Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thơ Kệ Tổ Sư Liễu Quán

08 Tháng Ba 201400:00(Xem: 12947)
Thơ Kệ Tổ Sư Liễu Quán


THƠ KỆ TỔ SƯ LIỄU QUÁN (1667 – 1742) 

Thích Liễu Nguyên (thi hóa)

to_lieu_quan

Ảnh: Tổ Sư Thiệt Diệu – Liễu Quán
(1667 – 1742)

 

THÂN THẾ

Phú Yên, Bạch Mã, Đồng Xuân
Địa linh, đất ấy đã sanh Thánh hiền
Vào nămĐinh Mùi (1667) thiện duyên
Thánh nhân Thiệt Diệu sanh tiền họ Lê.

Lúc lên sáu tuổi ở quê
Mẹ hiền quá vãng, muôn bề nhớ thương
Thấy rỏ, vạn pháp vô thường
Xuất trần thượng sĩ, rộng đường tiến tu.

 

XUẤT GIA

Theo cha học đạo Tổ sư (lúc 12 tuổi)
Tế Viên Hòa thượng, ở chùa Hội Tông
Sau ra cầu pháp Giác Phong
Hàm Long, Báo Quốc, đằng Trong kinh thành.

 

BÁO HIẾU

Theo chân Lão Tổ tu hành
Năm sau (1691) thân phụ bệnh đành về quê
Phụng dưỡng thân phụ ở quê
Ngày ngày gánh củi miền quê qua ngày.

Bốn năm báo hiếu tháng ngày
Đến khi thân phụ sanh ngày Lạc Bang
Một thân, một bóng phương ngàn
Trèo đèo vượt suối trở về Huế (1695) đô.

 

THỌ GIỚI

Nhằm năm Đinh Sửu (1697) Kinh Đô
Thọ Cụ Túc Giới ở chùa Từ Lâm
Thạchh Liêm Lão Tổ quang lâm
Đàn đầu hòa thượng truyền tâm giới điều.

Từ đây thân y giới điều
Vân du vấn đạo ở nhiều bốn phương.
Năm Nhâm Ngọ (1702) tại Long Sơn.
Tử Dung tryền ấn Tâm ngời Tuệ soi.

ĐẮC PHÁP
Ý: TổTử Dung & Tổ Liễu Quán
Thơ: Liễu Nguyên

Kỷ mão (1699) đi khắp đó đây
Tìm thầy học đạo thoát ngay luân hồi.
Năm Nhâm Ngọ (1702) gặp Thầy rồi.
Tử Dung hòa thượng, đổi đời từ đây.

Tử Dung hỏi chổ hiển bày
“Muôn pháp về một, một về nơi đâu?”
Hãy luôn tu quán thật sau
Thì ngươi thấy rỏ trước sau ngọn ngành.

Vâng lời Tổ ấn tu hành
Bao năm khổ quán chẳng thành ,thẹnđau
Truyền Đăng Lục đọc đến câu
“Chỉ vật truyền Tâm, nhân bất hội xứ”

Nghĩa rằng ứng vậttỏ Tâm
Chẳng ai hiểu thấu khi Tâm rỏvật
Tâm ngộ pháp lạc, tịnh mật
Muốn mang pháp chứng cẩn bạch Tử Dung.

Nhưng vì cách trở muôn trùng
Đến năm Mậu tý (1708) mới cùng tổ xem
Tử Dung hoan hỷ xét xem
Sau rồi Tổ dạy cho thêm pháp mầu.

Tử Dung hỏi tiếp mấy câu
“Bờ thắm buôn tay, một mình cam chịu”
Tiếp tục Tử Dung dắt chìu
“Chết rồi sống lại, chê mình ai dám?”

Liễu Quán! vổ tay! trình đáp:
Trái cân là sắt,hợp pháp chưa thầy?
Tu Dung đám lại chưa đầy
Hôm sau gọi lại Tổ bày hỏi thêm.

Hôm qua việc vẫn chưa êm
Hôm nay Ngươi hãy trình thêm rỏ ràng
Biết đèn là lữa,đằng đằng
Cơm chín từ lâu , thưa rằng được chưa?

Nghe xong lời kệ trình thưa
Tử Dung hoan hỷquá ưa, gật đầu
Nhâm thìn (1712) vào hạ không lâu
Quảng Nam, lễ hội cùng nhau tắm Phật.

Tử Dung hỏi Sư ý Phật
“Phật Phật truyền nhau, Tổ Tổ truyền trao”
“Chẳng biết truyền nhau cái gì?”
Nghe lời tổ hỏi những gì, Sư thưa.

Liễu Quán cung kính thưa Ngài
Búp măng mộc trên đá dài muôn trượng
Chưa hết Sư tiếp khiêm nhường
Mai rùa long mọc nặng nhường ba cân

Tử Dungđáp lạiân cần
Ngựa đua dưới nước thuyền vần trên non
Nghe lời Tổ dạy sắt son
Liễu Quán đáp lại, Con còn mấy câu.

Đứt dây,đàn vọng đêm thâu
Gãy sừng trâu rống thâu đêm chốn cùng
Nghe xong tổ thấy ung dung
Từ nay Pháp Phật dung dung tổ truyền.

 

NGUYÊN TÁC

Nhâm Ngọ (1702) Minh Hoàng Tử Dung dạy Sư quán yếu chỉ sau:

Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)

Gần 8 năm tham cứu mà chưa lãnh hội, trong lòng Sư tự lấy làm hổ thẹn [7]. Một hôm, nhân đọc sách Truyền Đăng Lục đến câu:

Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ (Chỉ vật truyền tâm, người không hiểu rõ được)”, thoạt nhiên Sư tỏ ngộ được yếu chỉ của Thiền.Vì núi sông cách trở, Sư chưa thể đến đến trình kệ với Tổ Tử Dung được.

Mãi đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), 42 tuổi, Sư Liễu Quán lại trở ra chùa Ấn Tôn (Từ Đàm – Huế) cầu Thiền sư Tử Dung ấn chứng.

Sư đem hiểu biết của mình trình bày ra, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thì nghe Thiền sư đọc:

Huyền nhai tán thủ,

tự khẳng thừa đương,

Tuyệt hậu tái tô,

khi quân bất đắc

(Hố thẳm buông tay,

Một mình cam chịu

Chết rồi sống lại,

Ai dám chê mình ?)”

Minh Hoằng Tử Dung: Vậy là thế nào, nói nghe?

Thiệt Diệu Liễu Quán: Không đáp, chỉ vỗ tay cười ha ha.

Minh Hoằng Tử Dung: Chưa phải.

Thiệt Diệu Liễu Quán: Bình thùy nguyên thị thiết (Trái cân vốn là sắt).

Minh Hoằng Tử Dung: Chưa nhằm.

Minh Hoằng Tử Dung: Hôm qua việc đã chưa xong, nói lại xem!

Thiệt Diệu Liễu Quán:

 

Tảo tri đăng thị hỏa,

Thực thục dĩ đa thì!

(Sớm biết đèn là lửa,

Cơm chín đã lâu rồi!)”

Minh Hoằng Tử Dung: Thầm khen gật đầu.

Mùa hạ,Nhâm Thìn (1712), Thiền sư Tử Dung vào Quảng Nam dự lễ "Toàn viện" (theo văn bia). Nhân đó, Sư Liễu Quán đem trình bài kệ "Dục Phật" (Tắm Phật). Minh Hoằng Tử Dung hỏi:

Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật truyền nhau; chẳng hay truyền trao nhau cái gì?

Thiệt Diệu Liễu Quán:

Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,

Quy mao phủ phất trọng tam cân.

(Búp măng trên đá dài một trượng,

Cây chổi lông rùa nặng ba cân)”

Minh Hoằng Tử Dung:

Cao cao sơn thượng hành thuyền

Thâm thâm hải để tẩu mã.

(Chèo thuyền trên núi cao,

Phi ngựa dưới đáy bể)

Rồi hỏi: Là sao?

Thiệt Diệu Liễu Quán:

Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống

Một huyền cầm tử tận nhật đàn.

(Trâu đất gãy sừng rống suốt đêm.

Đàn tranh đứt dây gẩy trọn ngày)”

Trích dẫn từ:http://vi.wikipedia.org

 

HOẰNG HÓA

Kế thừa tổ ấn trao truyền
Y tam thừa giáo, chèo thuyền độ tha
Đằng Trong nước Việt bao la
Chánh hưng Phật giáo sáng ra năm nào.

Thiền Tôn khai trụ nương vào (Nhâm Dần 1722)
Quí sửu (1733), Giáp Dần (1734), Ất Mão (1735) thiện duyên
Bốn Đại Giới Đàn dự truyền
Tiếp tăng độ chúng hưng thiền chánh Tông.

Ngồi tòa Bát Nhã Tánh Không
Canh Thân (1740) Đại Giới Long Hoa, Ngài truyền.
Chánh pháp tỏa khắp mọi miền
Võ Vương – Chúa Nguyễn (1738 – 1756)nghe tiếng ban truyền .

Chúa sai quan đến thỉnhliền
Mời Ngài vào phủ, dịp chiêm bái Ngài.
Nhưng vì thích cảnh liên đài (lâm tuyền)
Ngài xin ở lại chốn đài Viên Thông.

Dưới núi Ngự Bình đồi thông
Nhiều lúc Chúa ngự vào trong vấn Thiền.
Mùa thu lá rừng trước hiên
Báo tin nhập diệt mặc nhiên trở về.

Viên Thông chốn tịnh thanh khê
Ngài phó chúc kệ mọi bề bảo ban
Ngài dạy đồ chúng nên làm
Y theo giới luật tu bằng tinh chuyên.

Chúng tăng vâng lời Ngài truyền.
Kế thừa chánh pháp, làn truyền thịnh hưng
Năm Nhâm Tuất (22/11/1742) hiệu cảnh hưng
Sau thời cúng ngọ bổng dưng Ngài truyền.

Giờ Mùi đồ chúng kính tuyên
Ngài ngồi kiết tọa an nhiên Niết bàn
Đồ chúng tiếp độ muôn ngàn
Bốn chín đệ tử nối truyền pháp Tông.

Hay tin chúa Nguyễn ban phong
Hiệu là: Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng
Quý hợi (19/2/1943) nhập tháp một phương
Thiên Thai Thiền Tôn ngát hương tháp Ngài.

THƠ KỆ PHÚ CHÚC NIẾT BÀN
Sáng ngộ: Tổ Sư Liễu Quán


Hán Việt:

Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc duyệt dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông.

Việt Dịch:

Hơn bảy mươi năm trong thế giới
Không không sắc sắc thảy dung thông
Sáng nay mãn nguyện về quê cũ
Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông

Trích nguồn: Web Tosuthien.net

thap_to_lieu_quan

Ảnh: Tháp Tổ Liễu Quán Tại núi Thiên Thai Thiền Tôn (Huế)

 

DÒNG KỆ TRUYỀN THỪA THIỀN PHÁI LIỄU QUÁN
Sáng kệ: Lâm Tế đời 35 Tổ sư Liễu Quán


Hán Việt:

Thật Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong.

Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công.

Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Xướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chân Không.

 

Việt dịch:

Đường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng.

Giới định phước tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công.

Truyền giữ lý mầu
Tuyên dương chánh tông
Hành giải song song
Đạt ngộ chân không.

(Thiền Sư Nhất Hạnh dịch)

 

THƠ HÓA: DÒNG THÁNH KỆ TỔ SƯ LIỄU QUÁN

 Dòng kệ: Tổ Sư Liễu Quán
Hóa thơ:Thích Liễu Nguyên

Thật: Chơn Không – Bát Nhã hằng nương
Tế: Từ Bi cứu độ muôn phương nương nhờ
Đại: Hoa Nghiêm cùng khắp vô bờ
Đạo: Sanh Phương Tiện giải, tu thời thoát ly.

Tánh: Phật tánh chiếu khắp mọi khi
Hải: Bao la biển Tuệ đến đi không còn
Thanh: Thanh tịnh ba nghiệp vuông tròn
Trừng: Rỏ Tâm thấy pháp, chẳng còn tâm si

Tâm:Dụng Tâm hợppháp mọi khi.
Nguyên:Bản lai vạn pháp không hai khắp cùng
Quảng:Bao la phổ độ muôn trùng
Nhuận: Thấm nhuần pháp Phật trùng trùng hóa sanh.

Đức: Từ Bi tánh đức Phật ân.
Bổn:Góc Tâm có Phậtdiệu chân rạng ngời.
Từ:
Từ BiTrí Tuệ muôn đời
Phong: Trụ nhân cốt cách thảnh thơi tu trì.

Giới: Chiếc áo lành mặc mọi khi
Định: Luôn theo chánh pháp tu trì bình an.
Phước: Quả thiện hưởng phước lạc ban
Huệ: Sáng soi thường chiếu xóa tan mê mờ.

Thể: Nơi chổ hoạt dụng nương nhờ
Dụng: Hợp cùng Thể Tướng sờ sờ khắp nơi
Viên: Cả ba hợp nhất muôn đời
Thông:Chẳng ai cản được Pháp thời duyên sanh.

Vĩnh: Từ vô thỉ, pháp vô sanh
Siêu: Vượt lên Tam giới vô sanh nẻo về
Trí:Thấu rỏ vạn pháp mọi bề
Quả: Sanh từ Phước Trí đề huề lạc ban.

Mật: Trong pháp mật hiện muôn vàn
Khế:Tam thời khế hợp vượt ngoài thời gian
Thành:Quả thiện nay đã viên mãn
Công: Làm nhiều công quả thiện an sau này.

Truyền:Thừa truyền chánh pháp lý đầy
Trì: Tu trì pháp Phật, truyền đầy thế nhân.
Diệu: Đầy đủ lý của pháp nhơn
Lý:Khế hợp Diệu ấy thiện nhân tu hành.

Diễn: Xiển bày chánh pháp rành rành
Xướng: Ngợi ca pháp Phật thực hành đồng tu
Chánh: Nẻo đúng hướng dẫn kẻ ngu
Tông:Chính là Tông Phật vân du truyền thừa.

Hạnh:Thực hành hạnh nguyện Tam thừa.
Giải: Liễu tri vạn pháp BaThừa đồng quy
Tương: Tâm hợp chánh pháp mọi khi
Ứng: Ứng theo phương tiện tức thì ngộ ra.

Đạt: Đạt đến chổ vốn Không Ta
Ngộ: Thấy rỏ Ngũ Uẩn thoát ra luân hồi
Chơn: Có ngay trong pháp luân hồi
Không:Thiệt, không, thường,có ba thời chẳng sai.

 

KHỞI NGUỒN LIỄU QUÁN THẬT TÔNG
Thơ: Liễu Nguyên

Một chữ nối Pháp một đời
Pháp Phật truyền thừa bao thời Tổ trao
Bốn mươi hai chữ 42 đời
Xuất gia, Phật tử rạng ngời chánh Tông.

Khởi nguồn Liễu Quán Thật Tông
Đời sau Không kệ,cùng Tông Niết bàn
Trùng trùng đắc pháp muôn ngàn
Thân y giới luật, lạc bang hướng về.

Pháp Phật là cánh đồng quê
Bao la pháp lạc bốn bề đồng tu
Lục độ, Bồ Tát vân du
Rộng truyền Phật pháp nẻo cùng chốn mê.

Nhớ núi Linh Thứu Thánh quê
Phật trao Ca Diếp khởi bề ấn tông
Chánh pháp Phật tổ dung thông
Đến nay nhân loại rỏKhông baothời.

Muôn đời chánh pháp rạng ngời
Phật Phật hạo hạo, vạn đời truyền trao
Pháp luân thường chuyển đẹp sao
Đương lai Di Lạc tiếp trao Pháp thiền.

Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh.
Mam mô Mô Tây Thiên Đông Độ, Việt Nam Du Hóa Lịch Đai TổSư chứng minh.
Nam mô Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Ngũ Thế Viên ThôngThiên Thai Thiền Tôn Tự Thiệt Diệu Liễu Quán Tổ Sư Chứng minh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5071)
Lững thững đến, Lững thững đi, Tử sinh vẫn đó, cần chi vội vàng...
(Xem: 5592)
Dù cho hơi thở ngừng ngay Ta xin gởi lại thân này vào trong Vào trong đất nước mênh mông Vào trong gió lửa Sắc Không cuộc đời
(Xem: 7903)
Biển lặng sóng yên vẻ bề ngoài Bên trong Trung Quốc vẫn tỏa oai Âm thầm chiếm đoạt vùng biển Việt Mưu đồ cố chấp chẳng nghe ai .
(Xem: 4573)
Chủng Tánh Phật luôn tiềm tàng hiện hữu Trong lòng mình cùng tất cả chúng sanh Dẫu cho ta chưa nhận biết chung quanh Tánh Phật mãi vẫn thường luôn trong sáng .
(Xem: 4507)
Trăng khuya in bóng ai ngồi, Thả lơi nhịp mõ, bồi hồi Kim Cang, Chợt bừng, Lộ diệc hợp tan, Bóng kia hóa hiện đóa vàng nụ mai
(Xem: 8346)
Nửa đời xưa Đã qua đi Nửa đời còn lại Chút gì không hư.
(Xem: 12452)
Nhìn căn nhà nhỏ năm xưa Bao nhiêu kỷ niệm như mưa chợt về Nhớ Mẹ ánh mắt đề huề Nhớ Mẹ tần tảo lê thê giữa đời
(Xem: 5301)
Chén cơm chay đơn sơ và giản dị Tinh khiết và thơm ngon như tình Mẹ năm nào Mỗi khi lòng lao xao, Con đều nhớ Mẹ
(Xem: 6242)
Chương trình 5 Phút Phật Pháp do Thầy thực hiện con nghĩ ngắn và đủ để đại chúng tư duy trên con đường tu tập. Rất hay, ý nghĩa thiết thực.
(Xem: 6124)
Rừng xanh cây lá thoáng bay Phút giây hiện tại từ đây bắt đầu Vô sanh vô tử vô cầu Lắng yên hơi thở khổ sầu biến tan .
(Xem: 8114)
Mênh mông trời xứ tuyết Phong kín bụi sương mờ Lung linh màu diễm tuyệt Thắp sáng bên trời thơ.
(Xem: 5998)
Vua Ba Tư Nặc nước kia Một ngày bà mẹ chợt lìa trần gian Nhà vua cùng với các quan Cử hành tang lễ vô vàn trang nghiêm
(Xem: 7754)
Lắng lòng con niệm Phật Từng nhịp mõ rơi đều Hoà âm cùng pháp lữ Mỉm nụ cười trong veo
(Xem: 18571)
Kiếp sống trăm năm nghĩ khó thay, Thiền đường tĩnh tọa đã lâu ngày… Tuổi đời chồng chất mê cùng ngộ. Chẳng biết còn duyên ở cõi này!!!.
(Xem: 4423)
Con đường ven biển, mưa sa Bỗng dưng thổn thức nhạt nhòa lệ rơi!? Mưa hay lệ, Hỡi tôi ơi! Vầng trăng ngày ấy đầy vơi nỗi niềm
(Xem: 6159)
Tâm thiền rạng chiếu ung dung bước. Lặng lẽ năm dài vui gió trăng...!
(Xem: 5682)
Quê người đất khách dựng chùa chiền, Ứng hoá tuỳ cơ độ hữu duyên. Chẳng ngại bì lao xây đạo nghiệp, Không màn khó nhọc mở nguồn thiền.
(Xem: 5109)
LẮNG LÒNG nghe tiếng vô thanh Từ nguồn diệu lý qua thành kim cương Ai hay một đoá vô thường ! Tặng nhau một sớm mười phương nhiệm mầu.
(Xem: 5044)
Nhẹ nhàng đi để lòng nguôi buồn giận Mỗi bước chân tuôn chảy nước từ bi Hương Bồ Đề xoa diệu gió sân si Như Linh Thoại một lần vô pháp giới
(Xem: 5340)
Đời ai cũng có lỗi lầm Lấy tâm tha thứ rất cần trước tiên Thương nhau xoá bỏ tị hiềm Giúp nhau xoá sạch nỗi niềm trái oan .
(Xem: 6080)
Gốc rễ và cội nguồn. Vô định rồi lang thang, Chân xiêu cùng gối mỏi, Kiếp người vẫn dỡ dang.
(Xem: 4382)
Bác đã đi rồi thật thế sao? Lincoln nhớ mãi tự thuở nào, Linh Quang cõi tịnh ai xây đắp, Cánh nhạn qua đồi gió lao xao
(Xem: 7213)
Một năm qua vẫn đến chùa lễ Phật Vẫn trông đời bằng nét mặt kiêu sa, Biết đạo lý Phật đà là lẽ thật Bước chân còn chưa hướng đến vị tha..
(Xem: 5184)
Mắt sâu xuyên thấu trời xanh Thân hình nhỏ bé như cành cây khô Đời Thầy là cả hư vô Rong chơi cùng với sông hồ nước mây
(Xem: 5600)
Với đời giúp đỡ yêu thương Là con gián tiếp Cúng Dường Như Lai ( Như Nhiên) Với người con mở vòng tay Không gây thù oán đắng cay cõi lòng
(Xem: 6610)
Khi đang ngủ nếu như không thức dậy Đừng buồn lo xin hãy cứ mừng đi Vì đời ta chẳng có một thứ gì Ngoài Phật Pháp chẳng còn chi mong cả .
(Xem: 4754)
Thị Ngạn Am ẩn hiện, Mây trắng bay ngang đồi, Tinh mơ sương còn đọng, Côn trùng thay tiếng kinh
(Xem: 4163)
Bốn mươi năm như mộng, rũ áo bụi đường xa, còn chút vương rất mỏng, mi mắt đậm hương trà.
(Xem: 5542)
Ban mai vang vọng tiếng chuông ngân, Lẳng lặng lòng nghe lắng nghiệp trần. Quẳng gánh lo toan, vun gốc tuệ, Buông niềm cố chấp, diệt mầm sân.
(Xem: 6164)
Đời ta còn có mẹ cha Là còn Đức Phật vị tha giữa đời
(Xem: 6284)
Chết cũng vui còn sống chẳng gây Tất cả do tâm ở phút nầy TỊCH DIỆT VI LẠC lời Phật dạy Đẹp đạo sống đời khắp đó đây .
(Xem: 8408)
Một mình ngồi lặng lẽ, Lâm râm niệm Di Đà. Mười phương cây, cỏ dậy, Lòng đất nở đầy hoa.
(Xem: 7979)
Sông mê bể ái sánh đôi dòng, Nghi hoặc ra vào cửa có không. Tham đắm trần gian nên lận đận, Tìm cầu đạo cả vẫn long đong.
(Xem: 9349)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 6861)
Tháng năm Những lo toan đối mặt cuộc đời Đấu tranh, từ chối Chấp nhận, buồn vui... Vẫn chở chuyên theo suốt kiếp người.!
(Xem: 5930)
Pháp của Phật chẳng có gì là mạt Mạt hay không do ở tại lòng ta Suối nguồn Tâm Pháp bao la Chảy vào muôn cõi hằng sa kiếp người .
(Xem: 5281)
Nữa khuya Thức giấc giang hồ Hiên ngoài trăng xế nghiêng bờ vó câu Đêm vô thanh Thoáng hương màu Chợt nghe gỏ nhịp cuộc dâu bể nầy.
(Xem: 6351)
Đua chen chi lắm, có rồi không, Tử đến, sanh đi, nghiệp chất chồng. Biển khổ luân hồi thăm thẳm nổi, Đường dài sanh tử mịt mờ rong.
(Xem: 6372)
Anh nằm xuống cho mọi người được sống Nén hương lòng tôi dâng thắp cho anh Yêu quê hương anh đã phải lên đường Vì sự sống biết bao người còn ở lại .
(Xem: 21113)
Chào ngày mới giọt sương trong nắng, Sáng lung linh đẹp tưa minh châu. Trong tĩnh lặng bình an cõi thế. Để trần gian có phút nhiệm mầu
(Xem: 4525)
Em đã thấy ta pháp hữu vi, Một dòng thơ nhạc ngát quang huy, Vô vi pháp nhĩ như thị tướng, Biến dịch khôn cùng bặt đến đi !
(Xem: 5535)
Ngọn lửa từ bi muôn đời luôn rực sáng Chuyển hoá lòng người đánh mất cả tim gan Kẻ chuyên quyền đều ngưỡng kính quy hàng Thân bất động an nhiên trong lửa táp.
(Xem: 5432)
Nếu mai đây tôi không còn sống nữa Xin đôi lời di chúc lại sau đây Cứ để người mổ ruột xác phanh thây Xin cúng dường ngũ tạng còn tươi tốt .
(Xem: 5281)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 6329)
Dòng đời cứ vội đi qua, Rồi như chiếc lá la đà trước sân, Bởi lòng còn nặng tham sân, Nên chi ngồi đó phân vân lối về.
(Xem: 5328)
Chánh pháp rèn tâm bồi phước tuệ, Đạo mầu chuyển tánh phát từ bi. Tùy duyên động niệm lên bờ giác, Ngộ thấu nguồn chơn quyết rộng thi.
(Xem: 4961)
Thuở xưa có một nhà buôn Nghe lời biển gọi, căng buồm ra khơi Nổi trôi buôn bán khắp nơi Ghé bờ xa lạ, sống đời lênh đênh.
(Xem: 5116)
Nơi vùng Hy Mã Lạp Sơn Tuyết giăng núi biếc, mây vờn đỉnh cao Ven sườn phong cảnh đẹp sao Bềnh bồng sương gió, dạt dào nắng mưa
(Xem: 5805)
Tôi về đứng ngó trời mây Biển xanh núi thẳm hồn ngây ngất hồn Giữa nghìn thu sóng đẹp buồn Trăng sao bất tuyệt ru hồn thế nhân
(Xem: 9612)
Như Lai thị hiện xuống trần gian, Rực ánh từ quang, tỏa ánh vàng Bảy đóa sen hồng nâng ngọc gót Hai dòng nước tịnh tắm kim thân
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant