- Tập Kinh Luận – Sutrasamuccaya.
- Lá Thư cho Một Người Bạn – Suhrllekha.

Cũng được cho là của Long Thọ là vài luận giải về mật điển Tantra Bí Mật, bao gồm:

- Phương tiện Thực chứng giản lược – Pindikrta sadhana.

- Phương pháp Thiền quán trên Tầng bậc Đầu tiên của Đại toàn thiện Bí mật tantra phối hợp với nguyên văn của nó - Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

- Năm Tầng bậc (Tầng bậc Hoàn tất) – Pancakrama.

Đệ tử nổi tiếng nhất của Long ThọThánh Thiên (Aryadeva) tác giả của Bốn trăm Bài kệ Luận thuyết trên những Hành vi của Du già Bồ tát và vài luận giải của Tantra Bí mật.

[1] Nagarjunakonda (skt): Ðịa danh Phật giáo ở vùng Nam Ấn Ðộ. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, người ta không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakonda hay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp nầy được phát hiện vào năm 1934. Tháp nằm trên mạn phía nam của sông Krishna trong quận Guntur. Ðây cũng là một đại tháp vì có cất giữ di hài của Ðức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua A Dục. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiri cùng các mệnh phụ khác trong hoàng tộc. Những người nầy được xem là đã có công giúp cho Phật giáo phát triển tại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp nầy ngày nay tuy đã đổ nát nhưng trông còn đồ sộ hơn tháp ở Amaravati. Hàng trăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravati đã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trên các cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thành phố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của một trung tâm Phật giáo đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu viện đã được xây cất tại nơi nầy để làm nơi trú ngụ cho tu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái khác từ nhiều nước đến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa, vân vân. Người dân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài, họ đã có sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy. Ðiều nầy được chứng minh qua sự phát hiện những bản khắc và công trình điêu khắc mô tả một chàng lính râu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng khác có nguồn gốc từ La Mã. Tại Andhra, các nơi như Guntapali, cách ga xe lửa Ellore chừng 28 dặm, và Sankaram, cách Anakapalli một dặm về phía Ðông, là những địa điểm nổi tiếng vì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm khác trong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trong thời đại của Phật giáo, điều nầy được xác nhận qua sự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tại đây. Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số nầy là Goli, Chezarta, Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur. (Từ điển Phật học Thiện Phúc)

Biography of Nagarjuna
Alexander Berzin 
February 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
08-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22105)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27529)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37897)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20695)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14534)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19585)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14460)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20943)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28664)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27225)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21942)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21469)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26216)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21624)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23192)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19827)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22923)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21155)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19954)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15413)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26057)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22531)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22859)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33222)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35550)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27067)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17732)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24356)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14641)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant