Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền Thừa Barway Dorje Và Truyền Thừa Barom Kagyu (phần 2)

15 Tháng Mười Một 202119:44(Xem: 2040)
Truyền Thừa Barway Dorje Và Truyền Thừa Barom Kagyu (phần 2)
Truyền Thừa Barway Dorje Và Truyền Thừa Barom Kagyu (phần 2)
Bardor Tulku Rinpoche[1] giảng ở Arizona tháng 1/2010

Pema Jyana 

Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima

 Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa. Truyền thừa dài là điều vốn được thọ nhận bởi Pháp chủ Sonam Zangpo. Ngài Sonam Zangpo là một trong hai đệ tử chính yếu của đạo sư của Ngài, vị trì giữ Barom Kagyu, người được gọi là Marmo Sonam Dondrup và cũng là vị đã thành lập trụ xứ tu sĩ ban đầu tại Kyodrak Utse. Đức Marmo Sonam Dondrup có hai đệ tử chính, những vị được gọi là đệ tử như mặt trờimặt trăng. Đó là Pháp chủ Sonam Zangpo, vị đã dành cả đời để thực hành tại Tu viện Kyodrak và Pháp chủ Trungmase Lodro Rinchen, vị thành lập Tu viện Surmang. Vì thế, về một mặt nào đó, cả hai Tu viện Kagyu vô cùng quan trọng này là kết quả của truyền thừa truyền miệng dài của Barom Kagyu. Những Tu viện này được thành lập từ 700-800 năm trước và kể từ đó, chúng vẫn tiếp tục trong truyền thống được làm phong phú bởi các linh kiến của Đức Barway Dorje.

Những giáo lý Barom Kagyu, giống như giáo lý của tất cả bốn phần chính và tám phụ của Kagyu, là giáo lý Đại Thủ Ấn được ban bởi Tổ Gampopa. Tất cả những giáo lý này vốn đến từ Tổ Gampopa; vì thế, chúng ta có thể xem bốn phần chính và tám phụ giống như bốn người con và tám cháu trong một gia đình. Mỗi truyền thừa này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay và nhiều truyền thừa rất nổi tiếng. Barom Kagyu vẫn tồn tại; tất cả bốn phần chính vẫn còn; và tám nhánh [phụ] cũng vậy. Trong đó, nhiều truyền thừa rất nổi tiếng với các bạn. Karma Kagyu là một trong bốn phần chính; Drikung Kagyu và Drukpa Kagyu là hai trong tám phần phụ và nổi tiếng khắp thế giới. Tất cả về cơ bản đều giống nhau bởi điều mà các truyền thừa này tập trung vào, điều mà các truyền thừa trao truyền là Đại Thủ Ấn của Tổ Gampopa. Đây là điều được giảng dạy bởi Kim Cương Trì và v.v. và trong trường hợp của Barom Kagyu, nó được truyền xuống từ Kim Cương Trì, qua truyền thống Kagyu, đến Ngài Marmo Sonam Dondrup và v.v. Vô số thành tựu giả đã xuất hiện nhờ những thực hành Đại Thủ Ấn được giảng dạy bởi Tổ Gampopa này.

Hai quyển giáo lý hư huyễn được tìm thấy trong Tuyển Tập Trước Tác của Đức Barway Dorje liên quan đến truyền thừa Đại Thủ Ấn. Chín quyển giáo lý Terma (kho tàng) liên quan đến truyền thống vĩ đại khác – Đại Viên Mãn (Dzogchen). Trong chín quyển này có nhiều thực hành khác nhau, điều đã được sử dụng và vẫn tiếp tục được sử dụng bởi các hành giả để đạt thành tựu thù thắng. Đức Barway Dorje đã trao truyền những giáo lý này cho các đệ tử của Ngài, những vị thỉnh cầu chúng và khi họ thực hành những giáo lý này, nhiều vị đã hiển bày các dấu hiệu thành tựu. Ví dụ, khi Ngài Kagyu Tashi từ Tu viện Kyodrak thực hành nghi quỹ Khechari Trắng (Kim Cương Du Già Nữ Trắng) đến hoàn thiện, trong nhận thức của kẻ khác, thân Ngài bắt đầu chuyển thành thân của Kim Cương Du Già Nữ. Tiêu chuẩn của thực hành, điều vẫn được duy trì trong truyền thừa của Đức Barway Dorje tại Tu viện Raktrul, được công nhận rộng khắp là thuộc nhóm cao nhất. Có hai đạo sư nhập thất hiện đang sống tại Tu viện Raktrul; họ và những vị tương đương được công nhận khắp Tây Tạng là có được một trong những sự rèn luyện tốt nhất có thể.

Đức Phật dạy rằng những giáo lý của Ngài bao gồm hai điều và chỉ hai điều – giáo lý của sự trao truyền và giáo lý của sự chứng ngộ. Ngài nói rằng chúng tạo thành toàn bộ giáo lý của Ngài và chúng được duy trì lần lượt nhờ nghiên cứuthực hành. Trong hai điều này, khía cạnh của Phật Pháp, điều thực sự đem đến kết quả dự định, rốt ráo là điều mà chúng ta gọi là Giáo Pháp của sự chứng ngộ, sự thực hành thực sự. Nó đặt nền tảng ở sự nghiên cứu các kinh văn – và điều này quan trọng và ý nghĩa – nhưng mục đích của nghiên cứu là chuẩn bị tâm cho sự thực hành, để nhờ thực hành, người ta có thể chứng ngộ bản tính của tâm họ. Nhờ làm vậy, họ đạt giải thoát và sau đấy, giải thoát chúng sinh khác nhờ lòng bi mẫn. Nói cách khác, để ai đó có thể đưa chúng sinh khác đến giải thoát, bản thân họ cần phải tự mình đạt được sự giải thoát đó rồi. Khi ai đó đã nhận rahoàn toàn phát lộ bản tính tâm, họ có thể khuấy động sự chứng ngộ đó trong chúng sinh khác; họ có thể trao nó cho chúng sinh khác bởi họ có nó để trao.

Có hai so sánh truyền thống về điều này. Một là về ngọn lửa được truyền từ một cây nến đã được đốt sang cây nến chưa. Để điều này xảy ra, trước hết, cây nến phải được đốt rồi, nếu không, nó không thể đốt cây thứ hai. Khi lửa được truyền sang cây nến thứ hai, cây nến đầu vẫn được đốt; nó không mất đi ngọn lửa. So sánh thứ hai là về chiếc khuôn mà người ta dùng để làm Tsatsa đất sét. Nếu khuôn hoàn hảo và được làm chuẩn xác thì dù bạn làm bao nhiêu Tsatsa bằng một chiếc khuôn đó, chúng sẽ đều tốt; chúng sẽ đều hoàn hảo. Nhưng nếu khuôn kém, mọi Tsatsa từ đó sẽ đều kém.

Giống như vậy, trước tiên, người ta phải giải phóng tâm mình nhờ sự chứng ngộ bản tính và sau đó, nhờ lòng bi mẫn, đưa chúng sinh khác đến giải thoát. Do đó, trong khi cả hai khía cạnh – Phật Pháp của sự trao truyền và của sự chứng ngộ – đều quan trọng, chính Giáo Pháp của sự chứng ngộ mới đem đến kết quả cuối cùng.

Barom Kagyu không nổi tiếng ở phương Tây nhưng điều này không có nghĩa là nó không phổ biếnTây Tạng. Theo truyền thống, Barom Kagyu chủ yếu tập trung vào thực hành thiền định miên mật. Ở miền Đông Tây Tạng, chỉ riêng Tu viện Kyodrak, đã có chín trung tâm nhập thất ba năm về những giáo lý Barom Kagyu. Năm trong số đó dành cho nam và bốn cho nữ. Một trung tâm thứ mười – trung tâm mới cho nữ – vừa mới được mở. Trung tâm nhập thất mới cho nữ giới chủ yếu tập trung vào Khechari Trắng (Kim Cương Du Già Nữ Trắng). Một trung tâm nhập thất thứ mười một cũng đang được thiết lập liên hệ với Tu viện Kyodrak tại Đỉnh Kyodrak (Kyodrak Utse). Nó được thiết kế để trở thành điều mà chúng ta gọi là trung tâm nhập thất ba năm cho những vị đã tốt nghiệp. Để gia nhập trung tâm đó, ứng cử viên phải tiến hành ít nhất hai hay ba khóa nhập thất ba năm và đạt được cấp bậc của một đạo sư nhập thất. Mười ba cá nhân như vậy sẽ được lựa chọn và họ sẽ tiến hành khóa nhập thất cho những vị đã tốt nghiệp này. Số lượng này dựa trên mười ba đệ tử thành tựu của Pháp chủ Sonam Zangpo, những vị đã tiến hành nhập thất trong hang động ở Kyodrak Utse và vì kết nối cát tường đó, mười ba đạo sư nhập thất này sẽ tham gia vào trung tâm nhập thất thứ mười một.

Tất cả các trung tâm nhập thất này đều liên hệ với một Tu việnTu viện Kyodrak. Tu viện gốc của Tổ Gampopa giờ cũng có một trung tâm nhập thất ba năm về Barom Kagyu; trụ xứ gốc của Barom Kagyu ở miền Bắc Tây Tạng cũng vậy. Ở cả hai nơi này, năm khóa nhập thất đã được hoàn thành. Mỗi khóa nhập thất ba năm này đã tạo ra khoảng bốn mươi đến năm mươi vị. Kết nối giữa hệ thống thực hành Barom Kagyu và thánh địa của Đức Milarepa (tòa tháp được Milarepa xây dựng cho Darmadode, con trai của Tổ Marpa) cũng đang tăng trưởng. Cũng có một khu thực hành cho Barom Kagyu tại đó. Bên cạnh đó, có ba mươi lăm Tu viện nhánh khác, điều cũng là một phần của Barom Kagyu. Hầu hết đều có trung tâm nhập thất ba năm và tất cả đều thực hành truyền thống Barom Kagyu theo truyền thừa linh kiến của Terchen Barway Dorje. Vì thế, như Đức Phật từng nói, nếu chúng ta được cho là đạt chứng ngộ nhờ thực hành thì Barom Kagyu cũng đang không quá tệ; chúng ta không phải kém nhất trong các môn đồ của Đức Phật.

Nhưng điều này hiển nhiên khiến người ta băn khoăn tại sao không ai ở phương Tây từng nghe nói về Barom Kagyu cho đến nay.  Và đây là chỗ mà tôi phải nói rằng phần ba hoa đã chấm dứt, bởi nếu bạn truy vấn xem lỗi của ai khi không ai từng nghe nói về Barom Kagyu, tôi phải nói rằng đó là lỗi của tôi. Tại sao lại là lỗi của tôi? Nó là lỗi của tôi bởi tôi là cội nguồn của Barom Kagyu và vì thế, đó là trách nhiệm của tôi. Do đó, chính là lỗi của tôi khi không ai từng nghe nói về nó.

Các bạn có thể băn khoăn tại sao tôi chẳng bao giờ nói về Barom Kagyu. Bổn Sư của tôi là Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười sáu – Rangjung Rigpe Dorje và bởi lòng sùng mộ lớn lao với Ngài và niềm tin lớn lao với Ngài trong hơn ba mươi sáu năm, tôi chỉ nghĩ về việc phụng sự giáo lý của Ngài, hoạt động của Ngài và truyền thừa đặc biệt của Ngài. Vì lòng sùng mộ với Bổn Sư, tôi chẳng bao giờ nhắc đến Barom Kagyu dù chỉ bằng tên. Không phải là tôi không quan tâm đến Barom Kagyu hay tôi không biết về Barom Kagyu. Chỉ là điều đầu tiên và hơn hết luôn là lòng sùng mộ với Bổn Sư. Ví dụ, một lời cầu nguyện mà tôi viết nói rằng tôi sẵn lòng vứt bỏ ngay cả động mạch chủ, thứ mà sinh mạng tôi phụ thuộc, như tôi làm với ngọn cỏ khi phụng sự Bổn Sư của tôi. Tôi đã cảm thấy như vậy khi viết điều đó và tôi vẫn cảm thấy vậy hôm nay. Lòng sùng mộ của tôi với Bổn Sư, Đức Gyalwang Karmapa, không đổi.

Tôi nhắc đến điều này bởi vài người có thể nói rằng Bardor Rinpoche đã tách rời Bổn Sư; Ngài giờ đã bỏ đi. Điều đấy không đúng. Chiều sâu của mối quan hệ của tôi với Đức Gyalwang Karmapa và đặc biệt là Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười sáu, sẽ hiện rành rành với bạn khi bạn đọc Ánh Sáng Bình Minh, tiểu sử của Ngài Barway Dorje thứ Hai, điều cuối cùng sẽ được chuyển dịch. Trong bản văn đó có ghi lại những cuộc trò chuyện giữa Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười sáu và Ngài Barway Dorje thứ Hai. Trong một cuộc trò chuyện, Đức Karmapa thứ Mười sáu – Rangjung Rigpe Dorje nói với Ngài Barway Dorje thứ Hai, “Từ nay trở đi, tâm con và tâm Ta luôn luôn và mãi mãi bất khả phân và chẳng thể tách rời”. Đấy không phải là một trích dẫn sai; nó là trích dẫn được chứng nhận và xác thực. Và khi Đức Karmapa nói điều này với tiền thân của tôi, Ngài rất chân thành.

Trong một cuộc trò chuyện của chính tôi với Đức Karmapa thứ Mười sáu, khi Ngài hỏi, “Mối liên hệ của chúng ta sẽ ra sao trong tương lai?”. Tôi thưa với Ngài, “Trong mười một thế hệ, gia đình con vẫn chỉ nương tựa Ngài là đạo sư cho những lời cầu nguyện lúc khó khăn, những lời cầu nguyện cho người đã khuất và v.v. Trong đời trước của con, như Ngài nhớ rõ, con hoàn toàn nương tựa Ngài và chỉ Ngài mà thôi. Vì thế, con sẽ tiếp tục chỉ nương tựa Ngài trong đời này và các đời tương lai. Con không cần bất kỳ ai khác. Không có ai tốt hơn cả. Con không cần ai tốt hơn. Con không cần đạo sư nào khác”. Tôi chẳng có nghi ngờ gì về điều này. Tôi hiểu con đường của mình và tôi hiểu số mệnh của mình. Tôi không lo lắng gì về mối quan hệ của tôi với Bổn Sư nhưng tôi nhắc đến điều này bởi ngày nay, có nhiều tin đồn và lời bàn tán. Người ta nói đủ mọi chuyện. Tôi khuyên bạn, nếu bạn muốn thực hành Giáo Pháp một cách thanh tịnhchân thành, đừng nghe những lời bàn tántin đồn. Tất cả những gì bạn cần là thệ nguyện thanh tịnh, trung thực và mối quan hệ với Bổn Sư đặc biệt của riêng bạn.

Nếu bạn có thể nhận ra Bổn Sư là Kim Cương Trì thì bạn sẽ thọ nhận, thông qua Bổn Sư của bạn, sự gia trì của Kim Cương Trì. Nếu bạn nhận ra Bổn Sư là hiện thân của tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai, bạn sẽ thọ nhận sự gia trì của tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu bạn nhận ra Bổn Sư là hiện thân của tất cả chư Phật và Bồ Tát cùng tất cả chư Bổn tôn, bạn sẽ thọ nhận tất cả sự gia trìthành tựu của chư vị. Không có nghi ngờ, nhờ lòng sùng mộ như vậy, nhờ sự tin tưởng như vậy, bạn sẽ đạt được Pháp thânlợi lạc của bản thân. Nhưng nếu bạn nghi ngờ, nếu bạn bị ảnh hưởng bởi lời bàn tántin đồn thì các chướng ngại sẽ khởi lên trong cuộc đời và trong sự hành trì của bạn. Mức độ niềm tin của bạn, mức độ lòng sùng mộ của bạn chẳng đặc biệt ảnh hưởng đến Bổn Sư, nhưng nó sẽ tác động đến bạn. Điều xảy ra với đạo sư phụ thuộc vào hành động của chính Ngài.

Tôi vô cùng quan tâm đến tất cả các bạn và điều đấy nghĩa là, trong nhiều chuyện khác nữa, tôi hy vọng mọi chuyện sẽ suôn sẻ với tất cả các bạn theo mọi cách; rằng tất cả các bạn sẽ đạt được sự giải thoát cuối cùng khỏi luân hồi; rằng tất cả các bạn sẽ đạt trạng thái chứng ngộ mà chư thành tựu giả Kagyu trong quá khứ đã minh họa. Và với chính thái độ này – ý định này – mà tôi đã học hỏi từ đạo sư của tôi, bởi đó đã là và cũng vẫn là [thái độ] của Ngài. Vì thế, tôi thúc giục các bạn – bởi đây là ý định của tôi, đây là lý do tôi vô cùng quan tâm – tôi thúc giục các bạn không lạc lối. Tự thân Giáo Pháp thì thanh tịnh. Nó thanh tịnh trong mọi hình tướng. Điều đấy không có nghĩa là chỉ Giáo Pháp của Karma Kagyu, mà cả Giáo Pháp của Barom Kagyu và các truyền thống khác. Nhưng trong khi Giáo Pháp thì thanh tịnhbất biến, chúng ta lại đang sống trong thời kỳ suy đồi.

Chúng ta đang sống trong thời kỳ tăm tối về tâm linh. Một trong những dấu hiệu của điều này là Giáo Pháp đang bị dùng sai bởi những người chưa giác ngộ. Những người dùng sai Giáo Pháp không thể thay đổi Giáo Pháp nhưng họ có thể bóp méo cách trình bày của nó. Dĩ nhiên, Giáo Pháp không phải là một người; nó là chân lý. Và chân lý là điều đúng đắn; chuyện đó sẽ không đổi. Ví dụ, Đức Phật đã dạy cách Ngài du hành con đường và đạt giác ngộ. Dựa trên sự giác ngộ của bản thân Ngài, Ngài trao tấm bản đồ dẫn dắt từ nơi chúng ta bắt đầu [con đường] đến trạng thái giác ngộ hoàn hảo. Tuy nhiên, khi giải mã lại bản đồ đó, bao gói lại bản đồ đó, một số xuyên tạc nó; một số tạo ra bản đồ dẫn dắt sai, thứ giữ những người dựa vào chúng bằng cách dẫn họ trong những vòng bất tận. Tuy nhiên, nếu chúng taniềm tin chân chínhthệ nguyện Samaya thanh tịnh, chúng ta vẫn sẽ tìm được đường. Mặt khác, nếu chúng ta thiếu niềm tin, thậm chí nếu chúng ta gặp được một đạo sư tâm linh chân chính và nhận được tấm bản đồ chuẩn xác, chúng ta sẽ chẳng thể đi theo. Ai đó không có niềm tin giống như hạt giống bị đốt cháy. Nếu bạn gieo một hạt giống bị đốt cháy, ngay cả trong đất màu mỡ nhất, nó cũng chẳng mọc lên. Chúng ta cần trưởng thành. Chúng ta cần giảm các phiền não. Chúng ta cần đạt giải thoát. Đây là ý định của chúng ta; đây là lý do chúng ta bước vào con đường. Chúng ta chia sẻ ý định này với tất cả đạo sư chân chính. Ý định của chư vị cũng vậy – rằng chúng ta trưởng thành, phiền não giảm và chúng ta đạt giải thoát. Điều quan trọng là chúng ta thỉnh thoảng nhắc nhở bản thân lý do chúng ta đang làm điều này, về điều mà chúng ta đang thực sự cố gắng làm.

[Từ một bài giảng mà Bardor Tulku Rinpoche ban ở Arizona vào tháng 1/2010. Lama Yeshe Gyamtso chuyển dịch Anh ngữ; Liz Summers chép lại và Basia Coulter biên tập.]

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.kunzang.org/treasure-lineage/barway-dorje-barom-kagyu-ii/.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Bardor Tulku Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35810/tieu-su-van-tat-bardor-tulku-rinpoche-thu-ba-1949-2021-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3920)
không phải là kết thúc của cuộc sống, bởi vẫn còn tái sinh sau khi chết.
(Xem: 3422)
Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng
(Xem: 4210)
Sống và chết đều vô cùng quan trọng với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự.
(Xem: 4278)
Vài người nghĩ rằng Phật giáo Kim Cương thừa rất huyền bí. Điều này là bởi họ thiếu một sự hiểu về hệ thống tư tưởngthực hành của Kim Cương thừa.
(Xem: 2854)
Các hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai; những thủ lĩnh phổ quát của đại dương đàn trànggia đình Phật;
(Xem: 3279)
Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi.
(Xem: 3383)
Về điều mà chúng ta sắp lắng nghe, Đức Phật đã ban vô số giáo lý. Nếu chúng ta muốn cô đọng những giáo lý này thì có những giáo lý của thừa căn bản và những giáo lý của thừa đặc biệt.
(Xem: 3300)
Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường.
(Xem: 3444)
Đèn Soi Nẻo Giác (A Lamp for the Path to Enlightenment), do ngài Atisha vĩ đại (Dipamkara Shrijnana) sáng tác tại Tây Tạng.
(Xem: 4407)
Ngày nọ, Đạo Sư đang an trụ trong sự chứng ngộ khi Ngài diện kiến Đức Kim Cương Tát Đỏa và thọ nhận lời tiên tri:
(Xem: 3452)
Ở Xứ Tuyết Tây Tạng, những giáo lý của Đức Phật được trao truyền trong nhiều dòng truyền thừa.
(Xem: 9615)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 7030)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 7869)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 9423)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 4509)
Kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa. “Tất cả mọi pháp đều không có tự tánh. (Năm) uẩn (skandas), (mười tám) giới (dhatus)...
(Xem: 5196)
Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói rằng, theo giáo lý của Đức Phật, có hai kiểu người không làm ác: kiểu đầu tiên là những người...
(Xem: 13475)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 11305)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11617)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10919)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 9345)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 13821)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14981)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10536)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10675)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9913)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10016)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10197)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10528)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10620)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10551)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10127)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9846)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13557)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16348)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13494)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 9621)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 10569)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 12373)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 12295)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 11761)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 12037)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14426)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 10970)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 15430)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17792)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15058)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16559)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 14674)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 14586)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18360)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 18524)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 12876)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13441)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 18611)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant