Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền Thừa Barway Dorje Và Truyền Thừa Barom Kagyu (phần 2)

15 Tháng Mười Một 202119:44(Xem: 2038)
Truyền Thừa Barway Dorje Và Truyền Thừa Barom Kagyu (phần 2)
Truyền Thừa Barway Dorje Và Truyền Thừa Barom Kagyu (phần 2)
Bardor Tulku Rinpoche[1] giảng ở Arizona tháng 1/2010

Pema Jyana 

Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima

 Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa. Truyền thừa dài là điều vốn được thọ nhận bởi Pháp chủ Sonam Zangpo. Ngài Sonam Zangpo là một trong hai đệ tử chính yếu của đạo sư của Ngài, vị trì giữ Barom Kagyu, người được gọi là Marmo Sonam Dondrup và cũng là vị đã thành lập trụ xứ tu sĩ ban đầu tại Kyodrak Utse. Đức Marmo Sonam Dondrup có hai đệ tử chính, những vị được gọi là đệ tử như mặt trờimặt trăng. Đó là Pháp chủ Sonam Zangpo, vị đã dành cả đời để thực hành tại Tu viện Kyodrak và Pháp chủ Trungmase Lodro Rinchen, vị thành lập Tu viện Surmang. Vì thế, về một mặt nào đó, cả hai Tu viện Kagyu vô cùng quan trọng này là kết quả của truyền thừa truyền miệng dài của Barom Kagyu. Những Tu viện này được thành lập từ 700-800 năm trước và kể từ đó, chúng vẫn tiếp tục trong truyền thống được làm phong phú bởi các linh kiến của Đức Barway Dorje.

Những giáo lý Barom Kagyu, giống như giáo lý của tất cả bốn phần chính và tám phụ của Kagyu, là giáo lý Đại Thủ Ấn được ban bởi Tổ Gampopa. Tất cả những giáo lý này vốn đến từ Tổ Gampopa; vì thế, chúng ta có thể xem bốn phần chính và tám phụ giống như bốn người con và tám cháu trong một gia đình. Mỗi truyền thừa này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay và nhiều truyền thừa rất nổi tiếng. Barom Kagyu vẫn tồn tại; tất cả bốn phần chính vẫn còn; và tám nhánh [phụ] cũng vậy. Trong đó, nhiều truyền thừa rất nổi tiếng với các bạn. Karma Kagyu là một trong bốn phần chính; Drikung Kagyu và Drukpa Kagyu là hai trong tám phần phụ và nổi tiếng khắp thế giới. Tất cả về cơ bản đều giống nhau bởi điều mà các truyền thừa này tập trung vào, điều mà các truyền thừa trao truyền là Đại Thủ Ấn của Tổ Gampopa. Đây là điều được giảng dạy bởi Kim Cương Trì và v.v. và trong trường hợp của Barom Kagyu, nó được truyền xuống từ Kim Cương Trì, qua truyền thống Kagyu, đến Ngài Marmo Sonam Dondrup và v.v. Vô số thành tựu giả đã xuất hiện nhờ những thực hành Đại Thủ Ấn được giảng dạy bởi Tổ Gampopa này.

Hai quyển giáo lý hư huyễn được tìm thấy trong Tuyển Tập Trước Tác của Đức Barway Dorje liên quan đến truyền thừa Đại Thủ Ấn. Chín quyển giáo lý Terma (kho tàng) liên quan đến truyền thống vĩ đại khác – Đại Viên Mãn (Dzogchen). Trong chín quyển này có nhiều thực hành khác nhau, điều đã được sử dụng và vẫn tiếp tục được sử dụng bởi các hành giả để đạt thành tựu thù thắng. Đức Barway Dorje đã trao truyền những giáo lý này cho các đệ tử của Ngài, những vị thỉnh cầu chúng và khi họ thực hành những giáo lý này, nhiều vị đã hiển bày các dấu hiệu thành tựu. Ví dụ, khi Ngài Kagyu Tashi từ Tu viện Kyodrak thực hành nghi quỹ Khechari Trắng (Kim Cương Du Già Nữ Trắng) đến hoàn thiện, trong nhận thức của kẻ khác, thân Ngài bắt đầu chuyển thành thân của Kim Cương Du Già Nữ. Tiêu chuẩn của thực hành, điều vẫn được duy trì trong truyền thừa của Đức Barway Dorje tại Tu viện Raktrul, được công nhận rộng khắp là thuộc nhóm cao nhất. Có hai đạo sư nhập thất hiện đang sống tại Tu viện Raktrul; họ và những vị tương đương được công nhận khắp Tây Tạng là có được một trong những sự rèn luyện tốt nhất có thể.

Đức Phật dạy rằng những giáo lý của Ngài bao gồm hai điều và chỉ hai điều – giáo lý của sự trao truyền và giáo lý của sự chứng ngộ. Ngài nói rằng chúng tạo thành toàn bộ giáo lý của Ngài và chúng được duy trì lần lượt nhờ nghiên cứuthực hành. Trong hai điều này, khía cạnh của Phật Pháp, điều thực sự đem đến kết quả dự định, rốt ráo là điều mà chúng ta gọi là Giáo Pháp của sự chứng ngộ, sự thực hành thực sự. Nó đặt nền tảng ở sự nghiên cứu các kinh văn – và điều này quan trọng và ý nghĩa – nhưng mục đích của nghiên cứu là chuẩn bị tâm cho sự thực hành, để nhờ thực hành, người ta có thể chứng ngộ bản tính của tâm họ. Nhờ làm vậy, họ đạt giải thoát và sau đấy, giải thoát chúng sinh khác nhờ lòng bi mẫn. Nói cách khác, để ai đó có thể đưa chúng sinh khác đến giải thoát, bản thân họ cần phải tự mình đạt được sự giải thoát đó rồi. Khi ai đó đã nhận rahoàn toàn phát lộ bản tính tâm, họ có thể khuấy động sự chứng ngộ đó trong chúng sinh khác; họ có thể trao nó cho chúng sinh khác bởi họ có nó để trao.

Có hai so sánh truyền thống về điều này. Một là về ngọn lửa được truyền từ một cây nến đã được đốt sang cây nến chưa. Để điều này xảy ra, trước hết, cây nến phải được đốt rồi, nếu không, nó không thể đốt cây thứ hai. Khi lửa được truyền sang cây nến thứ hai, cây nến đầu vẫn được đốt; nó không mất đi ngọn lửa. So sánh thứ hai là về chiếc khuôn mà người ta dùng để làm Tsatsa đất sét. Nếu khuôn hoàn hảo và được làm chuẩn xác thì dù bạn làm bao nhiêu Tsatsa bằng một chiếc khuôn đó, chúng sẽ đều tốt; chúng sẽ đều hoàn hảo. Nhưng nếu khuôn kém, mọi Tsatsa từ đó sẽ đều kém.

Giống như vậy, trước tiên, người ta phải giải phóng tâm mình nhờ sự chứng ngộ bản tính và sau đó, nhờ lòng bi mẫn, đưa chúng sinh khác đến giải thoát. Do đó, trong khi cả hai khía cạnh – Phật Pháp của sự trao truyền và của sự chứng ngộ – đều quan trọng, chính Giáo Pháp của sự chứng ngộ mới đem đến kết quả cuối cùng.

Barom Kagyu không nổi tiếng ở phương Tây nhưng điều này không có nghĩa là nó không phổ biếnTây Tạng. Theo truyền thống, Barom Kagyu chủ yếu tập trung vào thực hành thiền định miên mật. Ở miền Đông Tây Tạng, chỉ riêng Tu viện Kyodrak, đã có chín trung tâm nhập thất ba năm về những giáo lý Barom Kagyu. Năm trong số đó dành cho nam và bốn cho nữ. Một trung tâm thứ mười – trung tâm mới cho nữ – vừa mới được mở. Trung tâm nhập thất mới cho nữ giới chủ yếu tập trung vào Khechari Trắng (Kim Cương Du Già Nữ Trắng). Một trung tâm nhập thất thứ mười một cũng đang được thiết lập liên hệ với Tu viện Kyodrak tại Đỉnh Kyodrak (Kyodrak Utse). Nó được thiết kế để trở thành điều mà chúng ta gọi là trung tâm nhập thất ba năm cho những vị đã tốt nghiệp. Để gia nhập trung tâm đó, ứng cử viên phải tiến hành ít nhất hai hay ba khóa nhập thất ba năm và đạt được cấp bậc của một đạo sư nhập thất. Mười ba cá nhân như vậy sẽ được lựa chọn và họ sẽ tiến hành khóa nhập thất cho những vị đã tốt nghiệp này. Số lượng này dựa trên mười ba đệ tử thành tựu của Pháp chủ Sonam Zangpo, những vị đã tiến hành nhập thất trong hang động ở Kyodrak Utse và vì kết nối cát tường đó, mười ba đạo sư nhập thất này sẽ tham gia vào trung tâm nhập thất thứ mười một.

Tất cả các trung tâm nhập thất này đều liên hệ với một Tu việnTu viện Kyodrak. Tu viện gốc của Tổ Gampopa giờ cũng có một trung tâm nhập thất ba năm về Barom Kagyu; trụ xứ gốc của Barom Kagyu ở miền Bắc Tây Tạng cũng vậy. Ở cả hai nơi này, năm khóa nhập thất đã được hoàn thành. Mỗi khóa nhập thất ba năm này đã tạo ra khoảng bốn mươi đến năm mươi vị. Kết nối giữa hệ thống thực hành Barom Kagyu và thánh địa của Đức Milarepa (tòa tháp được Milarepa xây dựng cho Darmadode, con trai của Tổ Marpa) cũng đang tăng trưởng. Cũng có một khu thực hành cho Barom Kagyu tại đó. Bên cạnh đó, có ba mươi lăm Tu viện nhánh khác, điều cũng là một phần của Barom Kagyu. Hầu hết đều có trung tâm nhập thất ba năm và tất cả đều thực hành truyền thống Barom Kagyu theo truyền thừa linh kiến của Terchen Barway Dorje. Vì thế, như Đức Phật từng nói, nếu chúng ta được cho là đạt chứng ngộ nhờ thực hành thì Barom Kagyu cũng đang không quá tệ; chúng ta không phải kém nhất trong các môn đồ của Đức Phật.

Nhưng điều này hiển nhiên khiến người ta băn khoăn tại sao không ai ở phương Tây từng nghe nói về Barom Kagyu cho đến nay.  Và đây là chỗ mà tôi phải nói rằng phần ba hoa đã chấm dứt, bởi nếu bạn truy vấn xem lỗi của ai khi không ai từng nghe nói về Barom Kagyu, tôi phải nói rằng đó là lỗi của tôi. Tại sao lại là lỗi của tôi? Nó là lỗi của tôi bởi tôi là cội nguồn của Barom Kagyu và vì thế, đó là trách nhiệm của tôi. Do đó, chính là lỗi của tôi khi không ai từng nghe nói về nó.

Các bạn có thể băn khoăn tại sao tôi chẳng bao giờ nói về Barom Kagyu. Bổn Sư của tôi là Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười sáu – Rangjung Rigpe Dorje và bởi lòng sùng mộ lớn lao với Ngài và niềm tin lớn lao với Ngài trong hơn ba mươi sáu năm, tôi chỉ nghĩ về việc phụng sự giáo lý của Ngài, hoạt động của Ngài và truyền thừa đặc biệt của Ngài. Vì lòng sùng mộ với Bổn Sư, tôi chẳng bao giờ nhắc đến Barom Kagyu dù chỉ bằng tên. Không phải là tôi không quan tâm đến Barom Kagyu hay tôi không biết về Barom Kagyu. Chỉ là điều đầu tiên và hơn hết luôn là lòng sùng mộ với Bổn Sư. Ví dụ, một lời cầu nguyện mà tôi viết nói rằng tôi sẵn lòng vứt bỏ ngay cả động mạch chủ, thứ mà sinh mạng tôi phụ thuộc, như tôi làm với ngọn cỏ khi phụng sự Bổn Sư của tôi. Tôi đã cảm thấy như vậy khi viết điều đó và tôi vẫn cảm thấy vậy hôm nay. Lòng sùng mộ của tôi với Bổn Sư, Đức Gyalwang Karmapa, không đổi.

Tôi nhắc đến điều này bởi vài người có thể nói rằng Bardor Rinpoche đã tách rời Bổn Sư; Ngài giờ đã bỏ đi. Điều đấy không đúng. Chiều sâu của mối quan hệ của tôi với Đức Gyalwang Karmapa và đặc biệt là Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười sáu, sẽ hiện rành rành với bạn khi bạn đọc Ánh Sáng Bình Minh, tiểu sử của Ngài Barway Dorje thứ Hai, điều cuối cùng sẽ được chuyển dịch. Trong bản văn đó có ghi lại những cuộc trò chuyện giữa Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười sáu và Ngài Barway Dorje thứ Hai. Trong một cuộc trò chuyện, Đức Karmapa thứ Mười sáu – Rangjung Rigpe Dorje nói với Ngài Barway Dorje thứ Hai, “Từ nay trở đi, tâm con và tâm Ta luôn luôn và mãi mãi bất khả phân và chẳng thể tách rời”. Đấy không phải là một trích dẫn sai; nó là trích dẫn được chứng nhận và xác thực. Và khi Đức Karmapa nói điều này với tiền thân của tôi, Ngài rất chân thành.

Trong một cuộc trò chuyện của chính tôi với Đức Karmapa thứ Mười sáu, khi Ngài hỏi, “Mối liên hệ của chúng ta sẽ ra sao trong tương lai?”. Tôi thưa với Ngài, “Trong mười một thế hệ, gia đình con vẫn chỉ nương tựa Ngài là đạo sư cho những lời cầu nguyện lúc khó khăn, những lời cầu nguyện cho người đã khuất và v.v. Trong đời trước của con, như Ngài nhớ rõ, con hoàn toàn nương tựa Ngài và chỉ Ngài mà thôi. Vì thế, con sẽ tiếp tục chỉ nương tựa Ngài trong đời này và các đời tương lai. Con không cần bất kỳ ai khác. Không có ai tốt hơn cả. Con không cần ai tốt hơn. Con không cần đạo sư nào khác”. Tôi chẳng có nghi ngờ gì về điều này. Tôi hiểu con đường của mình và tôi hiểu số mệnh của mình. Tôi không lo lắng gì về mối quan hệ của tôi với Bổn Sư nhưng tôi nhắc đến điều này bởi ngày nay, có nhiều tin đồn và lời bàn tán. Người ta nói đủ mọi chuyện. Tôi khuyên bạn, nếu bạn muốn thực hành Giáo Pháp một cách thanh tịnhchân thành, đừng nghe những lời bàn tántin đồn. Tất cả những gì bạn cần là thệ nguyện thanh tịnh, trung thực và mối quan hệ với Bổn Sư đặc biệt của riêng bạn.

Nếu bạn có thể nhận ra Bổn Sư là Kim Cương Trì thì bạn sẽ thọ nhận, thông qua Bổn Sư của bạn, sự gia trì của Kim Cương Trì. Nếu bạn nhận ra Bổn Sư là hiện thân của tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai, bạn sẽ thọ nhận sự gia trì của tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu bạn nhận ra Bổn Sư là hiện thân của tất cả chư Phật và Bồ Tát cùng tất cả chư Bổn tôn, bạn sẽ thọ nhận tất cả sự gia trìthành tựu của chư vị. Không có nghi ngờ, nhờ lòng sùng mộ như vậy, nhờ sự tin tưởng như vậy, bạn sẽ đạt được Pháp thânlợi lạc của bản thân. Nhưng nếu bạn nghi ngờ, nếu bạn bị ảnh hưởng bởi lời bàn tántin đồn thì các chướng ngại sẽ khởi lên trong cuộc đời và trong sự hành trì của bạn. Mức độ niềm tin của bạn, mức độ lòng sùng mộ của bạn chẳng đặc biệt ảnh hưởng đến Bổn Sư, nhưng nó sẽ tác động đến bạn. Điều xảy ra với đạo sư phụ thuộc vào hành động của chính Ngài.

Tôi vô cùng quan tâm đến tất cả các bạn và điều đấy nghĩa là, trong nhiều chuyện khác nữa, tôi hy vọng mọi chuyện sẽ suôn sẻ với tất cả các bạn theo mọi cách; rằng tất cả các bạn sẽ đạt được sự giải thoát cuối cùng khỏi luân hồi; rằng tất cả các bạn sẽ đạt trạng thái chứng ngộ mà chư thành tựu giả Kagyu trong quá khứ đã minh họa. Và với chính thái độ này – ý định này – mà tôi đã học hỏi từ đạo sư của tôi, bởi đó đã là và cũng vẫn là [thái độ] của Ngài. Vì thế, tôi thúc giục các bạn – bởi đây là ý định của tôi, đây là lý do tôi vô cùng quan tâm – tôi thúc giục các bạn không lạc lối. Tự thân Giáo Pháp thì thanh tịnh. Nó thanh tịnh trong mọi hình tướng. Điều đấy không có nghĩa là chỉ Giáo Pháp của Karma Kagyu, mà cả Giáo Pháp của Barom Kagyu và các truyền thống khác. Nhưng trong khi Giáo Pháp thì thanh tịnhbất biến, chúng ta lại đang sống trong thời kỳ suy đồi.

Chúng ta đang sống trong thời kỳ tăm tối về tâm linh. Một trong những dấu hiệu của điều này là Giáo Pháp đang bị dùng sai bởi những người chưa giác ngộ. Những người dùng sai Giáo Pháp không thể thay đổi Giáo Pháp nhưng họ có thể bóp méo cách trình bày của nó. Dĩ nhiên, Giáo Pháp không phải là một người; nó là chân lý. Và chân lý là điều đúng đắn; chuyện đó sẽ không đổi. Ví dụ, Đức Phật đã dạy cách Ngài du hành con đường và đạt giác ngộ. Dựa trên sự giác ngộ của bản thân Ngài, Ngài trao tấm bản đồ dẫn dắt từ nơi chúng ta bắt đầu [con đường] đến trạng thái giác ngộ hoàn hảo. Tuy nhiên, khi giải mã lại bản đồ đó, bao gói lại bản đồ đó, một số xuyên tạc nó; một số tạo ra bản đồ dẫn dắt sai, thứ giữ những người dựa vào chúng bằng cách dẫn họ trong những vòng bất tận. Tuy nhiên, nếu chúng taniềm tin chân chínhthệ nguyện Samaya thanh tịnh, chúng ta vẫn sẽ tìm được đường. Mặt khác, nếu chúng ta thiếu niềm tin, thậm chí nếu chúng ta gặp được một đạo sư tâm linh chân chính và nhận được tấm bản đồ chuẩn xác, chúng ta sẽ chẳng thể đi theo. Ai đó không có niềm tin giống như hạt giống bị đốt cháy. Nếu bạn gieo một hạt giống bị đốt cháy, ngay cả trong đất màu mỡ nhất, nó cũng chẳng mọc lên. Chúng ta cần trưởng thành. Chúng ta cần giảm các phiền não. Chúng ta cần đạt giải thoát. Đây là ý định của chúng ta; đây là lý do chúng ta bước vào con đường. Chúng ta chia sẻ ý định này với tất cả đạo sư chân chính. Ý định của chư vị cũng vậy – rằng chúng ta trưởng thành, phiền não giảm và chúng ta đạt giải thoát. Điều quan trọng là chúng ta thỉnh thoảng nhắc nhở bản thân lý do chúng ta đang làm điều này, về điều mà chúng ta đang thực sự cố gắng làm.

[Từ một bài giảng mà Bardor Tulku Rinpoche ban ở Arizona vào tháng 1/2010. Lama Yeshe Gyamtso chuyển dịch Anh ngữ; Liz Summers chép lại và Basia Coulter biên tập.]

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.kunzang.org/treasure-lineage/barway-dorje-barom-kagyu-ii/.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Bardor Tulku Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35810/tieu-su-van-tat-bardor-tulku-rinpoche-thu-ba-1949-2021-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26395)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12752)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29520)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27724)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25917)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16242)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22734)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12621)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14740)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47504)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13659)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14578)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12532)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14422)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14137)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39689)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13867)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37308)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40035)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13787)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37218)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11743)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22525)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12500)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12561)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13025)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14819)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12446)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11946)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12375)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30662)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31876)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35382)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27783)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11461)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31696)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27068)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24130)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30857)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28102)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23252)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23564)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21541)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26261)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13023)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21875)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14097)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37990)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32083)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28549)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19596)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7305)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant