Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn

13 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15140)
Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn
NĂM TỴ KỂ CHUYỆN RẮN

Năm Tỵ kể chuyện rắnTrong mười hai con giáp, rắn được xếp sau rồng; tuy nhiên cũng có thể nói ngược lại là rắn đứng trước rồng đến mười bậc trong vòng tròn mười hai địa chi. Và trong khi rồng là một ‘sinh vật’ chúng ta không thể nhìn thấy, ít nhất vào thời điểm này, và mang đầy màu sắc huyền thoại, thì rắn lại là một sinh vật có thực và hiện diện xung quanh ta.

Cũng trong khi rồng là ‘sinh vật’ chỉ tồn tại (nơi niềm tin) ở một vài xứ sở, chẳng hạn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật BảnViệt Nam, thì rắn tồn tại khắp nơi, trừ những nơi rắn không thể sống được do những điều kiện nào đó.

Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn; nhưng rắn thì có, với đầy đủ các cung bậc. Trong tiếng Sanskrit, rắn được gọi là nāga. Nhưng từ nāga trong tiếng Sanskrit và Pāli không chỉ có nghĩa là rắn, mà cũng có nghĩa là con voi. Mặc dù trong Phạn ngữ nāga có nghĩa là rắn nói chung, thì lắm lúc khi đề cập đến từ này người ta liền liên tưởng ngay đến một loại rắn chúa, rắn thần. Có một từ khác trong tiếng Sanskrit cũng chỉ cho rắn, đó là từ sarpa, nhưng rắn sarpa này thường ít mang màu sắc huyền bí hơn là rắn nāga. Trong niềm tin dân gian của người Ấn, trước thời kỳ Phật giáo, nāga là một loại rắn hổ mang bành có bảy đầu.

Như vậy, từ nāga vốn có nghĩa là rắn. Nhưng rồi khi từ này được truyền vào một vài quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc… thì thường được dịch là rồng (long), hơn là rắn (xà), nhất là trong những ngữ cảnh khi nāga được đề cập đến như là một sinh vật thiêng liêng. Điều này có lẽ do sự ‘tiếp biến’ văn hóa, nơi tín ngưỡng rồng phổ biến, và khi rồng được xem là một ‘sinh vật’ thiêng liênghình ảnh của nó cũng được dùng trang trí ở những nơi chốn trang nghiêm.

Giống như rồng (龍) là sinh vật huyền bí (một trong tứ linh) của Trung Quốc, rắn (nāga) được xem là một sinh vật linh thiêng trong đời sống văn hóatôn giáo Ấn Độ. Nāga được xếp vào một trong ‘bát bộ’, là á thần, bởi vì được cho là có những ‘thần lực’ nhất định. Bát bộ bao gồm: Deva (thiên), Nāga (rồng, rắn), Yaksa (thần dạ-xoa), Gandharva (càn-thát-bà: nhạc thần), Asura (thần a-tu-la), Garuda (ca-lâu-na: chim đại bàng), Kinnara (khẩn-na-la: nhạc thần của Đế Thích), Mahoraga (Ma-hầu-la-gia: thần đầu rắn mình người).

Nơi niềm tin của người Ấn, nguồn gốc của rắn được cho là có liên hệ với thần linh. Theo Varāha Purāa, một trong các thánh thư của Ấn giáo, con trai của Phạm vương (Brahma) là Kashyapa có bốn người vợ. Người vợ đầu sinh ra các Deva (thiên), người vợ thứ hai sinh ra Garuda (chim), người vợ thứ ba sinh ra Nāga (rắn), và người vợ thứ tư sinh ra Daitya (quỷ). Từ câu chuyện được đề cập ở trong cuốn sách này, rắn như vậy có những liên hệ ‘huyết thống’ với thần linh. Thêm nữa, theo vũ trụ luận của người Ấn, núi Meru là ngọn núi trung tâm của vũ trụ, và là nơi cư trú của Phạm thiên và những thần linh khác, và rắn (nāga) là sinh vật bảo vệ ngọn núi này bằng cách cuốn mình quanh ngọn núi.

Không biết có phải từ nguyên nhân này hay không mà rắn được tôn kínhthờ phụng như một vị thần ở trong Ấn giáo. Ở trong nhiều ngôi đền của Ấn giáo, người ta đã thờ phượng rắn như là một vị thần thực thụ. Và tại nhiều ngôi làng ở Ấn, người ta tôn trí trong nhà những tranh tượng rắn, và thậm chí dâng cúng trứng và sữa cho những tranh tượng rắn này. Người Ấn giáo cũng có lễ hội về rắn thần, tưởng niệm ngày sinh của rắn thần và ngày này được gọi là Nāga Panchami. Rắn cũng trở thành vật gần gũi và thân cận với các vị thần của Ấn giáo. Ví dụ như thần Shiva thường quấn một con rắn ở nơi cổ; còn sàng tọa của thần Krishna lại là một con rắn.

Rắn trong Ấn giáo cũng biểu tượng cho sự tự do, bởi vì nó là một sinh vật được cho là không thể thuần hóa. Nhưng điều này chưa hẳn đã đúng, bởi vì nhiều nơi trên nước Ấn, các đạo sĩ và ngay cả những thường dân, đã ‘thuần hóa’ được rắn. Họ có thể sai bảo rắn huýt gió hay điều khiển rắn múa theo điệu kèn hoặc sáo…. Không rõ là người ta có sử dụng ‘phép thuật’ hay nhưng bí quyết gì để bắt rắn phải phục tùng theo ý muốn của họ như vậy hay không, nhưng rõ ràng là rắn có thể bị thuần phục bởi con người. Người Ấn giáo cũng tin rằng rắn (thần) có thể đem đến tài sản, sức khỏe, hạnh phúc cho con người, và sẽ giúp con người khi họ gặp phải những khó khăn trong đời sống. Nhưng dù rắn thần được xem là sinh vật thiêng liêng, thì sinh vật này vẫn ở dưới sự điều khiển của hai vị thần Shiva và Krishna.

Nơi cư trú của nāga thường được cho là gắn liền với nước, chẳng hạn như dưới đáy sâu của đại dương, sông, hồ… Vì đời sống gắn liền nước, nên nāga cũng biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Và cũng vì là sinh vật gắn liền với nước, nên theo huyền thoại, nāga có thể tạo nên mưa gió.

Tuy nhiên rắn không phải luôn được coi là một sinh vật hiền thiện ở trong Ấn giáo, mà đôi khi cũng bị coi là một sinh vật nguy hiểm. Trong Mahabharata, một thánh điển quan trọng của Ấn giáo, rắn được miêu tả như là một sinh vật hung ác và có khuynh hướng làm hại kẻ khác. Rắn (nāga) cũng có kẻ thù không đội trời chung của nó, đó chính là chim Garuda. Cả Nāga và Garuda có cùng cha là Kashyapa, nhưng do vì sự bội bạc của Kadru, mẹ của Nāga, mà hai sinh vật này trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau.

Trong Phật giáo, rắn (nāga) xuất hiện khá thường xuyên trong kinh điển. Chúng ta có lẽ đều biết đến câu chuyện rắn thần Mucalinda (Muchalinda nāga) đã che mưa bão cho Đức Phật khi Ngài thiền định bên một gốc cây trong những ngày mưa gió. Chuyện kể rằng, vào tuần thứ sáu sau khi giác ngộ, khi Đức Phật đang thiền định bên gốc cây Mucalinda thì mưa to ập xuống và kéo dài trong bảy ngày liền. Ngay khi ấy, một con rắn chúa từ dưới đất bò lên đã che mưa gió cho Ngài bằng cách cuốn bảy vòng quanh mình Ngài và vươn đầu phồng to ra để che ở phía trên, với suy nghĩ: không để Đức Thế Tôn bị mưa lạnh. (Xem thêm Udana 2.1, kinh Mucalinda). Từ câu chuyện này, những người tạc tượng về sau đã tạc hình Đức Phật ở tư thế ngồi thiền, có một con rắn bảy đầu che ở bên trên. Rắn ở đây như là một sinh vật khôn ngoan, biết hộ trì những bậc thánh, và cũng có thể được cảm hóa.

Trong Buddhacarita sagraha sūtra, cũng có kể lại câu chuyện tương tự với câu chuyện trong Udana, nhưng ở đây có thêm một số tình tiết: sau khi Đức Phật giác ngộ bên cội bồ-đề ở Bodhgaya, có một con rắn (nāga) chúa màu đen bò đến đảnh lễ Đức Phật và sau đó thỉnh Ngài viếng thăm nơi cư trú của mình. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu và trú tại nơi của nāga suốt bảy ngày liền. Sau đó Đức Phật quy y cho rắn chúa, truyền cho nó Tam quyNgũ giới. Và rắn chúa này là sinh vật, không thuộc loài người, đầu tiên quy y Tam bảo. Sau đó một rắn chúa khác có tên là Mucilinda viếng thăm Đức Phật và đã che mưa bão cho Ngài trong suốt bảy ngày. Và sau bảy ngày thiền định của Đức Phật và khi mưa gió chấm dứt, rắn chúa này thỉnh mời Ngài đến trú xứ của mình và sau đó quy y Tam bảo.

Nhưng trong kinh điển Pāli, qua những ẩn dụ và những trường hợp cụ thể, rắn cũng cho thấy là một sinh vật có thể gây hại, không hoàn toàn thân thiện và huyền bí. Hẳn nhiên là với những loài rắn độc, nếu không thêm thắt những màu sắc huyền bí, chúng có thể tấn công và gây hại cho ta khi ta vô tình dẫm đạp, hay có hành động tấn công chúng. Kinh Tăng chi có đề cập đến trường hợp một Tỳ-kheo đã bị rắn cắn chết (Tăng chi bộ IV: 67). Và khi biết được vấn đề này, Đức Phật nói rằng nếu vị Tỳ-kheo ấy trải lòng từ đến loài rắn, thì đã không bị con rắn ấy cắn chết. Và lòng từ, theo bài kinh này, là phương cách ngăn chặn các loài rắn, cũng như những ác thú khác, làm hại.

Trong kinh sách, rắn cũng được đem ra làm ẩn dụ cho việc đọc, hiểu và thực hành kinh điển. Một người học giáo pháp với mục đích khoái khẩu biện luận, để chỉ trích người khác, không học pháp với mục đích tu tập cho việc giác ngộ giải thoát, thì người này được coi là bắt rắn ở lưng hay ở đuôi, có thể bị con rắn đó quay lại cắn. Tức muốn nói rằng, một người học pháp với mục đích như vậy thì chỉ tạo thêm khổ đau mà không được ích lợi gì. Còn người học pháp khôngmục đích khoái khẩu biện luận hay chỉ trích người khác, mà học pháp với mục đích áp dụng tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát, thì người này được cho là đang bắt rắn nơi cổ, không bị rắn gây hại (Xem Trung bộ, kinh Ví dụ con rắn, số 22).

Trong Phật giáo, rắn (nāga) đôi khi được mô tả như là một sinh vật có tâm hộ trì kinh sách. Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, kinh Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà Đức Phật thuyết trên núi Linh Thứu đã được nāga (thường được dịch là rồng, hơn là rắn) lưu giữ ở dưới Long cung (nāgarāja). Và về sau Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) đã xuống Long cung để mang những kinh sách này lên cho loài người.

Ấn Độ, một vài nơi chốn linh thiêng đôi khi được cho là nơi có nāga cư ngụ. Trong Đại đường tây vực ký, khi nói về Đại học Nalanda, ngài Huyền Trang cho rằng tại khu vực Đại học Nalanda tọa lạc, trước đó có một hồ nước và có một con rồng/rắn (nāga) chúa tên là Nalanda sống, nên ngôi tự viện được xây dựng ở đây đã được đặt tên theo tên con rồng/rắn này. Và về sau, ngôi tự viện này đã trở thành một trung tâm học thuật nổi tiếng của Phật giáo đó là Đại học Nalanda.

Xa hơn nữa, nāga cũng được phân chia thành năm ‘đẳng cấp’ tương ứng với năm đẳng cấp: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya (chiến sĩ), Vaishya (thương nhân), Shudra (lao động chân tay), và Chandali (thành phần cùng đinh). Tuy nhiên, qua các tài liệu mà tôi đọc được, đã không thấy đề cập đến những loại rắn nào tương ứng với đẳng cấp Bà-la-môn, và những loài nào tương ứng với đẳng cấp Thủ-đà-la… Trong Tăng chi bộ (IV: 67) ta thấy có đề cập đến bốn loại rắn chúa, đó là: Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, và Gotamaka. Và trong Trường bộ, kinh Ðại hội (Maha-samaya Sutta, kinh số 20), Virupakkha được cho là ‘Chúa tể loài Nāga’, tức là vua của các loài rắn.

Như vậy, từ những gì được trình bày ở trên, ta thấy hình ảnh của rắn được con người thể hiện khá sinh động. Rắn vừa là một sinh vật ít nhiều gây cho con người sự sợ hãi bởi nòng độc của nó, nhưng cũng vừa là một sinh vật gắn liền với những huyền thoại, và lắm khi được gán cho là sinh vật biết tu luyện. Rắn đôi khi còn được phong ‘thần’ và trở thành rắn thần, và mỗi khi trở thành ‘thần’ thì hẳn nhiên sẽ trở thành đối tượng thờ bái của một số người.

Nghiệp Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11401)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13404)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11251)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11455)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12686)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 30116)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 10962)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11722)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10654)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11223)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11512)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12896)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12085)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11308)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10206)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11802)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11201)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10894)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13073)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10200)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10872)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10942)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14534)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10684)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 12072)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 30176)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 12553)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12543)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 13251)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 28338)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 22509)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 21762)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20465)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22372)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18785)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 23862)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant