Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Khuyên Dành Cho Các Hành Giả Nhập Thất Ba Năm

08 Tháng Mười 202019:40(Xem: 2248)
Lời Khuyên Dành Cho Các Hành Giả Nhập Thất Ba Năm

Lời Khuyên Dành Cho Các Hành Giả Nhập Thất Ba Năm


Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche[1] soạn
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

Nguyên Tắc Để Được Thành Phật

 

Kính lễ Đạo Sư!

Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.

Các con, những người sống ở châu Âu và các quốc gia hiện đại khác, có đủ mọi tiện nghi và cao lương mỹ vị mà cuộc đời này ban cho; nhưng cho đến gần đây, các con thậm chí còn chưa từng nghe nói về thực hành Giáo Pháp. Trong thời gian gần đây, Giáo Pháp đã suy giảmTây Tạng; nhiều vị Lama với địa vị cao và thấp từ mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng đã đến Ấn Độ. Bây giờ, khi những giáo lý khác nhau của chư vị đang được phục hồithời kỳPhật Pháp vẫn còn trụ thế vẫn chưa trôi qua, nhiều đạo sư vĩ đại đã viếng thăm và định cư tại các quốc gia khác; kết quả là nhiều người trong thế giới hiện đại giờ đây đã có ý định thực hành Giáo Pháp.

Các đệ tử của Kangyur Rinpoche[2], đạo sư của thầy, đặc biệt xem thầy là đạo sư gốc của họ và có niềm mong mỏi chí thành về việc thực hành Pháp trong suốt cuộc đời. Nhờ mong ước và sự hỗ trợ của Tsetrul Pema Wangyal Rinpoche[3], họ đã thành lập một trung tâm nhập thất ở Chanteloube. Mục đích thực sự của trung tâm này là những vị duy trì nhập thất ở đó thiết lập bản thân một cách vững chắc trên con đường đến giải thoát. Nếu làm vậy, họ sẽ hoàn thành những tầm nhìn giác ngộ của Kangyur Rinpoche, phụng sự chư đạo sư của chính họ và tận dụng tối đa nhiều giáo lý sâu sắc mà họ đã thọ nhận.

Với điều này trong tâm, tất cả những vị hứa nguyện duy trì nhập thất cần đảm bảo rằng niềm tin, sự xả ly, lòng bi mẫnquán sát bản tính tâm chính là tâm yếu trong sự hành trì của họ.

NIỀM TIN

‘Niềm tin’ nghĩa là hoàn toàn tin tưởng và nương tựa Tam Bảo nói chung và vị thầy của chính chúng ta nói riêng, cũng như Giáo Phápchúng ta đang thực hành. Nếu chúng ta thực hành trong một thời gian dài, sau một hồi, chúng ta có thể nghĩ rằng, “Tôi vẫn chưa đạt được bất kỳ dấu hiệu tiến bộ nào! Bậc thầy không thể trao cho tôi những chỉ dẫn sâu xa nhất. Tốt hơn là tôi thực hành phần chính yếu, thay vì các thực hành sơ khởi, bởi nó sâu xa hơn nhiều!”. Hoặc nếu chúng ta đang thực hành phần chính yếu, chúng ta có thể nghĩ rằng, “Tôi nghĩ tốt hơn là bỏ qua thực hành giai đoạn phát triển đơn giản này và thay vào đó sẽ tiến hành Dzogrim nào đó”. Hay thậm chí, “Dzogchen sẽ sâu xa hơn nhiều các thực hành giai đoạn hoàn thiện, chẳng hạn Tummo”.

Con có thể nghĩ rằng khi đã thọ nhận các giáo lý Dzogchen, con sẽ có đủ mọi kiểu kinh nghiệm cao tột và sâu xa, thậm chí chỉ sau vài ngày. Nếu con có những mong chờ cao như vậy thì khi mọi chuyện không xảy ra như thế, con sẽ bắt đầu nghi ngờ những chỉ dẫn và nới lỏng sự tinh tấn của mình. Hoặc, nếu con đã phát triển được dấu vết nhỏ bé nhất của sự xả ly hay đạt được kinh nghiệm hoặc chứng ngộ nhỏ bé, con sẽ phát triển sự kiêu mạn và nghĩ rằng, “Các trường phái Kagyu, Sakya và Gelug chẳng thể so sánh với những giáo lý Nyingma này!”. Con cần tránh phát triển tà kiến như vậy cũng như việc kiêu ngạo cho rằng con đã đạt được vài kinh nghiệm hay chứng ngộ đặc biệt. Dù con là ai, tâm bình phàm vẫn luôn dễ bị thay đổi và chuyển hóa, vì thế, con cần cố gắng không bao giờ bị cuốn đi.

Thậm chí nếu con thực hành ngày đêm với sự tinh tấn không dao động trong mười hai năm tròn và vẫn chẳng có dù chỉ một giấc mơ tốt, con không nên nản lòng. Nhận ra rằng điều này đơn giản là bởi sức mạnh của những che chướng của bản thân, con phải tin tưởng rằng chư đạo sư hay giáo lý sẽ không bao giờ phụ lòng con.

Mặt khác, dù cho con có tiến bộ nhanh chóng đến mức chỉ trong một ngày, con đã đạt đến cấp độ mà chẳng còn điều gì trong luân hồi phải từ bỏ cũng chẳng có gì trong Niết Bàn cần đạt được, con không nên cảm thấy kiêu ngạo, bởi làm thế chỉ mời gọi ma quỷ của các chướng ngại. Đó là lý do Tổ Jetsun Milarepa nói:

Khi con đang đến gần tận cùng của Giáo Pháp,

Hãy tiếp tục không ngừng nghỉ, chẳng có bất cứ cao hay thấp nào,

Và không hy vọng các dấu hiệu của sự thành tựu nhanh chóng,

Hãy đảm bảo rằng thực hành của con vẫn duy trì chừng nào con vẫn còn!

Đây là lời khai thị tuyệt vời.

XẢ LY

‘Xả ly’ nghĩa là khi ở trong trung tâm nhập thất, mỗi lần con tụng Lời Cầu Nguyện Bảy Dòng hay hoàn thành một tràng Chân ngôn Mani, con phải hồi hướng vì sự thành tựu Phật quả cho bản thân và mọi hữu tình chúng sinh khác. Trong lúc nhập thất, con không nên lãng phí dù chỉ một giây phút trong sự lười nhác hay tầm phào và con cần tránh bất cứ kiểu thiếu chân thật và lừa dối nào, chẳng hạn giả bộ thực hành một cách hoàn hảo khi mà con đang ở trong tầm mắt của người khác.

Hãy làm mọi điều có thể để kiểm soát tâm ngang bướng của con và phát triển niềm tin, sự tinh tấn và xả ly. Đừng bao giờ nghĩ rằng Giáo Pháp mà con đang thực hành chỉ vì lợi ích của con. Trì tụng dù chỉ một biến Chân ngôn Mani cũng đem lại vô số lợi lạc, do đó, hãy hồi hướng vì tất cả những vị đang sống.

Lặp đi lặp lại, hãy phát triển lòng bi mẫn dành cho mọi hữu tình chúng sinh nói chung và đặc biệt những vị không thích con. Ban đầu có thể sẽ khó khăn, nhưng con sẽ không bao giờ đạt giác ngộ nếu con vẫn tiếp tụcác tâm với kẻ thù của con. Những vị bây giờ là kẻ thù của con trong đời trước đã từng là cha mẹ của con và chẳng có gì cố định về thân phận kẻ thù hay bạn bè. Cảm thấy thù ghét với kẻ thù và yêu mến với bạn bè chẳng là gì khác ngoài một kiểu nhận thức mê lầm. Nếu con rèn luyện tâm để nhận ra mọi thứ đều không có thực, giống như một giấc mơ, sự thù ghét với kẻ thù sẽ hoàn toàn mất đi ý nghĩa. Điều này cực kỳ quan trọng, bởi thông thường, cuộc đời của chúng ta bị cuốn đi bởi mong muốn có được thức ăn và quần áo, của cải, vợ/chồng, địa vị và sự ca ngợi. Chúng ta dành nhiều suy nghĩ để tạo ra những cách thức khôn ngoan và hữu hiệu nhất nhằm có được chúng và nghĩ rằng, “Người này có nhiều tiền như vậy, bạn bè của tôi thì có nhiều chừng này, vì thế tôi cần nhiều thêm”. Hoặc, “Trong quá khứ, tôi sống ở kiểu nhà này, ở vùng này của thị trấn, nhưng bây giờ tôi sẽ chuyển đến nơi tốt hơn”. Chúng ta cần chấm dứt mọi ý nghĩ như vậy.

Với công việc bình thường, càng làm nhiều, con càng tạo ra nhiều khổ đau cho tương lai. Nhưng bởi con đã có được thân người, đã gặp gỡ một đạo sư chân chính và thọ nhận Giáo Pháp, tình thế của con tốt hơn nhiều và may mắn hơn nhiều khi so với Đế Thích, vua của chư thiên. Nếu bây giờ con đưa các giáo lý vào thực hành với lòng quyết tâm vững chắc, con chắc chắn sẽ tìm thấy hạnh phúc trong mọi đời tương lai. Vì thế, hãy hài lòng với chỉ thức ăn và quần áo cơ bản nhất. Nói một cách đơn giản: hãy làm mọi điều có thể để từ bỏtối thiểu hóa các vấn đềhoạt động bình phàm của luân hồi.

Chẳng ai sống trong trung tâm nhập thất mà lại không thọ giới quy y. Thậm chí nếu con là một cư sĩ, trong ba năm mà con nhập thất, con cần tránh quan hệ tình dục và trong lúc nhập thất, sẽ rất ý nghĩalợi lạc nếu con đắp y của một vị Tăng hay Ni. Chính Đức Phật đã nói rằng, với ai đó đã thọ giới quy y, đắp y tu sĩ là điều được cho phép.

LÒNG BI MẪN

Nói chung, con đang thực hành các giáo lý của Đại thừa kể từ lần đầu tiên bước qua cánh cửa của Giáo Pháp và điều này thực sự chính là về lòng bi mẫn. Không có lòng bi mẫn chân chính, đơn giản là sẽ không có khả năng đạt Phật quả.

Bởi vô minh, tất cả chúng sinh trong luân hồi chỉ chăm sóc những yêu thích ích kỷ của họ và thờ ơ lợi lạc của chúng sinh khác. Bây giờ, dù chúng ta có thể sung túc thế nào về thức ăn, quần áo hay của cải vật chất và dù có thể trải qua bao nhiêu hạnh phúc, chúng ta chẳng bao giờ có thể hài lòng. Cùng lúc, nếu chúng ta cho đi thứ mà chúng ta sở hữu, dù chỉ một phần nhỏ xíu, nó như thể chúng ta đang đánh mất thứ gì đó to lớn. Chúng ta cần buông bỏ những thái độ như vậy và thay vì chỉ quan tâm đến bản thân, hãy học cách chăm lo chúng sinh khác. Trước kia, chúng ta thờ ơ chúng sinh khác, nhưng bây giờ, chúng ta cần thờ ơ những mục tiêu ích kỷ của bản thân. Bất cứ khi nào tiến hành hoạt động thiện lành bằng thân, khẩu hay ý, trước tiên, chúng ta cần nhớ rằng chúng ta đang làm vậy như một cách thức để đưa tất cả chúng sinh đến giác ngộ.

Trong thực hành Pháp, điều quan trọng nhất là động cơ. Nếu nó được thúc đẩy bởi mong muốn làm lợi lạc mọi chúng sinh, dù chỉ một lạy hay một biến Chân ngôn trăm âm cũng sẽ đem lại công đức không vơi cạn – công đức sẽ duy trì cho đến khi chúng ta đạt giác ngộ và không còn chúng sinh nào trong luân hồi. Trong khi nếu chúng ta không có động cơ nhân từ phổ quát này, thậm chí một trăm nghìn lạy hay một trăm nghìn biến Chân ngôn trăm âm, cũng chỉ trổ quả một lần trước khi công đức cạn kiệt và một cơn sân hận cũng đủ để phá hủy toàn bộ công đức của chúng ta. Hiểu điều này là điều rất quan trọng. Nếu chúng ta thấy rằng thực hành của chúng tavì lợi ích của chúng sinh khác, thì bởi hữu tình chúng sinh nhiều vô số, công đức của chúng ta cũng sẽ bao la như vậy.

Không ai hoàn toàn thoát khỏi khổ đau; vì thế, hãy xem xét mọi khổ đau chính và phụ xảy đến với chúng sinh khác và tưởng tượng rằng, thay vào đó, chúng đang xảy đến với con. Con sẽ cảm thấy thế nào? Chắc chắn, con sẽ làm mọi điều có thể để tìm cách tránh khỏi đau đớn. Bởi thế, hãy liên tục quán chiếu về mọi khổ đau mà chúng sinh khác trải qua và phát triển mong ước bi mẫn rằng họ có thể thoát khỏi đau đớn. Khi đã có lòng bi mẫn đích thực, con sẽ tự nhiên cảm thấy mong ước làm lợi lạc chúng sinh khác. Bậc Thầy của chúng ta, Đức Phật, khi còn là một Bồ Tát, đã có lòng bi mẫn bao la và tràn ngập đến mức Ngài phát năm trăm lời nguyệnchúng ta và là môn đồ của Ngài, chúng ta cũng cần biến lòng bi mẫn trở thành cốt lõi của sự hành trì.

Những lợi lạc lớn lao của việc phát khởi lòng bi mẫn chân chính được miêu tả chi tiết trong Lời Vàng Của Thầy TôiNhập Bồ Tát Hạnh, vì vậy, hãy nghiên cứu chúng.

QUÁN SÁT BẢN TÍNH TÂM

Để quán sát bản tính tâm, chúng ta cần hiểu cách thức mà mọi ý nghĩ bình phàm của tâm về bất kỳ và mọi thứ có thể tưởng tượng đều chỉ rỗng rang và không thực. Cho đến nay, chúng ta đã là nô lệ của thứ mà chúng ta gọi là ‘tâm’, buộc phải lang thang vô vọng khắp luân hồi. Bây giờ, chúng ta cần đảo ngược tình thếkiểm soát tâm mình. Sẽ dễ dàng để làm điều này nếu chúng ta có một vài sự hiểu thực sự về cách thức mà tâm là rỗng rang; nhưng chỉ tận hưởng vài quan niệm mơ hồ về tính Không của tâm, bằng cách nghĩ rằng, “Ồ, đây là điều mà chư đạo sư nói” hay “Đó là điều mà các bản văn vẫn nói” sẽ chẳng giúp chúng ta nhận ra tính không có thực của nhận thức vô minh của chúng ta.

Sau đó, hãy hướng sự chú ý của con vào trong và để tâm thư giãn. Con sẽ nhận ra không chỉ một ý nghĩ hay ý tưởng, mà rất nhiều. Ví dụ, nếu con nghĩ về mẹ, đó là một ý nghĩ, nhưng sau đó, nó lại khơi dậy đủ mọi loại ý nghĩ khác, chẳng hạn những ký ức về lòng từ mà mẹ dành cho con. Nếu bà ấy vẫn còn sống, con có thể nghĩ đến việc đi thăm và nếu không, có thể con cảm thấy buồn. Đây là những ý nghĩ của sự tham luyến. Nếu con nghĩ về kẻ thù, suy ngẫm về những cách mà họ đã làm tổn thương con trong quá khứ, cách mà họ chắc chắn sẽ lại làm vậy trong tương lai và cách mà con phải tìm ra để thoát khỏi họ, đây là những ý nghĩ của sự sân hận. Con có thể băn khoăn rằng sự tham luyếnsân hận này đến từ đâu. Thực sự, chúng đến từ niềm tin mê lầm về sự tồn tại của thứ mà chúng ta gọi là “tôi”.

Một cái “tôi” như vậy có thể được tìm thấy ở đâu? Nó có phải ở trong thân hay tâm? Nếu con thực sự nhìn vào thân, xem xét từng phần – thịt, máu, xương và da – con không thể tìm thấy thứ gì được gọi là ‘thân’; vậy thì làm sao đây có thể là chỗ cho cái “tôi”? Mặt khác, tâm không có thực, vì thế làm sao mà cái “tôi” có thể trú ngụ trong nó? Thực sự, cái “tôi” chỉ là một quan niệm hay ý nghĩ. Chẳng có vị trí nào trong một ý nghĩ và chẳng gì có thể duy trì ở đó, nhưng sức mạnh của một ý nghĩ, chẳng hạn ý nghĩ về mẹ, vẫn khiến chúng ta tạo ra một ý nghĩ khác, về lòng từ của mẹ dành cho chúng ta và điều đó lại khơi dậy ý nghĩ mong muốn được gặp mẹ.

Nếu xem xét kỹ lưỡng hơn quá trình này, chúng ta có thể thấy rằng trong khi chúng ta đang nghĩ về lòng từ của mẹ, ý nghĩ đầu tiên về mẹ đã không còn ở đó – nó đã đi rồi. Và ý nghĩ rằng chúng ta cần gặp mẹ vẫn chưa xảy đến – nó vẫn ở trong tương lai. Ngay khi chúng ta xem xét nó, ý nghĩ hiện tại về lòng từ của mẹ không còn ở đó; nó đã biến thành ý nghĩ tương lai của việc mong muốn đi thăm mẹ. Điều này nghĩa là các ý nghĩ trong quá khứ, hiện tại và tương lai không thể tồn tại cùng lúcchúng ta chỉ sử dụng các thuật ngữ này để trao đổi. Quá khứ đã qua, giống như một người đã chết, và tương lai (hay ‘thứ sẽ đến’) không tồn tại. Thực sự, chẳng có thứ gì là ‘ý nghĩ hiện tại’ tồn tại độc lập theo cách này hay cách khác với quá khứ và tương lai. Trước khi chúng ta nghĩ về mẹ, ‘ý nghĩ hiện tại’ đó vẫn còn trong tương lai. Sau đấy, khi chúng ta nghĩ về mẹ, nó ở hiện tại. Cuối cùng, khi chúng ta nghĩ về lòng từ của mẹ, nó đã là quá khứ.

Bởi một ý nghĩ trải qua ba giai đoạn của thời gian như vậy là dấu hiệu của sự vô thường và bất cứ điều gì vô thường đều rỗng rang. Chính bởi một thứ là rỗng rang nên nó mới có thể thay đổi trong quá trình quá khứ, hiện tại và tương lai.

Hãy xem xét bề mặt của một chiếc gương: Bởi nó là rỗng rang [và không bị cố định theo một cách thức đặc biệt], những hình phản chiếu có thể xuất hiện trên đó. Khi chân dung của một người xuất hiện trong gương, hình phản chiếu giống với người thực sự, nhưng khuôn mặt của người đó không nhập vào gương hay được chuyển vào bề mặt của gương. Hình ảnh khuôn mặt xuất hiện bởi những nhân và duyên nhất định, bao gồm sự rõ ràng của chiếc gương và sự hiện diện của khuôn mặt người đó trước gương. Hình phản chiếu của khuôn mặt và chính khuôn mặt không phải là như nhau. Hình phản chiếu thì vô tình và khi hình phản chiếu biến mất, khuôn mặt thực sự thì không. Một khuôn mặt có thể bị thiêu cháy nếu nó chạm phải lửa, nhưng con không thể đốt cháy một hình phản chiếu. Tuy nhiên, hình phản chiếu và khuôn mặt cũng không phải là hoàn toàn khác biệt, bởi hình phản chiếu chẳng thể xuất hiện nếu không có khuôn mặt của người đó và nếu người này mang một vẻ mặt đặc biệt, chẳng hạn một nụ cười hay vẻ giận dữ, hình phản chiếu cũng xuất hiện theo cách đó.

Vì những lý do này, các ý nghĩ và sự phản chiếu xuất hiện là thực chỉ khi chúng ta không kiểm tra hay xem xét chúng một cách tỉ mỉ. Nếu ngừng lại để xem xét, chúng ta thấy rằng mặc dù xuất hiện, chúng không thực sự tồn tại. Và điều này đúng không chỉ với các hiện tượng này. Nó áp dụng cho mọi hình tướng trong trải nghiệm luân hồi mê lầm của chúng ta: chúng dường như đủ thật chừng nào chúng ta không xem xét quá kỹ, nhưng khi xem xét, chúng ta thấy rằng chúng không thật. Đó là lý do chúng ta nhắc đến chúng như là “sự thực không được xem xét, có vẻ như”.

Nếu sự hiểu về điểm này phát triển và giữ vững, để nó trở nên tự-duy trì, đấy là điều mà chúng ta gọi là ‘kinh nghiệm’. Khi chúng ta trở nên ngày càng quen thuộc hơn với điều này, để tâm không còn bị cai trị bởi những ý nghĩ về sân hận hay tham lam, đó là điều chúng ta gọi là ‘chứng ngộ’.

Khi xem xét các ý nghĩ lặp đi lặp lại theo cách này, chúng ta thấy rằng mặc dù chúng không có sự tồn tại thực sự, chúng vẫn xuất hiện và mặc dù chúng xuất hiện, chúng không thực. Cùng lúc, chúng ta hiểu cách mà những ý nghĩ trong quá khứ, hiện tại và tương lai tồn tại chỉ là các tên gọi hay nhãn mác đơn thuần và chẳng còn sự thực nào hơn nữa.

Nếu có sự hiểu này thì bất cứ khi nào chúng ta nghĩ về mẹ mình và nhớ về tất cả lòng từ mà bà đã dành cho chúng ta, chúng ta không cần đầu hàng những ý nghĩ tham luyến. Chúng ta sẽ nghĩ rằng, “Thậm chí nếu tôi đến gặp mẹ mình, điều đấy có ích gì? Bà đã xoay xở để cung cấp thức ăny phục cho bản thân và thậm chí cung cấp cho cả những nhu cầu vật chất của tôi. Nếu nhận lãnh vai trò này, tôi cần tìm công việc trong một sự buôn bán hay kinh doanh nào đó và điều đấy sẽ khơi dậy đủ kiểu tham và sân và tạo ra rất nhiều xao lãng, thứ sẽ chỉ cản trở sự hành trì Giáo Pháp của tôi. Thay vào đó, tôi cần dành sức lực của mình cho việc thực hành Giáo Pháp, ngay lập tức càng nhiều càng tốt, sau đấy, hồi hướng mọi nguồn công đức cho mẹ tôi, để giúp xoa dịu khổ đau của bà bởi sinh, tử và các trạng thái trung ấm Bardo. Sẽ tốt hơn nếu tôi quên đi những cảm xúc tham luyến bình phàm thế tục với mẹ. Bà có những đứa con khác có thể chăm lo về nhu cầu vật chất của bà, nhưng không ai ngoài tôi có thể cung cấp sự hỗ trợ tâm linh”. Nếu chúng ta nghĩ như vậy, điều đó sẽ ngăn chúng ta kẹt trong những kiểu ý nghĩ bình phàm, thứ có thể xuất hiện bất cứ khi nào chúng ta nhớ về mẹ.

Điều này cũng trao cho chúng ta vài manh mối về cách mà chúng ta có thể từ bỏ các ý nghĩ sân hận với kẻ thù. Ban đầu, có lẽ hơi khó để vượt qua tham và sân, nhưng nhờ thực hành lặp đi lặp lại, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Nếu con có thể vượt qua tham và sân, con sẽ không còn tích lũy nghiệp. Hơn thế nữa, nếu con xem xét trạng thái không thay đổi của tâm – thứ xảy ra bất cứ khi nào các cảm giác tham hay sân lắng đi, con sẽ thấy được bản tính của tâm. Chừng nào không có quá nhiều ý nghĩ khởi lên, hãy nhìn vào chính tâm không xao lãng. Bất cứ khi nào có nhiều ý nghĩ, hãy kiểm tra chúng theo cách mà thầy vừa miêu tả. Nếu con trở nên thực sự quen với điều này bằng cách rèn luyện nhiều lần, sự nhận ra bản tính tâm sẽ xảy ra tự nhiên và tự động. Tâm sẽ không còn mắc kẹt trong các ý nghĩ và thậm chí nếu các ý nghĩ có khởi lên, chúng sẽ không có bất kỳ sức mạnh thực sự nào và sẽ không cần phải phân tích hay xem xét chúng. Đơn giản duy trì một trạng thái không thay đổi của tâm là đủ.

Nếu con không thể chống lại một ý nghĩ tham hay sân, hãy lặp lại quá trình kiểm tra này. Khi con có những ý nghĩ, đừng phản ứng lại với sự lo âu, nghĩ rằng, “Tôi không nên có những ý nghĩ trong thiền định! Bây giờ, rất nhiều ý nghĩ đang xảy đến”. Đơn giản hãy nhìn thẳng vào bản tính của bất kỳ ý nghĩ nào – dù nó tích cực hay tiêu cực – và nó sẽ mất đi sức mạnh và biến mất. Không buông bỏ trạng thái tiếp theo, hãy nhẹ nhàng nhìn vào bản tính tâm và các ý nghĩ sẽ tự biến mất. Khi các ý nghĩ không còn xảy đến nối tiếp nhau trong một chuỗi nhanh chóng, con sẽ dần dần có thể giải phóng chúng.

Khi quán sát bản tính tâm, đừng mong chờ sẽ đạt được vài sự chứng ngộ cao cấp hay sâu xa đặc biệt nào hoặc thấy thứ gì đó mới mẻ. Con cũng không nên do dự hay nghi ngờ khả năng thiền định của mình. Hãy cứ tin rằng bản tính của tâm đơn giản là tâm ở trong trạng thái không thay đổi và làm mọi điều có thể để duy trì điều này, không xao lãng, mọi lúc, trong và giữa các thời khóa thiền định. Đừng hy vọng sẽ đạt chứng ngộ chỉ trong vài tháng hay thậm chí vài năm. Dù con có phát triển bất kỳ phẩm tính nào từ sự hành trì hay không, hãy duy trì lòng kiên quyết vững chắcquyết tâm tiếp tục thực hành với sự tinh tấn, ngày và đêm, trong suốt đời này, các đời tương lai và trạng thái trung ấm (Bardo).

Hãy hiểu điều này: thấu triệt các chỉ dẫn then chốt thì quan trọng hơn nhiều việc thọ nhận rất nhiều giáo lý.

Nói chung, con cần xem cuốn giáo khoa chỉ dẫn Lời Vàng Của Thầy Tôikiểm tra xem liệu thực hành của con có hòa hợp với điều mà cuốn sách nói đến. Nếu con nhận thấy điều gì đó không tuân theo, hãy thay đổi; và nếu con thấy thứ gì đó chỉ tuân theo một phần, hãy xem liệu nó có thể được cải thiện.

Hãy khát khao thực hành Giáo Pháp một cách chân chính và đừng bao giờ làm điều gì có thể khiến những anh chị em Pháp hữu của con phiền lòng.

Nói ngắn gọn, hãy hiến dâng bản thân cho Giáo Pháp càng nhiều càng tốt, với thân, khẩu và ý.

Thầy chắc chắn sẽ đến thăm các con và thầy sẽ luôn nhớ cầu nguyệnthực hành để gia hộ cho các con, để mọi mong ước phù hợp với Giáo Pháp của các con đều được thành tựu.

 

Adam Pearcey chuyển dịch sang Anh ngữ năm 2007.

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/dilgo-khyentse/advice-three-year-retreatants.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Dilgo Khyentse Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a32138/2/tieu-su-dilgo-khyentse-rinpoche-1910-1991-.

[2] Theo Rigpawiki, Kangyur Rinpoche – Longchen Yeshe Dorje (1898-1975) – một đạo sư và Terton vĩ đại từ Tu viện Riwoche ở Kham, miền Đông Tây Tạng; Bổn Sư của Ngài là Đức Jedrung Trinle Jampa Jungne. Khi lưu vong, Ngài sống ở Darjeeling; tại đây, Ngài gặp và giảng dạy một vài trong số những học trò phương Tây đầu tiên của Phật giáo Tây Tạng, trong đó có Matthieu Ricard. Kangyur Rinpoche là cha của Pema Wangyal Rinpoche, Rangdrol Rinpoche và Jigme Khyentse Rinpoche.

Dilgo Khyentse Rinpoche đã công nhận Mingyur Rinpoche (sinh năm 1975) là vị tái sinh của Ngài.

[3] Theo Rigpawiki, Tulku Pema Wangyal Rinpoche hay Taklung Tsetrul Pema Wangyal Rinpoche (sinh năm 1945) là con trai trưởng của đạo sư Đại Viên Mãn Kangyur Rinpoche. Ngài là đạo sư thường trú chính yếu cho các khóa nhập thất ba năm ở Dordogne, Pháp và là vị sáng lập Nhóm Dịch Padmakara [Padmakara Translation Group].




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12752)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29518)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27722)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25916)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16238)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22730)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14739)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47501)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13658)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14576)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12530)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43421)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14420)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14136)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39686)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13857)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37305)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40034)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13786)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37216)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11743)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12500)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12560)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13025)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14818)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12444)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11944)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12375)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30659)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31876)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35382)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27783)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11459)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31695)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27067)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24129)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30856)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28102)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23252)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23563)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21538)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26258)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13020)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21875)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14096)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37988)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32081)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28543)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19596)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7305)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant