Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11851)
Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản

của Đức Thế Tôn

 

Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian hết 2011 năm dương lịch, đi xa hơn nữa 624 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Ca Tỳ La Vệ tức Ấn Độ bây giờ. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
 
Người từ cõi trời Đâu Suất, thị hiện giáng trần, ban ra Thông Điệp Vô ThượngKhai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”, khai sáng Đạo Từ Bi cứu khổ chúng sinh, thông lộ thanh lương cho phàm nhân lên đường Tứ Thánh.
 
Người đã ban Thông Điệp nhân bản hòa bình cho nhân loại: “Không có hận thù khi nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp khi dòng máu cùng đỏ. Không có tranh chấp giết hại lẫn nhau khi mọi loài đều cần có sự sống và tôn trọng sự sống”. Người đã vạch ra tiêu chí chỉ hướng vươn lên: “Cội nguồn của khổ đau là tham lam, sân hận, si mê. Căn nguyên của oán cừu là ngã mạn, tranh đoạt, cửa quyền, hiếp đáp. Gốc rễ của bất anthủ thế, gườm nhau, cưỡng chiếm, đáp trả, hơn thua”. Người đã hoằng dương Đạo lý Giác ngộ, Giải thoát: “Chúng sanh vốn trầm luân trong biển khổ, lặn hụp trong căn nhà lửa Tam thế, xoay quần trong lục đạo luân hồi, mê lầm với bóng tối thâm u, đắm say với mộng huyễn bào ảnh, chưa biết và không có ánh sáng để đi”.
 
Người đi trước, dẫn đường và làm hướng đạo sư. Vàng bạc, châu báu, giàu có, nhung lụa ư ! Ai đầy đủ hơn, sung túc hơn được sống và thừa hưởng cung vàng điện ngọc ? Ai quyền uy hơn, cửu trụ hơn sẽ kế nghiệp Phụ Hoàng trị vì thiên hạ, đứng trên thiên hạ với thần dân quốc thích ? Ai đẹp hơn trên trần gian, một Công chúa Gia Du sắc nước hương trời “Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa, Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình”, với hàng trăm hoa hậu tuyển chọn cho cung đình, với hàng ngàn mỹ nữ phục vụ cúc cung, yến tiệc linh đình, sơn hào hải vị, nhạc hội tháng năm.
 
Sinh thì Người đã biết rồi, duy nhất chỉ riêng Người mới bước đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa hoa sen, bước cuối cùng đứng lại, tay đưa lên trời, tay chỉ xuống đất, dõng dạc nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chứ tất cả những ai chào đời đều “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì?”.
 
Cuộc ngoạn du ra bốn cửa thành, nhìn thấy bốn cảnh Già, Bịnh, Chết, một đạo sĩ, chính là tuyệt lộ. Tuyệt lộ dẫn đến tử lộ - chấm dứt mọi đắm lụy của nhân gian, chặt đứt mọi hệ lụy của trần gian mà con người nói riêng, chúng sinh nói chung, lặn hụp trầm luân mãi trong ba đường sáu nẻo từ vô thỉ đến nay, và di họa đến vô chung.
 
Cửa Thành phía Đông, kia là ai, sao lại nhăn nheo, lưng còm, tóc bạc, run rẩy, mắt mờ, tai điếc, lú lẫn, lãng quên ? Đó là một con người nhưng là người già! Ai mà gọi là thọ mới sống được như thế, nếu bằng không thì chết từ trong bụng mẹ, chết mới ra đời, chết lúc còn nhỏ thanh thiếu niên “Ngoài kia lắm mộ tuổi còn xanh”, chết thuở trung niên. Kiếp phù sinh dễ có mấy ai “thất thập cổ lai hy”? Sống sót lắm mới như thế kia, rồi từ lão niên lão giả, lòm khòm, lụ khụ, ngơ ngơ ngáo ngáo, khi quên khi nhớ, nói chẳng ra câu, mở miệng không lời, “Lợi còn không có nói chi răng, Sống trơ trơ biết chi ăn uống”, thế giới con người chập chờn cửa tử đọng lại mới ghi vào sách gọi là kỷ lục.
 
Cửa Thành phía Tây, kia là ai, sao lại đau đớn, nhăn nhó, rên la thảm thiết, có khi quằn quại cực hình, có khi nằm yên thở dốc? Cái mặc thì áo quần xốc xếch, mền chăn gối nệm bùi nhùi. Cái ăn không thèm ngó dù mỹ vị cao sang, mới hôm nào ngày ba bữa dư thừa vẫn kêu đói bụng. Uống ráng lắm từng hớp cầm chừng. Nhà cửa cũng lắc đầu. Vàng bạc cũng bảo thôi. Dục lạc ái ố không thèm ngó tới. Ruồi bu, muỗi đậu đuổi không xong. Nước miếng, mũi dãi nhểu nhảo lều bều… Xin lỗi, ngay cái đại cái tiện đổ bừa trên cái bô bên cạnh, nửa trong nửa ngoài nhơ nhớp tanh hôi. Đầu tóc bù xù rối bời chẳng cần chải chuốt, hai mắt lờ đờ không muốn khép mở, chân tay dở lên dở xuống không nổi, nói năng thì thào chẳng nên tiếng nên lời. Đó là cái bịnh, mà phải bịnh chí tử, bịnh trầm kha, bịnh thứ thiệt mới được. Đừng vội chê cười đánh giá hay bỡn cợt đãi bôi, nên nhớ ở đời ai không bịnh, khi bịnh rồi mới biết!
 
Cửa Thành phía Nam, kia là ai, sao lại cứng đờ, mắt nhắm nghiền, miệng ngậm câm, tay chân co quắp, không cục cựa, không nhúc nhích? Một nhúm người lại khóc lóc, kêu ca, đầu chít tang trắng, trên bàn có một di ảnh, một bát nhang, khói hương lan tỏa, một mâm cơm với một chén có vài miếng thức ăn gắp để sẵn, cắm đôi đũa lên đó. Rồi dâng trà lần 1, lần 2, lần 3, lại có tiếng ê a cầu nguyện, lễ tạ nhị bái, tam bái, người này chia buồn, người nọ phân ưu, nhìn nhau ngấn lệ? Đó là một con người đã chết! Đã có sinh thì phải có tử, không ai ngoại lệ, không ai thoát khỏi. Hết sống nổi thì phải chết, và nên nhớ rằng, lằn ranh sống chết không xa, không dài, không lâu, chỉ từng hơi thở! Tấm thân kia trả về cát bụi, con người kia chuyển hóa vô thường. Kiếp nhân sinh ngắn ngủi và trần gian chỉ là quán trọ phù du.
 
Cửa Thành phía Bắc, còn kia là ai, sao ăn mặc khác người, tư thái thong dong, phong cách tự tại, thoát ra vẻ thanh bạch, thánh thiện, an nhiên? Hỏi ra, người ấy không nhà không cửa, không vợ không con, không tiền không bạc, áo quần một bộ, gia tài một túi vắt vai. Thật vỏn vẹn, đơn sơ, thanh bần. Cái gì người ấy cũng không có mà cái có của người ấy khó tìm trên thế gian. Được đáp, ông ta là Đạo sĩ. Đạo sĩ là gì? Ai biết đạo, hiểu đạo, sống với đạo, trả lời rất dễ. Ai không biết đạo, mơ hồ về đạo, nghi hoặc cho đạo, giải bày nhiều cách cũng khó thông. Thì ra, Đạo là thế à!
 
Người đã quyết chí xuất gia tầm đạo. Vào một đêm kia, Mồng 8 Tháng 2 Âm lịch, Người âm thầm từ tạ Phụ Hoàng, từ biệt thê nhi, lìa bỏ hoàng cung, vượt hoàng thành, khi đến dòng sông A Nô Ma, nói với hầu cận Sa Nặc, đưa đến đây đủ rồi, hãy lui về, mang mái tóc xuân xanh, nhung bào, kiếm báu về trao lại Phụ Thân, thưa dùm ta rằng: “Ta chỉ trở về khi tầm ra Đạo, ngược lại, bằng không, xem như ta không có mặt trên thế gian này”. “Ngài ra đi vì chúng sanh, Ra đi nguyền đem cho đời bao vui sướng, Ra đi giải thoát luân hồi cho chúng sanh”.
 
Sáu năm trường giữa núi rừng Hy Mã, trùng trùng tuyết phủ, tắm gội gió sương, thời thọ thực mỗi ngày là vài hạt mè và vài cọng lá rừng, tận dụng mọi thời gian cho khổ hạnh, tham thiền, nhập định. Quần áo duy nhất một mảnh y vàng. Ngày thời chim hót, đêm tiếng thú vang. Ôi, hình ảnh của đạo sĩ Tất Đạt - bộ da bọc xương cách trí, thân hình kiệt lực tiều tụy, duy chỉ đôi mắt thâm sâu sáng quắc, duy chỉ nghị lực siêu tuyệt vô song, biểu hiện đức tính phi thường của một bậc thiên thượng thiên hạ duy ngã Thế Tôn, trầm tư một cái gì cao tột siêu xuất chưa liễu ngộ bản lai diện mục ? Cơ chừng nó chập chờn đâu đó, đến rồi đi, đi rồi đến, như con đom đóm lập lòe chưa đủ sức phá tan bóng tối, như thanh âm nhỏ bé chưa đủ sức làm tan vỡ hư vô, thượng thông thiên đường hạ triệt địa phủ, như tiếng sóng rì rào chưa đánh động trùng dương biển lộng!
 
Do đó, Người từ bỏ lối tu khổ hạnh, giai đoạn ban đầu ắt có và cần đủ khổ luyện, đúc rèn chuẩn mực, làm kim chỉ nam định hướng hành trình, vẽ bản đồ thiên la địa võng đạt ngộ, nhưng muốn đi tới đích, phải có sức của thân, lực của tâm, thần của trí. Không thể có sức lực trên tấm thân tiều tụy! Không thể có sáng suốt khi tâm trí hệ lụy cơ thể suy vi! Chao ôi, nhờ miếng sữa biếu tặng của cô bé chăn cừu Tu Xà Đề, còn hơn thần linh y dược, làm cho Người hồi phục khỏe khoắn lạ thường. Cảm ơn nghe thành phần nghèo khổ bần cùng trong xã hội, nghèo vật chất nhưng không nghèo tinh thần, nghèo miếng cơm manh áo nhưng không nghèo tấm lòng biết trân quý tình thương sự sống. Trong cuộc đời, nhiều lúc nghèo làm được mà giàu không làm được, nhiều khi giàu làm được mà nghèo không làm được, và biết đâu người giàu cần phải học cái chơn chất, trong sạch, thanh cao, thánh thiện của người nghèo!
 
Sau khi thọ dụng bát sữa xong, tìm đến một chỗ kia, dưới cội cây Tất Bát La cổ thụ, lá tròn đầy xanh mượt, cành vững chải vươn cao, dọc theo triền núi điệp trùng, bên cạnh dòng sông Ni Liên thì thầm muôn thuở. Người ngẫm nghĩ, có lẽ không đâu thích hợp hơn nơi này, không đâu an định hơn vị thế nơi đây. Bèn kết cỏ làm bồ đoàn, đặt sát gốc cây, sau lưng là núi rừng, trước mặt là dòng sông. Người tự phát đại thệ nguyện: “Nếu không tầm ra Đạo, không chứng đắc, không liễu ngộ, thì dù cho thịt có nát, xương có tan, ta cũng quyết không rời bỏ chỗ này”. Và Người buông tất cả, an tọa kiết già, sâu vào thiền định.
 
Ngày một, Người vẫn ngồi yên. Ngày hai không nhúc nhích. Ngày ba không động đậy. Cho tới tuần 1, tuần 2, tuần 3, vẫn cứ thế, bất động, không lay. Bên ngoài, lục trần im bặt thanh âm, đối cảnh. Bên trong, lục căn trong vắt an tịnh pha lê. Núi rừng im tiếng gió. Dòng sông lặng nước reo. Chim không nghe tiếng hót. Thú không nghe tiếng vang. Không gian như ngưng đọng. Thời gian như ngừng trôi. Đến một đêm cuối của tuần “thất thất”, canh một, canh hai, canh ba, bỗng lục thông tuần tự hiển bày, chân như hiển lộ, mặt mũi thật của con người, của nhân sinh, vũ trụ được khai ngộ tinh tường. Cái gọi là trùng trùng vốn không diệt không sinh. Cái gọi là bản lai vốn không còn không mất. Cái gọi là vạn hữu càn khôn vốn không đục không trong không tăng không giảm. Đó là Phật tánh chơn thường vi diệu hằng nhiên. Không phải chỉ riêng Người mà ai ai cũng có, nên Người dõng dạc Thông Điệp “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Người đã chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vô thượng chánh đẳng bồ đề. Nơi người ngồi gọi là Bồ đề tọa, cây Bát La gọi là cây Bồ Đề, Đạo của Người hoằng dương gọi là Đạo Giác Ngộ.
 
Tuyệt trần thay, tuyệt thế thay Đạo sĩ Tất Đạt Đa! Nếu là người thường, đời thường, với cương vị Đông cung Thái Tử, với vợ đẹp con ngoan, với cung vàng điện ngọc, với mọi sắc màu dục lạc tột đỉnh của trần gian, không phải Tất Đạt Đa thì kim cổ nào ai làm được ? Nếu Người cũng như bao nhiêu vị Thái tử khác trên thế gian, tận hưởng mọi nhung lụa sang giàu, ngất ngưởng cương vị vua chúa lộng lẫy quyền uy, rồi hoàng hậu hoàng phi với muôn ngàn cung tần mỹ nữ, khi thời đại biến chuyển hưng phế thịnh suy, dù có ra sao cũng phải tử vong gọi là băng hà. Và Người cũng đã biệt tăm biệt tích như hàng bao nhiêu Thái tử khác, hay hàng vô số vua chúa khác, đã từ 2,600 năm trước.
 
Nhưng Người thì không. Người mãi mãi là đấng Như Lai, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người mãi mãiTa Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Người mãi mãi là Đức Từ Bi hiện hữu vô cùng cho chúng sinh biết thương yêu, tôn trọng sự sống. Người mãi mãi là ngọn đuốc trí tuệ sáng ngời cho chúng sanh biết nẻo mà đi. Người mãi mãiHiện tại Trang nghiêm vương Phật, nối kết Qúa khứ thiên ức Phật, hoằng truyền Vị lai thiên ức Phật mà Đức Di Lặc Từ Tôn sẽ đăng tòa Long Hoa Pháp Hội 16 triệu năm sau.
 
Hình ảnh nào đáng quý hơn, đáng tôn thờ hơn, đáng nêu gương hơn. Một bậc Giáo Chủ cõi Ta Bà, một bậc Thầy của thiên nhơn, một đấng Cha Lành chung bốn loại, mà cái mặc vẫn chỉ có 3 Y, cái ăn vẫn ngày ngày Khất thực, đầu trần chân đất như bao đệ tử khác, ngủ nghỉ trên cái đơn gỗ mộc như thất chúng đệ tử. Ôi dung dị vô biên! Ôi chơn chất vô thượng! Hình ảnh đó sao không học mà lại “Trưởng giả học làm sang”, được một chút gì đã cố quên chối bỏ cái nghèo khó thuở cơ hàn, xa lánh tương lân dòng họ!
 
Người là bậc Thầy tuyệt thế bất nhị, ròng rã 45 năm trường hoằng khai Tam Tạng kinh điển, ba rừng giáo lý thượng thừa, mà 26 thế kỷ qua, chưa ai đã từng đọc hết, chưa ai đã từng xem xong, cho đến thế kỷ “văn minh” hai mươi mốt, với hệ vi tính công nghiệp điện tử toàn cầu, vẫn mò mẫm chưa thông.
 
Thế giới văn minh nhân loại hôm nay, nào Bác học tuyệt siêu, nào Khoa học tuyệt đỉnh, nào Y học tinh hoa, cơ sở Thiên văn, Viễn vọng, cơ quan khám phá không gian, nhân - vật - trí - lực cùng đầu tư, cùng đổ ra. Tuy nhiên, bịnh nan y vẫn bó tay chưa nói đến bịnh đột biến phát sinh dịch nhiễm, phi thuyền không gian tạm viếng Mặt Trăng, dò dẫm Hỏa tinh, chưa tới Kim tinh, nói chi qua khỏi Thái dương hệ. Rồi hiện tượng Đĩa bay, Người ngoài không gian vẫn bí ẩn, mê hoặc. Thế giới hữu hình, siêu hình như chuyện cổ tích, thần thoại, dù bao nhiêu nhà nghiên cứu, học giả tìm tòi, viết lách, và nghệ thuật phim ảnh diễn dịch mơ hồ. Trong khi Người, 26 thế kỷ trước đã nói: “nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”, “hằng hà sa số thế giới”. Mỗi thời Kinh giảng của Người, không những chỉ Thập đại đệ tử, 1,250 vị đệ tử lớn, 7 lớp đệ tử xuất gia tại gia nghe, mà còn vô số Chư Thiên rải hoa cúng dường thính pháp, cho đến vô số Ma vương, Đại ma vương nhiếp phục phụng hành.
 
Ngày Phật Đản 2635 năm nay, dương lịch 2011, âm lịch Tân Mão niên, Phật lịch 2555 năm, vốn đã từng năm, từng năm kéo dài hơn 25 thế kỷ, với Tổ Tổ truyền thừa, Tăng Già chấn tích trùng quang, khoảng ¼ dân số thế giới quy ngưỡng tri hành, khắp mọi quốc gia dân tộc vượt qua biên cương ranh giới.
 
Bản thân chúng tôi đón nhận, chứ thật sự không mừng lắm dù Liên Hiệp Quốc công nhận Ngày Khánh Đản của Đức Thế Tôn trở thành Ngày Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc vào năm 1999. Cái nhìn của chúng tôi, quá chậm. Cái đánh giá của chúng tôi, quá yếu. Chậm, bởi Đạo Phật đã hiện hữu 2600 năm qua, sau vài Tôn giáo cổ đại, nhưng trước nhiều Tôn giáo sau này. Yếu, bởi công nhận Ngày Lễ Quốc Tế mà sao không Nghỉ Lễ có tính quốc tế. Và cảm thấy kỳ kỳ, những quốc gia Phật Giáo lâu đời, tín đồ Phật Giáo đa số, không Nghỉ Lễ của Phật Giáo mà lại Nghỉ Lễ tôn giáo khác với thời gian có mặt ít hơn, tín đồ thiểu số. Hy vọng một ngày không xa, Liên Hiệp Quốc phải thực hiện cho bằng được mỗi tôn giáo lớn trên trái đất này phải có Ngày Lễ Chính của họ và được Nghỉ Lễ trên toàn thế giới, không cá biệt bất cứ tôn giáo nào, bởi mỗi tôn giáo đều chỉ hướng cho đời, mỗi tôn giáo đều an tĩnh tâm linh. Đây, có thể là bàn đạp san bằng hệ lụy dị biệt, cách ngăn, tỵ hiềm để con người được gần nhau hơn, nhân loại tin yêu nhau hơn.
 
Vô tình năm nay chúng tôi có nhận và đọc Thông Điệp Phật Đản của Ông Ban Ki Moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc “…cốt lõi của nó là vấn nạn về khổ đau của nhân loại mà chính Đức Phật đã nhìn thấy và nhấn mạnh cách đây hơn 2,500 năm” ; “Lời khai thị của Ngài…khơi dậy những cuộc hội đàm đa phương” ; “Rất nhiều tổ chức Phật Giáo đang thực hành giáo pháp của Đức Phật. Tôi vô cùng cảm ơn sự ủng hộ của họ đối với những hoạt động của Liên Hiệp Quốc nhằm đạt được Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ” ; “…tôi hy vọng tất cả mọi người có thể dựa vào những lời dạy có giá trị phổ quát trong Đạo Phật để hành động trong tình đoàn kết với những người đang đau khổ, để góp phần tạo nên một thế giới nhiều tình thương yêu hơn, nhiều sự tỉnh giác hơn cho tất cả chúng ta”.
 
Lại thêm Thông Điệp gởi đến Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc của Bà Irina Bokova, Giám đốc UNESCO. Rằng “Nhân Đại lễ Vesak lần thứ 8, tôi muốn bày tỏ lời chúc chân thành và nồng hậu nhất đến tất cả mọi Phật tử trên khắp thế giới” ; “…thúc đẩy sự đối thoại giữa các nền văn hóa, tôn giáo, và giữa mọi người với nhau trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để xóa đi sự hiểu lầm, để nâng cao kiến thứcthắt chặt mối quan hệ cộng tác với nhau” ; “Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã được thành lập nhằm góp phần tạo dựng nền hòa bình lâu dài, bền vững, thông qua sự hợp tác về giáo dục, khoa học, văn hóa, giáo tiếp và thông tin”; “Tầm quan trọng của Hội thảo lần này (tại Đại Lễ Phật Đản) chính là ở đây”.
 
Cái nhìn của chúng tôi, có một sự kỳ thú qua hai Thông Điệp này.
 
Vâng, họ cũng là hai con người, nhưng khác người thường, nên Lời Chúc Tụng của họ mới gọi là Thông Điệp. Một - của người đàn ông, hay nam giới, nam tử - giữ trọng nhiệm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Một - của người đàn bà, hay nữ giới, nữ lưu - nắm cương vị Giám đốc Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên Hiệp Quốc. Ông Ban Ki Moon người Châu Á , Bà Irina Bokova người Châu Âu - tượng trưng cho Đông PhươngTây Phương, cho Da Màu – Da Trắng. Đông – Tây đã gặp nhau. Da Màu – Da Trắng đã gặp nhau.
 
Vâng, Đức Phật Thích Ca Giáo chủ cõi Ta Bà đã nói: “Không có hận thù khi dòng máu cùng đỏ. Không có ngăn cách khi nước mắt cùng mặn. Tâm bình thế giới bình. Hận thù không tiêu diệt được hận thù mà chỉ có Từ bi mới xóa sạch được hận thù”.
 
Vâng, ý nghĩa siêu tuyệt của Đạo Phật, rằng: người có Đông Tây Nam Bắc nhưng Phật tánh không có Nam Bắc Đông Tây, màu da có trắng đen vàng đỏ nhưng Phật tâm đồng đẳng không màu. Nhân loại nhiều chủng tộc quốc gia trên năm châu bốn biển, nhưng lương tri hòa điệu giai tầng, tình người hòa chung sự sống.
 
Vâng, nếu các quốc gialiệt cường hay chậm tiến mà không chạy đua theo bạo lực, vũ khí, hạt nhân, nguyên tử, quốc phòng, mà dùng mọi nhân - tài - vật - lực cho con người, cho sự sống, thì hòa bình thế giới tự nhiên có mặt, mọi bất ổn khu vực, liên quốc, đa quốc hay chiến tranh lạnh chiến tranh nóng tự nhiên triệt tiêu. Hơn nữa, các ngân khoản phí tổn khổng lồ bạch hóa hay úp mở ấy, thiết nghĩ sẽ đủ và dư để san lấp hố thẳm giàu – nghèo, để hàn gắn vết tích tang thương xây dựng lại những thiên tai đã, đang và sẽ liên tục liên hoàn xảy ra mọi nơi mọi lúc.
 
Cuộc đời, sự sống, hành xử, đối đãi, tin yêu, tôn trọng, Đức Phật đã ban Thông Điệp diễm tuyệt muôn đời.
 
Xã hội, thế giới, nhân loại, nhân sinh, đạo đức, nhân bản, Đức Phật đã ban Thông Điệp tuyệt thế muôn năm.
 
Không những Ngài chỉ ban Thông Điệp của Tình Thương, Sự Sống, mà Ngài còn ban Thông Điệp hết khổ đau, sống an lành, giải quyết được Sinh, Già, Bịnh, Chết, dung thông Tứ Thánh Lục Phàm, mở rộng Sáu Đường Ba Cõi, và phổ nhiếp càn khôn vũ trụ vô lượng hằng hà sa số thế giới.
 
Thật vinh hạnh cho những ai làm người con Đức Phật, ân đức cao dày mới được làm đệ tử của Đức Từ Bi, căn duyên gốc rễ nhiều đời mới tựu thành Trưởng tử Như Lai trên hành trình giác ngộ, cứu nhân độ thế, chuyển hóa quần sanh, nhập lưu Thánh Chúng.
 
Hỡi nhân loại và hỡi chúng sanh! Thân người dễ gì có được. Phật Pháp dễ gì sẽ gặp. Đạo Pháp dễ gì mới nghe. Phật Đạo dễ gì mới thành.
 
Phật Đản quý vị đã biết rồi. Đạo Phật quý vị đã nghe rồi. Chần chừ gì nữa. Sang giàu và nghèo hèn ư! Quyền uy và bạo lực ư! Chiến tranh và thù hận ư! Chủng tộc và màu da ư! Địa bàn và giới tuyến ư! Gia tàisự nghiệp ư! Tài sắc danh thực thùy ư!
 
Nghĩa địa đã chật mồ. Hồn ma luôn vất vưởng. Khói lạnh đống tro tàn. Sống và Chết không có lằn ranh. Nghìn thu và Thiên cổ đợi chờ. “Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nắm cỏ khâu ranh rì”, hoặc “Một hũ cốt xương mờ dấu tích, Bóng hình ai nhòa nhạt phôi pha, Cuộc đời tựa giọt sương sa, Nắng tan đâu mất la đà về đâu, Mau mau tỉnh ngộ qui đầu, Phật Đà vô thượng nhiệm mầu đẹp thay”.
 
Dâng lên cúng dường, ngưỡng phục hồi quy, quay đầu bỉ ngạn, chính là Thông Điệp của Sự Sống và Thông Điệp Phật Đản muôn đời.
 
Hướng về Phật Đản là hướng về sự thanh cao minh triết thường hằng. Từng thời kỳ thời đại sẽ qua đi, từng chủ thuyết chủ nghĩa sẽ xếp theo trang lịch sử, nhưng Thông Điệp của Tình Thương của Trí Tuệ của An Lành Giải Thoát miên viễn mọi không thời bất di bất dịch, sẽ góp phần rất lớn, sẽ là nền tảng vững chắc, và là chỉ hướng tuyệt siêu, không những cho Thiên Niên Kỷ 3,000 mà còn vĩnh trụ thiên thu
 
Viết cho Ngày Phật Đản 2635 - Phật lịch 2555,
Âm lịch Rằm Tháng Tư năm Tân Mão,
Dương lịch 17 tháng 5 năm 2011
 
TNT Mặc Giang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12032)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12857)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11934)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10689)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11352)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11647)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10852)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10782)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10363)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10472)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10698)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10623)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11902)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10684)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10794)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11374)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11087)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11619)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10507)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11246)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12293)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11149)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12485)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11412)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11496)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11286)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12987)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14154)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10999)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11858)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13149)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11560)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11405)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10916)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11272)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10801)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11052)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10871)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10238)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17100)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10994)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10858)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10402)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10745)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11379)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11067)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10565)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11371)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10346)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10653)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12757)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 11380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11543)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13532)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14121)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10297)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10765)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant