Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 2
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Trung)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Chương 8: Tu
Tập Đại Thừa: Các Giới Luật và Ba-la-mật-đa
iii) Giải thích tiến trình tu học
giới luật
a’ Cách tu tập theo Đại thừa nói chung
1’ Xác lập nguyện ước tu học giới luật của tâm giác
ngộ {Bồ-đề tâm}.
2’ Thọ giới con Phật {Bồ-tát giới} sau khi đã phát
nguyện học giới luật của tâm giác ngộ.
3’ Cách thức rèn luyện sau khi thọ giới
a” Nền tảng của giới luật
b” Cách thức mà tất cả các giới luật được thu tóm
trong sáu Ba-la-mật-đa
1” Thảo luận chủ đề chính, số lượng Ba-la-mật-đa cố
định
(a) Số lượng các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên đẳng
cấp cao
(b) Số lượng các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên việc
viên thành hai mục tiêu
(c) Số lượng các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên việc
viên thành các mục tiêu của người khác
(d) Số lượng các Ba-la-mật-đa cố định và sự thu nhiếp
của chúng đối với toàn bộ hệ thống Đại thừa
(e) Số lượng các Ba-la-mật-đa cố định trong khuôn khổ
viên mãn của các lộ trình hay phương tiện
(f) Số lượng các Ba-la-mật-đa cố định dựa trên tam vô
lậu học {giới, định, và tuệ}
2” Thảo luận phụ về thứ tự cố định của các
Ba-la-mật-đa
(a) Thứ tự khởi sinh
(b) Thứ tự cao thấp
(c) Thứ tự thô lậu và vi tế
–––––––––\–––––––––
iii Giải thích tiến
trình tu học giới luật
Giải thích tiến trình tu học giới
luật bao gồm hai phần:
1. Cách thức tu tập theo Đại thừa nói chung (chương 8
và các chương sau đó)
2. Cách thức tu tập theo Kim Cang thừa nói riêng
(Chương 27 trong Cuốn 3)
a’ Cách thức tu tập
theo Đại thừa nói chung
Phần này bao gồm ba nội dung
1. Xác lập nguyện ước tu học giới luật của Bồ-đề tâm
2. Thọ Bồ-tát giới sau khi đã phát nguyện học giới
luật của Bồ-đề tâm
3. Cách tu tập sau khi thọ giới (chương 8 và các
chương kế tiếp)
1’ Xác lập nguyện ước
học giới luật của Bồ-đề tâm
Theo giới luật biệt giải thoát
giới[1]
và Mật thừa, thì sẽ là không phù hợp nếu quý vị tu học giới luật trước khi thọ
giới; tuy nhiên, với các Bồ-tát giới thì khác. Trước hết, quý vị tìm hiểu các
điều giới kỹ càng và sau khi đã tu tập, nếu quý vị có nhiệt tâm thọ giới thì
quý vị sẽ được thọ giới. Liên quan đến điểm này, Bồ-tát Địa Luận dạy rằng:[2]
Đối với những người muốn thọ Bồ-tát giới, trước hết,
các người phải biết trước về các điều giới nền tảng {trọng giới} và các nguồn
gốc của sự vi phạm dành cho Bồ-tát đã được dạy ở đây trong “Yếu Lược Của Các
Nền Tảng Bồ-tát” trong các giáo pháp Bồ-tát tập kinh. Nếu sau khi đã thành
tâm nghiên cứu và phân tích tư duy, những người này có cảm hứng, và nếu việc đó
được tiến hành không bởi vì lý do của một người khác và không nhằm đua tranh
với ai thì hãy biết rằng đấy là những Bồ-tát đáng tin cậy. Những người này phải
nên được truyền giới luật và phải nên theo đúng nghi thức.
Đây là một phương pháp rất tốt
bởi vì nếu quý vị hiểu giới luật, đưa chúng nhập tâm, tận tâm xác lập một ước
nguyện hành trì và sau đó thọ giới thì đường tu của quý vị sẽ cực kỳ ổn định.
[357] Giải thích các giới luật cả
ở đây lẫn phần dưới sẽ quá nhiều lời nên tôi sẽ chỉ ra chúng ở phần dưới. [3]
2’ Thọ giới Bồ-tát
sau khi đã xác lập nguyện ước tu học các giới luật.
Tôi đã hoàn tất chi tiết, trong
chú giải Lộ Trình Cơ Bản Đến Tỉnh Thức của tôi trong chương giới luật
của tác phẩm Bồ-tát Địa Luận[4],
trước tiên là cách thức thọ giới, liền sau đó cách thức để giữ gìn không bị
phạm trọng giới và các giới nhẹ và sau đó làm sao tu sửa nếu chúng sa sút. Điều
dứt khoát thật cần thiết là quý vị đọc và hiểu nội dung này trước khi thọ giới.
3’ Cách tu tập sau
khi thọ giới
Phần này bao gồm ba nội dung:
1. Nền tảng của giới luật
2. Làm thế nào giới luật được bao hàm trong sáu
Ba-la-mật-đa
3. Tiến trình tu tập các Ba-la-mật-đa (từ chương 9 trở
đi)
a” Nền tảng của giới
luật
Có vô số cách phân loại thật rõ
ràng nhưng nếu quý vị sắp xếp Bồ-tát giới theo loại thì quý vị có thể nhập tất
cả chúng vào trong sáu Ba-la-mật-đa. Do đó, sáu Ba-la-mật-đa là cốt lõi vĩ đại
của mọi điểm mấu chốt về Bồ-tát đạo. Bốn phong cách thu nạp đệ tử [sự rộng
lượng, nói năng dễ nghe, đeo đuổi mục tiêu và hành vi kiên định] cũng được bao
hàm trong sáu Ba-la-mật-đa như được giải thích sau đây. Sự rộng lượng thì quá
hiển nhiên rồi. Nói năng dễ nghe là việc trao truyền giáo huấn cho các đệ tử,
lấy sáu Ba-la-mật-đa làm điểm xuất phát; đeo đuổi mục tiêu là việc xác lập cho
người khác các mục tiêu của các giáo huấn này; và hành vi kiên định có nghĩa là
chỉ thực hành như là các đệ tử.
Dù rằng sự thật là toàn bộ Bồ-tát
đạo thì cũng được gộp vào trong các pháp tóm gọn khác như hai sự tích luỹ[5]
tam vô lậu học học [giới, định và tuệ] và v.v..., thì những pháp này vẫn không
có khả năng sinh khởi các hiểu biết như sáu Ba-la-mật-đa có được. Do đó, sáu
Ba-la-mật-đa là một bộ hoàn thiện nhất.
b’’ Cách thức mà tất
cả các giới luật được thu tóm trong sáu Ba-la-mật-đa
Phần này bao gồm hai nội dung:
1. Thảo luận chủ đề chính, số lượng cố định các
Ba-la-mật-đa
2. Thảo luận phụ về thứ tự cố định của các
Ba-la-mật-đa
1” Thảo luận chủ đề
chính, số lượng cố định các Ba-la-mật-đa
Đức Thế Tôn phác thảo sơ lược về
sáu Ba-la-mật-đa và Nhiếp Chánh Thánh Giả [Maitreya][6]
tạo ra tri kiến chắc chắn về những điều này bằng việc phát triển thành các điểm
mấu chốt của lý do cơ bản cho việc cấu trúc nên các Ba-la-mật-đa theo với chủ ý
của đức Phật. Các lời giải thích này cho thấy số lượng các Ba-la-mật-đa là cố
định. Khi quý vị tin vào và kinh ngạc bởi điều này thì quý vị sẽ hiểu rằng tu
tập sáu Ba-la-mật-đa là giáo huấn tối cao. Do đó, hãy tiếp thu sự thuyết phục
như thế.
Luận bàn về chủ đề chính, số
lượng cố định các Ba-la-mật-đa bao gồm sáu nội dung:
1. Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa căn cứ trạng thái
cao {tức là nhắm vào việc tái sinh vào cõi người hay trời}
2. Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa căn cứ việc đáp
ứng hai mục tiêu {của hành giả}
3. Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa căn cứ việc đáp
ứng các mục tiêu của chúng sinh khác
4. Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa và sự thu nhiếp
của chúng đối với toàn bộ hệ thống Đại thừa
5. Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa trong khuôn khổ
viên mãn của các lộ trình hay phương tiện
6. Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa căn cứ trên tam
vô lậu học.
(a) Số lượng cố định
các Ba-la-mật-đa căn cứ trạng thái cao
Quý vị cần đến vô lượng liên tục
các kiếp sống để hoàn tất đầy đủ các hạnh Bồ-tát hiệu quả một cách to tát.
[358] Hơn nữa, để nhanh chóng thành tựu đạo pháp trong những kiếp này, quý vị
cần có cuộc sống tuyệt diệu về mọi mặt. Cuộc sống hiện tại của chúng ta không
tuyệt hảo về mọi mặt, chỉ có một số mặt thực sự tuyệt hảo mà thôi; chúng ta
không tiến bộ được với điều đó mặc dù chúng ta vẫn thực hành giáo pháp. Quý vị
cần một cuộc sống có bốn điều tuyệt diệu sau: (1) Tài lực để sử dụng [quả của
bố thí Ba-la-mật-đa] (2) Một thân thể để hành động [quả của trì giới
Ba-la-mật-đa] (3) Những người đồng hành để cùng hành động [quả của nhẫn nhục
Ba-la-mật-đa] (4) Công việc mà quý vị có thể đảm nhiệm một khi đã tiến hành
[quả tinh tấn Ba-la-mật-đa]. Bởi vì, trong nhiều trường hợp, bốn loại tuyệt
diệu này một mình có thể trở thành các duyên cho các phiền não, nên quý vị
không thể để cho phiền não kiểm soát mình [quả của thiền định]. Bởi vì, nếu chỉ
có bốn điều tuyệt diệu này thì vẫn không đủ nên quý vị cũng phải phân biệt được
cái nào tiếp nhận và cái nào buông bỏ, chính xác là những điều cần làm và những
điều cần bỏ [quả trí huệ Ba-la-mật-đa]. Nếu không, cũng giống như một cây tre
hay cây mã đề chết đi sau khi cho quả hoặc con la chết lúc có thai, quý vị sẽ
bị bốn điều tuyệt diệu này hủy hoại.
Người trí hiểu được làm thế nào
sáu thứ này – bao gồm bốn điều tuyệt diệu, sự kiểm soát phiền não và tri kiến
về các điều để tiếp nhận hay để buông bỏ – là các quả của những thiện nghiệp
trước đây và họ lại nỗ lực đều đặn tăng trưởng các nguyên nhân lành. Trong khi
kẻ dại lại sử dụng cạn kiệt các nhân lành đã tích lũy nhưng họ không tăng thêm
thiện nghiệp mới, họ sẽ phải đối diện khổ đau trong tương lai.
Khi quý vị lại làm ra sáu hạnh
này trong các kiếp về sau, các sản phẩm của chúng sẽ không phải là không có
nguyên nhân hay được hình thành từ các nhân không hoà hợp mà đúng hơn là được
hình thành từ các nhân hòa hợp là các Ba-la-mật-đa mà số lượng cố định là sáu.
Do đó, trong kiếp sống này, quý vị phải liên tục tự tạo thành thói quen với
việc thường xuyên nương tựa vào sáu Ba-la-mật-đa bởi vì sự ưu việt tối cao của
các quả sẽ tương ứng với sự ưu việt của các nhân. Một cuộc sống với bốn điều
tuyệt diệu tạo nên trạng thái cao tạm thời trong khi trạng thái cao tối hậu,
vốn bao gồm từ sự tuyệt diệu tối hậu về thân thể, v.v..., tồn tại ở cấp độ Phật
tính. Do đó, Đại thừa Kinh Trang Nghiêm Luận (Mahayana-sutralamkara) dạy rằng:[7]
Trạng thái cao là sở hữu của tài lực và thân thể tuyệt
hảo
Bạn đồng hành và sự tiến hành tuyệt hảo
Không chịu khuất phục trước sức mạnh của phiền não
Và không bao giờ sai lạc trong hành động… [359]
(b) Số lượng cố định
các Ba-la-mật-đa căn cứ việc đáp ứng hai mục tiêu
Khi một người có cuộc sống ở
trạng thái cao tu học các hạnh Bồ-tát Ba-la thì những hành động này có thể được
phân chia làm hai loại: những hành động đáp ứng mục tiêu của chính người đó và
những hành động đáp ứng mục tiêu của tha nhân. Do đó, có một số cố định các
Ba-la-mật-đa căn cứ việc đáp ứng hai mục tiêu này.
Để đáp ứng mục tiêu của tha nhân,
trước hết, quý vị phải giúp họ có đồ dùng vật chất. Bởi vì chẳng có lợi lạc nào
sẽ đến từ sự bố thí đi kèm theo với việc làm hại chúng sinh, nên quý vị cần giữ
giới luật, vốn sẽ mang lại lợi ích lớn cho những người khác mà đó chính là trạng
thái phản kháng lại với việc làm hại người khác cũng như là các nguyên nhân của
việc gây hại như thế. Để mang điều này đến mức phát triển đầy đủ của nó, quý vị
cũng cần nhẫn nhục để bỏ qua sự gây hại đã được tiến hành lên quý vị, bởi vì
nếu quý vị mất nhẫn nhục với sự gây hại và trả thù một hay hai lần thì quý vị
sẽ không thành tựu trì giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh được. Khi quý vị không trả
thù, nhờ sự nhẫn nhục của mình, quý vị giúp người khác khỏi việc tích lũy tội
lỗi và hướng thiện cho họ bằng cách cảm hóa họ với sự nhẫn nhục của quý vị. Do
đó, thực hành này cũng mang lại lợi ích lớn cho người khác.
Quý vị hãy đạt đến mục tiêu của
mình, là niềm hỷ lạc của giải thoát, thông qua năng lực của trí huệ. Vì quý vị
sẽ không thành tựu được điều này với một tâm phân tán, quý vị phải đặt tâm mình
trong trạng thái cân bằng thiền[8]
qua các phương tiện của thiền định, đạt đến một tâm thức khả dụng trong đó quý
vị đặt sự chú tâm của mình một cách cố ý lên một đối tượng thiền bất kỳ. Vì một
kẻ biếng lười không thể làm được việc này, quý vị cần phải tinh tấn ngày đêm,
không chùn bước, do đó đây là nền tảng của các Ba-la-mật-đa khác.
Để hoàn tất hai mục tiêu này, thì
số lượng các Ba-la-mật-đa được cố định là sáu. Đại thừa Kinh Trang Nghiêm
Luận dạy rằng: [9]
Những ai nỗ lực vì lợi lạc của chúng sinh
Thực hành bố thí, không làm hại và nhẫn nhục
Và hoàn toàn đáp ứng mục tiêu của chính mình
Với thiền định và giải thoát cũng như với những nền
tảng của chúng.
Trong sáu hạnh này, không có sự
đáp ứng đầy đủ mục tiêu của người khác[10].
Sự đề cập về “an định {bình ổn} và giải thoát” làm tách biệt giữa hai việc này
như là (1) Sự bình ổn của tâm thức lên một đối tượng thiền, đây là dấu vết của
thiền định và (2) Sự giải thoát khỏi luân hồi, vốn là dấu ấn của trí huệ. Hãy
lưu ý không lẫn lộn định từ thiền và trí huệ. [360] Như thế, những ai khẳng
định rằng sự thiền tập về việc cố định chú tâm của thiền giả trong một trạng
thái thiếu vắng ý tưởng định danh là thiền tập thâm sâu thật ra đang nói về một
mảng duy nhất của thiền định, vốn là một trong sáu Ba-la-mật-đa này. Quý vị
phải đạt đến một tri kiến chắc chắn về sáu Ba-la-mật-đa trong tổng thể của
chúng.
(c) Số lượng cố định
các Ba-la-mật-đa căn cứ vào việc viên mãn đáp ứng hoàn toàn các mục tiêu của
người khác
Trước hết, quý vị phải giảm thiểu
sự đói nghèo của người khác bằng cách bố thí tài sản. Kế tiếp, quý vị không
được hại bất kỳ người nào và hơn nữa, phải nhẫn nhục khi bị hại. Không chút
chán nản, quý vị phải hoan hỷ nhẫn nhục giúp đỡ kẻ đã hại mình. Quý vị hãy dựa
vào thiền định và cảm hóa những người này bằng cách thi triển thần thông và
v.v... Khi họ đã sẵn sàng thọ lãnh giáo pháp, quý vị hãy dựa vào trí huệ và đưa
ra những lời thuyết giảng hay, xóa tan nghi ngại của họ và từ đó, đưa họ đến
với sự giải thoát. Bởi vì quý vị thực hiện tất cả những điều này, số lượng các
Ba-la-mật-đa được cố định lại là sáu. Đại
thừa Kinh Trang Nghiêm Luận dạy rằng:[11]
Thông qua việc giúp người khác giảm nghèo, không hại
họ
Nhẫn nhục khi bị làm hại, không chán nản khi bị làm
hại
Hãy làm họ vui lòng, nói năng dịu dàng với họ
Là ngươi đáp ứng mục tiêu của tha nhân vốn đáp ứng mục
tiêu của chính ngươi.
Đoạn kệ này, cùng với đoạn ở
trên, nói rằng quý vị sẽ không thể đáp ứng mục tiêu của quý vị và của người
khác nếu quý vị không dựa vào sáu Ba-la-mật-đa. Một khi quý vị vững tin về cách
mà trong đó đáp ứng mục tiêu của quý vị và người khác thông qua sáu
Ba-la-mật-đa, quý vị sẽ trân quý việc tu tập sáu Ba-la-mật-đa này.
(d) Số lượng cố định
các Ba-la-mật-đa và sự thu nhiếp của chúng đối với toàn bộ hệ thống Đại thừa
Quý vị dửng dưng trước của cải
vật chất bởi vì quý vị không bám chấp vào những thứ mà quý vị có và không theo
đuổi những thứ mà quý vị thiếu thốn. Bởi vì quý vị có khả năng trì giới, quý vị
thọ lãnh và tôn trọng giới luật. Quý vị kiên nhẫn với khổ đau đến từ các chúng
sinh hữu tình và các pháp vô tình và quý vị nhiệt tâm với bất kỳ công đức nào
mà quý vị nuôi dưỡng, do đó, chớ có nản lòng bởi bất kỳ các thứ này. Quý vị tu
tập du-già không rời rạc về định từ thiền và tu tập du-già không rời rạc về tuệ
giác. Sáu thứ này thu nhiếp toàn bộ các pháp tu Đại thừa mà qua đó quý vị sẽ
tinh tấn nhờ sáu Ba-la-mật-đa, bởi vì quý vị hoàn tất các pháp tu này theo các
giai đoạn qua phương tiện của sáu Ba-la-mật-đa và quý vị sẽ không cần gì hơn
ngoài sáu Ba-la-mật-đa này. Đại thừa Kinh Trang Nghiêm Luận dạy rằng: [12]
Toàn bộ Đại thừa được tóm tắt trong
Việc không tham của cải
Tôn quý mà không chán nản trong hai đường
Và các pháp du-già không rời rạc.
Với điều này, thật là mâu thuẫn
nếu muốn bước vào Đại thừa nhưng lại chối bỏ việc tu tập sáu Ba-la-mật-đa.
(e) Số lượng cố định
các Ba-la-mật-đa dưới góc độ viên mãn của đường tu hay phương tiện
Đạo, hay phương tiện, để khiến
không bị tham chấp vào tài sản mà quý vị đang sở hữu chính là hạnh bố thí bởi
vì quý vị sẽ không bám chấp vào của cải của quý vị nữa bằng cách quen thuộc với
việc cho tặng chúng đi. Phương tiện ngăn không cho quý vị bận tâm về việc tìm
cách sở hữu cái mà quý vị không có là giới luật bởi vì khi thọ tỳ kheo giới,
quý vị sẽ không có tất cả các mối bận tâm của việc kiếm sống. Phương tiện để
không bỏ rơi chúng sinh là nhẫn nhục bởi vì quý vị sẽ không tuyệt vọng trước
khổ đau do người khác hại quý vị. Phương tiện để tăng trưởng thiện hạnh là tinh
tấn bởi vì quý vị sẽ tăng trưởng thiện hạnh khi quý vị tinh tấn đối với công
việc mà quý vị đảm nhận. Phương tiện để xua tan vô minh là hai Ba-la-mật-đa
cuối bởi vì thiền định xóa tan phiền não và trí huệ xóa tan các ngăn trở nhận
thức. Như vậy, số lượng các Ba-la-mật-đa được cố định là sáu. Đại thừa Kinh
Trang Nghiêm Luận dạy rằng:[13]
Không chấp thủ vào các đối tượng là một phương tiện;
Phương tiện khác là không bận tâm tìm cách sở hữu
chúng
Không bỏ rơi chúng sinh, tăng trưởng các thiện hạnh
Và xua tan che chướng là những phương tiện khác.
Những lời giải thích sau đây tạo
ra niềm tin vững mạnh về sáu Ba-la-mật-đa. Để không phân tâm bởi các đối tượng
nhục dục, quý vị cần hạnh bố thí mà không tham chấp. Để ngăn chận các cảm
nghiệm giác quan khởi sinh, quý vị cần giới hạnh, vốn hạn chế sự phân tâm bởi
các sự việc vô nghĩa lý [các hành động sai lầm do bị ngăn cấm hoặc các hành
động sai lầm do bản chất]. Trong hoàn cảnh có rất nhiều chúng sinh ứng xử không
tốt mà quý vị có nguy cơ gặp gỡ thường xuyên, quý vị cần một cơ duyên mạnh mẽ
để lấy nhẫn nhục như là một biện pháp đối trị để buông xả vì phúc lợi của họ.
Nhằm tăng cường công đức trong khuôn khổ của một số lớn các hành vi và tu tập
của nó trong thời gian dài, quý vị cần có hạnh tinh tấn, vốn mang lại niềm hứng
khởi lớn lao và lâu dài có được từ việc quán chiếu lợi ích của các hành vi
thiện đức… Nhằm đoạn diệt phiền não, quý vị cần tu tập thiền định và để phá
hủy các hạt giống và các che chướng nhận thức, quý vị cần trí huệ. [362]
(f) Số lượng cố định
các Ba-la-mật-đa căn cứ trên tam vô lậu học
Bản chất của việc tu tập giới
luật [phần đầu tiên của tam vô lậu học] là hành trì giới luật. Tiền đề của việc
tu tập giới luật là hạnh bố thí vì một khi quý vị đã có lòng bố thí, vốn giúp
quý vị không coi trọng của cải, quý vị có thể tuân thủ giới luật một cách thích
hợp. Phương tiện hỗ trợ tu tập giới luật là hạnh nhẫn nhục bởi vì lòng nhẫn
nhục, không trả thù khi bị chửi mắng chẳng hạn, sẽ giúp quý vị nghiêm chỉnh giữ
gìn giới luật. Thiền định là luyện tâm [phần thứ hai, tu tập về thiền định] và
trí huệ là tu tập về trí huệ [phần thứ ba]. Hạnh tinh tấn thì được thu nhiếp
trong cả ba pháp tu, do đó, số lượng các Ba-la-mật-đa được gút lại là sáu. Đại
thừa Kinh Trang Nghiêm Luận dạy rằng:[14]
Đức Phật đã trình bày đúng về sáu Ba-la-mật-đa
Liên quan đến tam vô lậu học: phần đầu tiên là ba hạnh
Hai trong sáu Ba-la-mật-đa liên quan đến hai phần còn
lại
Còn Ba-la-mật-đa kia được bao hàm trong cả tam học.
Với một đời sống thiện hảo, quý
vị sẽ đáp ứng mục tiêu của người khác hay của chính quý vị. Quý vị thực hành
một số pháp môn vì có được nhiều phương tiện khác nhau, tuỳ thuộc vào truyền
thừa mà quý vị quy ngưỡng. Hãy hiểu theo cách rằng sáu Ba-la-mật-đa bao gồm và
sẽ đáp ứng các phương diện nêu trên – cuộc sống, các mục tiêu, Đại thừa, các
phương tiện và các tu tập. Hãy quán chiếu cho đến khi quý vị được thuyết phục
thêm thật sâu cách thức sáu Ba-la-mật-đa là tổng của tất cả các điểm cốt lõi
trong tu tập Bồ-tát.
Hơn nữa, có hai nguyên nhân khiến
cho người ta thoạt tiên không thể vượt thoát luân hồi được là tham chấp của cải
và tham chấp gia đình. Các biện pháp đối trị lần lượt là Ba-la-mật-đa bố thí và
giới luật.
Một lần quý vị có thể phát khởi
các tham chấp sau đây, nhưng vẫn quay đi mà không đạt đến điểm cuối cùng. Có
hai lý do: khổ đau từ hành động sai trái của chúng sinh và trở nên chán nản về
chiều dài của thời gian mà quý vị đã ra công. Các biện pháp đối trị lần lượt là
nhẫn nhục và tinh tấn. Một khi quý vị hiểu cách thức duy trì việc xem nhẹ mọi
khổ đau và nguy hại, cũng như là duy trì một nhiệt tâm để xem vĩnh hằng như là
chỉ có một ngày, quý vị phải thực hành chúng theo nhiều cách khác nhau. [363]
Nếu quý vị thực hiện điều này thì quý vị sẽ phát khởi được lòng nhẫn nhục và sự
tinh tấn vốn có thể tác động như biện pháp đối trị các nguyên nhân khiến quý vị
quay đi. Do đó, chúng rất là quan trọng. Đừng bận tâm đến vấn đề các Bồ-tát
hạnh, ngay cả với mối liên hệ đến sự nuôi dưỡng thiện đức ngày nay, có nhiều
người khởi đầu nhưng chỉ có một số ít không quay bước sau một thời gian bởi vì
(1) khả năng chịu đựng gian khổ của họ kém cỏi (2) nhiệt tâm của họ đối với
đường tu không đáng kể. Đây là hậu quả của việc không thực hành các lời dạy
biệt truyền về nhẫn nhục và tinh tấn.
Có hai lý do khiến thiện đức của
quý vị trở nên uổng phí ngay cả khi quý vị không quay bước sau một thời gian tu
tập: đó là sự xao lãng, nó khiến quý vị không chú tâm được vào một đối tượng
thiện lành trong lúc hành thiền và phát khởi trí huệ sai lạc. Biện pháp chữa
trị lần lượt là thiền định và tuệ giác. Thiền định là một biện pháp đối trị bởi
vì chẳng hạn ngay cả với các thực hành công đức như tụng chú hay tụng kinh hàng
ngày đều là vô nghĩa nếu sự chú tâm của quý vị lang thang đến nơi nào khác. Tuệ
giác là một biện pháp đối trị bởi vì nếu quý vị thất bại trong việc phát triển
trí huệ để khai triển toàn bộ kho tàng tri kiến của Phật, thì quý vị sẽ sai lầm
về điều cần được tiếp nhận và cái phải bị loại bỏ, ngay cả đối với điều hiển
nhiên, và sau đó, tự mình sẽ hành xử sai trái. Điều này xác định số lượng các
Ba-la-mật-đa là sáu trong vai trò chúng là biện pháp đối trị để loại bỏ các
pháp không tương hợp với thiện đức.
Số lượng cố định các Ba-la-mật-đa
được gút lại thành sáu căn cứ trên dữ liệu rằng chúng là nền tảng cho việc
thành tựu từng phẩm tính của Phật. Đó là vì bốn Ba-la-mật-đa đầu tiên là tiền
đề cho thiền định, nên, qua bốn Ba-la-mật-đa này, quý vị thành tựu được thiền
định – Ba-la-mật-đa của sự phi phân tâm. Hơn nữa, khi quý vị nuôi dưỡng trí huệ
trên cơ sở định tâm này, quý vị sẽ thấu hiểu được thực tại.
Cố định số lượng các Ba-la-mật-đa
lại thành sáu về phương diện phù hợp của chúng với việc giúp đỡ chúng sinh
trưởng thành cũng đồng nghĩa với điểm thứ ba [đáp ứng mục tiêu của người khác]
đã đề cập trước đây.
Tôi đã giải thích ở đây các lời
dạy của tôn giả Vô Trước như là đã được trình bày bởi đại sư Sư Tử Hiền {skt.
Haribhadrâ} [trong tác phẩm Hiện Quán Trang Nghiêm Phẩm (Abhisamayalaṃkârâloka)[15]
của ngài]. Điều cực kỳ quan trọng là vững tin vào sáu Ba-la-mật-đa.
2” Thảo luận phụ về
thứ tự cố định của các Ba-la-mật-đa
Phần này có ba nội dung:
1. Thứ tự khởi sinh
2. Thứ tự cao thấp
3. Thứ tự thô lậu và vi tế
(a) Thứ tự khởi sinh
Khi quý vị có thi hành bố thí,
dửng dưng và không tham chấp đối với của cải tức là quý vị hành trì giới luật.
[364] Khi quý vị giữ giới để không làm điều gì sai trái thì quý vị nhẫn nhục
đối với kẻ hại quý vị. Khi quý vị có lòng nhẫn nhục thì quý vị sẽ không chán
nản trước gian khó; các duyên {điều kiện} để từ bỏ thiện đức rất ít, nên quý vị
có năng lực để tinh tấn. Một khi quý vị tinh tấn ngày đêm, quý vị sẽ phát khởi
được sự tập trung từ thiền khiến dễ dàng cho việc dụng công sự chú tâm của quý
vị lên các đối tượng thiện đức của thiền. Khi tâm quý vị ở trạng thái cân bằng
thiền, quý vị sẽ thấy biết thực tại một cách chính xác.
(b) Thứ tự cao thấp
Mỗi Ba-la-mật-đa đứng trước thì
thấp hơn Ba-la-mật-đa đứng sau.
(c) Thứ tự thô lậu và
vi tế
Ba-la-mật-đa đứng trước dễ tu tập
và thực hành hơn Ba-la-mật-đa đứng sau và do đó, thô lậu hơn Ba-la-mật-đa sau.
Ba-la-mật-đa sau khó tu tập và thực hành hơn Ba-la-mật-đa trước và do đó, vi tế
hơn Ba-la-mật-đa trước. Đại thừa Kinh Trang Nghiêm Luận dạy rằng: [16]
Bởi vì Ba-la-mật-đa sau khởi sinh phụ thuộc vào các
Ba-la-mật-đa trước
Bởi vì chúng được phân thành thấp cao
Và bởi vì chúng vi tế và thô lậu
Nên chúng được thuyết giảng theo thứ tự.
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a. Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1) Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận nói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luận của ngài Thế Thân[8] cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a) Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luận của ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp: Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i) Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ” [12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của những hành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15] nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16] đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]
cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18] Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thích của
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tập của Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tập của Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền} đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii) Mục đích
Vấn: Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]
dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]
cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.