Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn

13 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15142)
Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn
NĂM TỴ KỂ CHUYỆN RẮN

Năm Tỵ kể chuyện rắnTrong mười hai con giáp, rắn được xếp sau rồng; tuy nhiên cũng có thể nói ngược lại là rắn đứng trước rồng đến mười bậc trong vòng tròn mười hai địa chi. Và trong khi rồng là một ‘sinh vật’ chúng ta không thể nhìn thấy, ít nhất vào thời điểm này, và mang đầy màu sắc huyền thoại, thì rắn lại là một sinh vật có thực và hiện diện xung quanh ta.

Cũng trong khi rồng là ‘sinh vật’ chỉ tồn tại (nơi niềm tin) ở một vài xứ sở, chẳng hạn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật BảnViệt Nam, thì rắn tồn tại khắp nơi, trừ những nơi rắn không thể sống được do những điều kiện nào đó.

Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn; nhưng rắn thì có, với đầy đủ các cung bậc. Trong tiếng Sanskrit, rắn được gọi là nāga. Nhưng từ nāga trong tiếng Sanskrit và Pāli không chỉ có nghĩa là rắn, mà cũng có nghĩa là con voi. Mặc dù trong Phạn ngữ nāga có nghĩa là rắn nói chung, thì lắm lúc khi đề cập đến từ này người ta liền liên tưởng ngay đến một loại rắn chúa, rắn thần. Có một từ khác trong tiếng Sanskrit cũng chỉ cho rắn, đó là từ sarpa, nhưng rắn sarpa này thường ít mang màu sắc huyền bí hơn là rắn nāga. Trong niềm tin dân gian của người Ấn, trước thời kỳ Phật giáo, nāga là một loại rắn hổ mang bành có bảy đầu.

Như vậy, từ nāga vốn có nghĩa là rắn. Nhưng rồi khi từ này được truyền vào một vài quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc… thì thường được dịch là rồng (long), hơn là rắn (xà), nhất là trong những ngữ cảnh khi nāga được đề cập đến như là một sinh vật thiêng liêng. Điều này có lẽ do sự ‘tiếp biến’ văn hóa, nơi tín ngưỡng rồng phổ biến, và khi rồng được xem là một ‘sinh vật’ thiêng liênghình ảnh của nó cũng được dùng trang trí ở những nơi chốn trang nghiêm.

Giống như rồng (龍) là sinh vật huyền bí (một trong tứ linh) của Trung Quốc, rắn (nāga) được xem là một sinh vật linh thiêng trong đời sống văn hóatôn giáo Ấn Độ. Nāga được xếp vào một trong ‘bát bộ’, là á thần, bởi vì được cho là có những ‘thần lực’ nhất định. Bát bộ bao gồm: Deva (thiên), Nāga (rồng, rắn), Yaksa (thần dạ-xoa), Gandharva (càn-thát-bà: nhạc thần), Asura (thần a-tu-la), Garuda (ca-lâu-na: chim đại bàng), Kinnara (khẩn-na-la: nhạc thần của Đế Thích), Mahoraga (Ma-hầu-la-gia: thần đầu rắn mình người).

Nơi niềm tin của người Ấn, nguồn gốc của rắn được cho là có liên hệ với thần linh. Theo Varāha Purāa, một trong các thánh thư của Ấn giáo, con trai của Phạm vương (Brahma) là Kashyapa có bốn người vợ. Người vợ đầu sinh ra các Deva (thiên), người vợ thứ hai sinh ra Garuda (chim), người vợ thứ ba sinh ra Nāga (rắn), và người vợ thứ tư sinh ra Daitya (quỷ). Từ câu chuyện được đề cập ở trong cuốn sách này, rắn như vậy có những liên hệ ‘huyết thống’ với thần linh. Thêm nữa, theo vũ trụ luận của người Ấn, núi Meru là ngọn núi trung tâm của vũ trụ, và là nơi cư trú của Phạm thiên và những thần linh khác, và rắn (nāga) là sinh vật bảo vệ ngọn núi này bằng cách cuốn mình quanh ngọn núi.

Không biết có phải từ nguyên nhân này hay không mà rắn được tôn kínhthờ phụng như một vị thần ở trong Ấn giáo. Ở trong nhiều ngôi đền của Ấn giáo, người ta đã thờ phượng rắn như là một vị thần thực thụ. Và tại nhiều ngôi làng ở Ấn, người ta tôn trí trong nhà những tranh tượng rắn, và thậm chí dâng cúng trứng và sữa cho những tranh tượng rắn này. Người Ấn giáo cũng có lễ hội về rắn thần, tưởng niệm ngày sinh của rắn thần và ngày này được gọi là Nāga Panchami. Rắn cũng trở thành vật gần gũi và thân cận với các vị thần của Ấn giáo. Ví dụ như thần Shiva thường quấn một con rắn ở nơi cổ; còn sàng tọa của thần Krishna lại là một con rắn.

Rắn trong Ấn giáo cũng biểu tượng cho sự tự do, bởi vì nó là một sinh vật được cho là không thể thuần hóa. Nhưng điều này chưa hẳn đã đúng, bởi vì nhiều nơi trên nước Ấn, các đạo sĩ và ngay cả những thường dân, đã ‘thuần hóa’ được rắn. Họ có thể sai bảo rắn huýt gió hay điều khiển rắn múa theo điệu kèn hoặc sáo…. Không rõ là người ta có sử dụng ‘phép thuật’ hay nhưng bí quyết gì để bắt rắn phải phục tùng theo ý muốn của họ như vậy hay không, nhưng rõ ràng là rắn có thể bị thuần phục bởi con người. Người Ấn giáo cũng tin rằng rắn (thần) có thể đem đến tài sản, sức khỏe, hạnh phúc cho con người, và sẽ giúp con người khi họ gặp phải những khó khăn trong đời sống. Nhưng dù rắn thần được xem là sinh vật thiêng liêng, thì sinh vật này vẫn ở dưới sự điều khiển của hai vị thần Shiva và Krishna.

Nơi cư trú của nāga thường được cho là gắn liền với nước, chẳng hạn như dưới đáy sâu của đại dương, sông, hồ… Vì đời sống gắn liền nước, nên nāga cũng biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Và cũng vì là sinh vật gắn liền với nước, nên theo huyền thoại, nāga có thể tạo nên mưa gió.

Tuy nhiên rắn không phải luôn được coi là một sinh vật hiền thiện ở trong Ấn giáo, mà đôi khi cũng bị coi là một sinh vật nguy hiểm. Trong Mahabharata, một thánh điển quan trọng của Ấn giáo, rắn được miêu tả như là một sinh vật hung ác và có khuynh hướng làm hại kẻ khác. Rắn (nāga) cũng có kẻ thù không đội trời chung của nó, đó chính là chim Garuda. Cả Nāga và Garuda có cùng cha là Kashyapa, nhưng do vì sự bội bạc của Kadru, mẹ của Nāga, mà hai sinh vật này trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau.

Trong Phật giáo, rắn (nāga) xuất hiện khá thường xuyên trong kinh điển. Chúng ta có lẽ đều biết đến câu chuyện rắn thần Mucalinda (Muchalinda nāga) đã che mưa bão cho Đức Phật khi Ngài thiền định bên một gốc cây trong những ngày mưa gió. Chuyện kể rằng, vào tuần thứ sáu sau khi giác ngộ, khi Đức Phật đang thiền định bên gốc cây Mucalinda thì mưa to ập xuống và kéo dài trong bảy ngày liền. Ngay khi ấy, một con rắn chúa từ dưới đất bò lên đã che mưa gió cho Ngài bằng cách cuốn bảy vòng quanh mình Ngài và vươn đầu phồng to ra để che ở phía trên, với suy nghĩ: không để Đức Thế Tôn bị mưa lạnh. (Xem thêm Udana 2.1, kinh Mucalinda). Từ câu chuyện này, những người tạc tượng về sau đã tạc hình Đức Phật ở tư thế ngồi thiền, có một con rắn bảy đầu che ở bên trên. Rắn ở đây như là một sinh vật khôn ngoan, biết hộ trì những bậc thánh, và cũng có thể được cảm hóa.

Trong Buddhacarita sagraha sūtra, cũng có kể lại câu chuyện tương tự với câu chuyện trong Udana, nhưng ở đây có thêm một số tình tiết: sau khi Đức Phật giác ngộ bên cội bồ-đề ở Bodhgaya, có một con rắn (nāga) chúa màu đen bò đến đảnh lễ Đức Phật và sau đó thỉnh Ngài viếng thăm nơi cư trú của mình. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu và trú tại nơi của nāga suốt bảy ngày liền. Sau đó Đức Phật quy y cho rắn chúa, truyền cho nó Tam quyNgũ giới. Và rắn chúa này là sinh vật, không thuộc loài người, đầu tiên quy y Tam bảo. Sau đó một rắn chúa khác có tên là Mucilinda viếng thăm Đức Phật và đã che mưa bão cho Ngài trong suốt bảy ngày. Và sau bảy ngày thiền định của Đức Phật và khi mưa gió chấm dứt, rắn chúa này thỉnh mời Ngài đến trú xứ của mình và sau đó quy y Tam bảo.

Nhưng trong kinh điển Pāli, qua những ẩn dụ và những trường hợp cụ thể, rắn cũng cho thấy là một sinh vật có thể gây hại, không hoàn toàn thân thiện và huyền bí. Hẳn nhiên là với những loài rắn độc, nếu không thêm thắt những màu sắc huyền bí, chúng có thể tấn công và gây hại cho ta khi ta vô tình dẫm đạp, hay có hành động tấn công chúng. Kinh Tăng chi có đề cập đến trường hợp một Tỳ-kheo đã bị rắn cắn chết (Tăng chi bộ IV: 67). Và khi biết được vấn đề này, Đức Phật nói rằng nếu vị Tỳ-kheo ấy trải lòng từ đến loài rắn, thì đã không bị con rắn ấy cắn chết. Và lòng từ, theo bài kinh này, là phương cách ngăn chặn các loài rắn, cũng như những ác thú khác, làm hại.

Trong kinh sách, rắn cũng được đem ra làm ẩn dụ cho việc đọc, hiểu và thực hành kinh điển. Một người học giáo pháp với mục đích khoái khẩu biện luận, để chỉ trích người khác, không học pháp với mục đích tu tập cho việc giác ngộ giải thoát, thì người này được coi là bắt rắn ở lưng hay ở đuôi, có thể bị con rắn đó quay lại cắn. Tức muốn nói rằng, một người học pháp với mục đích như vậy thì chỉ tạo thêm khổ đau mà không được ích lợi gì. Còn người học pháp khôngmục đích khoái khẩu biện luận hay chỉ trích người khác, mà học pháp với mục đích áp dụng tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát, thì người này được cho là đang bắt rắn nơi cổ, không bị rắn gây hại (Xem Trung bộ, kinh Ví dụ con rắn, số 22).

Trong Phật giáo, rắn (nāga) đôi khi được mô tả như là một sinh vật có tâm hộ trì kinh sách. Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, kinh Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà Đức Phật thuyết trên núi Linh Thứu đã được nāga (thường được dịch là rồng, hơn là rắn) lưu giữ ở dưới Long cung (nāgarāja). Và về sau Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) đã xuống Long cung để mang những kinh sách này lên cho loài người.

Ấn Độ, một vài nơi chốn linh thiêng đôi khi được cho là nơi có nāga cư ngụ. Trong Đại đường tây vực ký, khi nói về Đại học Nalanda, ngài Huyền Trang cho rằng tại khu vực Đại học Nalanda tọa lạc, trước đó có một hồ nước và có một con rồng/rắn (nāga) chúa tên là Nalanda sống, nên ngôi tự viện được xây dựng ở đây đã được đặt tên theo tên con rồng/rắn này. Và về sau, ngôi tự viện này đã trở thành một trung tâm học thuật nổi tiếng của Phật giáo đó là Đại học Nalanda.

Xa hơn nữa, nāga cũng được phân chia thành năm ‘đẳng cấp’ tương ứng với năm đẳng cấp: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya (chiến sĩ), Vaishya (thương nhân), Shudra (lao động chân tay), và Chandali (thành phần cùng đinh). Tuy nhiên, qua các tài liệu mà tôi đọc được, đã không thấy đề cập đến những loại rắn nào tương ứng với đẳng cấp Bà-la-môn, và những loài nào tương ứng với đẳng cấp Thủ-đà-la… Trong Tăng chi bộ (IV: 67) ta thấy có đề cập đến bốn loại rắn chúa, đó là: Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, và Gotamaka. Và trong Trường bộ, kinh Ðại hội (Maha-samaya Sutta, kinh số 20), Virupakkha được cho là ‘Chúa tể loài Nāga’, tức là vua của các loài rắn.

Như vậy, từ những gì được trình bày ở trên, ta thấy hình ảnh của rắn được con người thể hiện khá sinh động. Rắn vừa là một sinh vật ít nhiều gây cho con người sự sợ hãi bởi nòng độc của nó, nhưng cũng vừa là một sinh vật gắn liền với những huyền thoại, và lắm khi được gán cho là sinh vật biết tu luyện. Rắn đôi khi còn được phong ‘thần’ và trở thành rắn thần, và mỗi khi trở thành ‘thần’ thì hẳn nhiên sẽ trở thành đối tượng thờ bái của một số người.

Nghiệp Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14926)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15727)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14868)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15849)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20775)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 12973)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12642)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 14959)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 16521)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 12607)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15580)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15493)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14757)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15611)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 11762)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12579)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13476)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12464)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 11966)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12736)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11617)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13734)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14099)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12910)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12741)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13008)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13609)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12444)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14432)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13288)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13758)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14627)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28283)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11782)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12642)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15057)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12004)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11761)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12854)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11972)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11519)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10280)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11160)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10960)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11198)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11249)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14237)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12483)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 11704)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29259)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 10790)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11092)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10763)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11325)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10773)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12240)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11294)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10054)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant