Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

29 Tháng Tám 202019:32(Xem: 6870)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn

 

Huỳnh Kim Quang

Tu nhà năm mấy tuổi đầu

Lẽ huyền chưa đạt thâm sâu Bến Bờ

Chừ nương cảnh chợ sống hờ

Thử xem nhẫn nhục còn chờ những chi?

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.”

(Tâm Tấn, Đêm Huyền)

 

Mấy câu thơ ở trên đã diễn bày được trọn vẹn cuộc đời của một người nữ cư sĩ tu tại gia “nương cảnh chợ sống hờ,” nhưng kiến giảitâm nguyện thì hướng tới cảnh giới bất nhị “Niết Bàn-Địa Ngục bất ly.” 

Đó là một đoạn của bài thơ Đêm Huyền trong tuyển tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương,” đã được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2004, của nữ sĩ Tâm Tấn, đã qua đời vào ngày 13 tháng 7 năm 2020 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam, thượng thọ 100 tuổi. 

Tuyển tập thơ này tôi đã đọc từ sau khi nó được phổ biến tại Hoa Kỳ do người con trai của nữ sĩ Tâm Tấn là nhà văn Vĩnh Hảo thực hiện. Bây giờ nhân cụ ra đi về cõi Phật, nhà văn Vĩnh Hảo tặng cho tôi để đọc lại và cũng để tưởng niệm công đức của nữ Sĩ Tâm Tấn đối với nền văn học nước nhà nói chung và nền văn học Phật Giáo Việt Nam nói riêng. 

Thú thật, lần này đọc lại tập thơ tôi rất đỗi ngạc nhiênthú vị vì chất thơ thấm đẫm hương vị văn chương và chất Phật cao thâm siêu thoát trong thơ của bà.

Nói nào ngay, xét ra tôi cũng rất có duyên với gia đình nữ sĩ Tâm Tấn. Tôi biết bà từ những năm sau 1975, chính xác là năm 1976. Nhưng bà thuộc thế hệ tiền bối nên chỉ biết mà không thân cận. Ngược lại tôi quen thân với nhiều người con của bà, như thi sĩ Phù Du Vĩnh Hiền, nhà văn Vĩnh Hảo, nhà văn Vĩnh Hữu, Vĩnh Hiếu và Vĩnh Bình. 

Trong bài thơ Đêm Huyền vừa trích, có mấy câu đáng suy gẫm:

 

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.

 

Thi sĩ Tâm Tấn đưa ra một hình ảnh rất đời thường để nói đến lý bất nhị của Niết BànĐịa Ngục: trong và ngoài cánh cửa. Đọc câu sau chúng ta sẽ thấy đó là cánh cửa tâm. Đúng vậy, Niết Bàn hay Địa Ngục cũng từ tâm mà ra. 

Điều khá lý thú khác ở đây là thi sĩ đưa ra thí dụ về việc mở tâm và khép tâm. Mở tâm thì bước vào cõi Ta Bà khổ đau. Khép tâm thì thể nhập Chơn Không tịnh lạc. Đây là một ẩn dụ rất sâu xa cho thấy thi sĩ Tâm Tấn là người Phật tửtu tập. Mở tâm tức là hướng tâm ra ngoài, là vọng động chạy theo trần cảnh. Khép tâm tức là xoay tâm vào bên trong nội quán để thể nhập Chơn Không. 

Thi sĩ Tâm Tấn kết thúc bài thơ Đêm Huyền với mấy câu thấm đẫm chất Phật:

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

Trăng nương gió lật trang Thơ

Đèn khuya bấc lụn trầm tư đêm huyền.

 

Triết lý nhị đế dung thông của nhà Phật nằm gọn trong câu “Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.” Sống trong cõi tục đế, tức cõi thế gian phàm tục, nhưng lòng thì không bao giờ quên đại nguyện chứng nhập vào cõi xuất thế của Chân Đế, Chân Như

Hai câu cuối chuyên chở chất liệu văn chương làm say mê người đọc. Ở đây thi sĩ mô tả cảnh đêm trăng huyền diệu mà bà đang thưởng lãm. Chính tâm cảnh ngắm trăng thơ mộng đó đã như chất liệu kỳ diệu cho thơ trào ra. Thi sĩ đã sử dụng một ẩn dụ đầy sáng tạo “Trăng nương gió lật trang Thơ” để miêu tả cảm trạng xúc cảnh sanh tình gây cảm hứng cho hồn thơ tuôn chảy. Câu sau cùng là một câu thơ có họa và nhạc. Họa là ngọn đèn mà cái bấc đã cháy gần cạn nên ánh sáng còn yếu ớt huyền ảo. Nhạc là qua khung cảnh một người ngồi trước ngọn đèn leo lét nhìn bên ngoài ánh trăng như ảo như mộng, có thể nghe được sự tĩnh lặng sâu lắng trong khung cảnh này.

Trong bài thơ “Quán Thế Âm Tịnh Thánh,” thi sĩ Tâm Tấn đã thổ lộ tâm tư của bà với Bồ Tát:

 

Con từ bao kiếp Vô minh,

Vãng lai vấp ngã Tử Sinh đôi bờ.

Đò thiêng lỡ chuyến bơ vơ,

Xôn xao nghiệp Ái gánh hờ Trần Duyên.

 

Đó là lời bộc bạch chân thật của một người Phật tử tại gia đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong đoạn thơ trên, chúng ta thấy thi sĩ Tâm Tấn trong cõi sâu xa của tâm thức dường như không thể quên ước nguyện từ vô lượng kiếp muốn đáp chuyến đò từ bờ bên này sinh tử luân hồi sang bên kia bờ giải thoát niết bàn. Có lẽ vì thế, đối với bà, nghiệp trần duyên của kiếp này chỉ là “gánh hờ” chứ không phải là sự nghiệp trường cửucứu cánh mà bà nhắm tới. Nhưng nói thế không có nghĩa bà không sống hết mình với vai trò của một người vợ một người mẹ. Nhà văn Vĩnh Hảo đã viết về người Mẹ của ông trong Đôi Lời Vào Tập của tập thơ Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương như sau.

“Người mẹ thi sĩ của chúng tôi đẹp, hiền lành, nhân ái, quả cảm, tận tụy một đời chăm sóc chồng con; vất vả trăm chiều sinh và dưỡng bầy trẻ 14 đứa… Cuộc đời Mẹ, từ những con chữ trên trang giấy cho đến những hạt gạo, miếng vải, mồ hôi nước mắt, lời ru giọng hát, tiếng khen thưởng con ngoan, hay tiếng la trách con hư… đều toát lên cái ý vị phong nhiêu diệu vợi của thơ, và của tình.”

Từ bối cảnh tâm thức thấm nhuận Phật Pháp như thế, nên hơn 50 bài thơ trong tuyển tập “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” không bài nào, không câu nào không bàng bạc giáo lý Phật Đà.

Trong tập thơ nêu bật mấy chủ đề quan trọng mà thi sĩ Tâm Tấn hay nói đến, gồm Lễ Vu Lan với tình mẫu tử và hiếu đạo, tinh thần yêu chuộng hòa bình vì đó là bản chất của đạo từ bi của nhà Phật, các sự kiện liên quan đến lịch sử của đất nước và Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1975.

Trong bài Cảm Niệm Vu Lan 2, thi sĩ Tâm Tấn tưởng niệm ân đức của bậc sinh thành, với lời thơ chí thành tha thiết.

 

Ba mươi năm sau… đầu con sương giá,

Ngồi thương cha nhớ mẹ tuổi hoàng hôn:

Bờ âm dương lấp biển với che nguồn,

Con chỉ thấy núi xa mây trắng hiện…

 

Hai tách trà thơm dâng vào cõi huyễn,

Dĩa trầu cau nồng thắm cũng hư vô!

Những giấc chiêm bao ôm mẹ mơ hồ

Những giọt lệ mừng cha tàn ảo ảnh…

Vén trí phàm phu phút giây nhập thánh,

Tâm là hoa xin hướng cội kỳ hoa.

Kinh Vu Lan ấm phủ mẹ Hồn cha,

Con quỳ lạy minh châu kim trượng chuyển

Ân Đại Hiếu Kiền-Liên muôn kiếp hiển…

Xin mẹ cha mau thoát khỏi luân hồi,

Chín phẩm sen vàng ân phước vào ngôi,

Con hồi hướng với tâm lành trọn kiếp.

 

Trong tình mẫu tử thiêng liêng, thi sĩ Tâm Tấn đã bày tỏ nỗi đau của người mẹ mất con trong bài Khóc Con.

 

Ai nỡ cướp con tôi măng sữa,

Chôn vùi sâu, cách cửa âm dương!

Nơi đây hơi Mẹ ấm giường,

Sao con nằm chốn gió sương mưa dầm?

Dưới huyệt trũng, nắng dầm thiêu đốt

Héo thân con, đau buốt lòng Me!

Mưa Đông rồi tiếp nắng Hè

Đất vun cỏ đắp khôn che ấm tình…

 

Là người Phật tử phụng thừa lời dạy từ bitrí tuệ của Đức Phật có nghĩa là không chủ trương, không hậu thuẫn cho bất cứ cuộc chém giết tương tàn nào đối với muôn vạn sinh linh. Điều đó cũng có nghĩa là người Phật tử luôn luôn sống với suy nghĩ, lời nói và hành động hàm chứa tinh thần hòa bình và nỗ lực kiến tạo cuộc sống hòa bình cho mình và cho tha nhân. Thi sĩ Tâm Tấn là mẫu người Phật tử như thế. Trong bài thơ “Lời Cầu Nguyện Hòa Bình,” thi sĩ Tâm Tấn bày tỏ ước mơ đất nước hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh.

 

Thắp nến Diêm Phù xin châm lửa Tuệ

Trầm hương dâng, xin ngát Pháp Hoa tâm

Đàn con thơ thống thiết vọng hồng ân

Lễ Thành Đạo xin chuyển vần Xe Pháp.

Lạy Từ Phụ! quê hương con đổ nát

Vì Tham Kiêu đã khoác lốt cuồng chinh

Hai mươi năm thây chất bởi vô minh

Tưởng Tiên Dược đem Trường Sinh Bất Tử:

Chủ nghĩa này trưng chiêu bài, đưa nhủ!

Ý thức kia “Đời nguyên tử” khoe trao!

Năm tiếp năm vết Đạn xoáy Bom cào,

Ngày tiếp tháng Núi Sông gào “Độc Dược”!

Lạy Từ Phụ! xin ban niềm mộng ước

Bóng Thanh Bình làm linh dược hồi sinh.

 

Thi sĩ Tâm Tấn là người thân cận với chư tôn túc lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam từ thập niên 1950, khi bà được Cố Hòa Thượng Thích Trí Quang mời cộng tác cho báo Liên Hoa tại Huế. Rồi sau đó bà cộng tác với báo Bát Nhã của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Vì vậy cuộc đời của thi sĩ gắn liền với vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam từ đó về sau. Trong biến cố nhà Ngô đàn áp Phật Giáo vào năm 1963, thi sĩ Tâm Tấn đã là một trong những nhân chứng sống. Trong bài thơ Ác Mộng viết vào ngày 16 tháng 8 năm 1963, nghĩa là 4 ngày trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm tổng tấn công vào chùa chiền trên toàn quốc, bà đã ghi chú ở cuối bài thơ rằng, “Vừa khóc vừa làm trong đêm 16/08/1963.”

 

Bạn ơi, bạn ơi! núi vun mây hận

Đất phương này sấm động náo tâm tư.

Vừng Từ Vân khuất lấp bởi sương mù,

Hoa Tinh Tấn dập vùi trong bão chướng.

Kinh ngạc sững sờ hồn không định hướng

Ngẩng nhìn cao tìm dấu vết Từ Vân.

Bắc Đẩu tinh phương chiếu rạng tinh thần

Vầng nguyệt từ bi biến mờ đâu cả!

 

Trong bài Áo Vàng Bất Diệt, thi sĩ kể tình hình Phật Giáo vận động cho tự dobình đẳng tôn giáo năm 1963 như sau.

 

Phật Giáo Tăng Ni, tín đồ tranh đấu

Thiết tha đòi Năm Nguyện Vọng thuần từ.

Nạn độc tài vận nước lúc suy hư,

Giáo Kỳ trưng lên, Giáo Kỳ triệt hạ!

Nhìn Thầy tuyệt thực, nắng sương đỏi lả,

Rồi nghe tin Thượng Tọa tự thiêu mình

Và  Sa Di, Đại Đức tiếp hy sinh

Lửa Tử Đạo bừng bừng trong ánh mắt.

 

Khép tập thơ lại. Lòng tôi dâng lên niềm cảm thán và kỳ thú. Cảm thán vì đọc được những bài thơ chứa chan tình đời nghĩa đạo. Kỳ thú vì không ngờ một người “chưa từng cặp sách đến trường” – như nhà văn Vĩnh Hảo đã viết trong lời đầu tập thơ – mà có thể có được kiến vănchữ nghĩa bác lãm và uyên thâm như thế. Đây quả thật là một sự hiếm có. Tôi tự giải thích cho chính mình với hai nhân duyên. Thứ nhất là nỗ lực phi thường của chính thi sĩ Tâm Tấn trong việc tự học trong đời này. Thứ hai là bà vốn có một thiên tư trí tuệ đặc dị mà không phải ai cũng có, nếu không muốn nói là bà mang chủng tử trí tuệ từ nhiều kiếp trước đến đời này. Điều này làm cho tôi rõ lý do tại sao thi sĩ đã nhiều lần nhắc đến ước nguyện trở về cố hương Chân Như trong trong tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.” 

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

 

Xin kính cảm ơn thi sĩ Tâm Tấn. Nhân tuần chung thất của bà, xin cầu nguyện bà sớm hoàn thành ước nguyện.

 Tap tho CUOI DOI LOC NHUNG TINH SUONG

Bìa tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4751)
Thôi nhé ta về vui bếp xưa Đời lang bạt đó, gió mây đưa Phố phường náo động tâm cuồng loạn Ta mất ta giữa khói bụi mù!
(Xem: 2891)
Nguồn sức mạnh của trẻ thơ Chính là tiếng khóc bất ngờ kêu la.
(Xem: 4394)
Thuở xa xưa tại rừng già Có hai con vật rất là thân nhau Từ sáng sớm đến canh thâu Mãi luôn kề cận, có đâu xa lìa
(Xem: 3437)
Ngàn thu vang vọng biết bao lời… Phòng vắng người đi lạnh đất trời.
(Xem: 4379)
Thiền Thi Vân Tập Cú Tập - Tuyển dịch, văn thể… HT Thích Huyền Tôn.
(Xem: 4414)
Một chàng quỳ trước Phật đài Xin ban sức khoẻ, đồng thời giàu sang. Lắc đầu Phật dạy: “Nhớ rằng Ta nào có phải là thần thánh đâu
(Xem: 13797)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 6126)
Khi ta sống mà chẳng vướng mắc bụi trần. Lời khen tiếng chê giống như gió thoảng. Có khen Phật, Phật vẫn thế. Có chê Phật, Phật vẫn Như Như.
(Xem: 4282)
Ngày xưa có một ông thầy Vừa nhiều kiến thức lại đầy tài năng Danh thầy vì thế lừng vang Học trò xin học ngày càng đông thêm.
(Xem: 8485)
ĐÃ khổ trầm luân vạn nẻo rồi! BIẾT đời thoáng chốc phận trùng ôi! VÔ tâm… lặng lẽ điên không nổi, THƯỜNG tuệ… bình yên loạn chẳng trồi.
(Xem: 5017)
Tôi vẫn muốn nhìn quê hương từng bước Tay trong tay gầy dựng mái nhà chung Đất nước tôi con cháu của vua Hùng Muôn dân Việt vẫn một lòng tưởng nhớ.
(Xem: 5317)
Các con ơi ! hảy nhìn Ba Mẹ Tuổi đã già rồi sẻ ra đi Sống vui đừng có sầu bi Nụ cười luôn nở đời thì bình yên
(Xem: 4603)
Noi gương Thầy con luôn huân tập Văn,Tư,Tu nguyện thắp sáng lòng Đạo đời ý sống dung thông Tinh chuyên tịnh nghiệp tâm không não phiền
(Xem: 5722)
Sông sâu bên lở bên bồi Thời gian cứ mãi êm trôi tháng ngày Chuyên tu chớ đợi một mai Dòng đời ngắn ngủi sắc phai hương tàn
(Xem: 4366)
Thuở xưa có một ông vua Quý yêu công chúa mới vừa sinh ra Nên vua mong muốn thiết tha Con mình mau lớn để mà ngắm trông
(Xem: 4239)
Có người dự định tháng sau Mời nhiều khách đến cùng nhau vui vầy Sữa bò đãi khách bữa này Cho nên phải trữ sữa ngay bây giờ
(Xem: 5711)
Trời xanh mây trắng thong dong Gió lay mưa pháp bụi hồng thôi vương Quảng đời còn lại điểm sương Hành trang chỉ có tình thương cho người
(Xem: 5003)
Ngày xưa có một ông thầy Tu hành ngồi mãi cả ngày thật chăm Lạ thay thầy chẳng thích nằm Trụ trì chùa lớn, tiếng tăm vang rền,
(Xem: 3897)
Chuông chùa nhè nhẹ ngân trong sớm, Loan báo tin mừng Phật đản sinh, Hương Từ dìu dịu... niềm vui chớm, Nở đẹp trên môi khắp hữu tình.
(Xem: 3963)
Xưa rời cung điện ra đi Giờ đây thành đạo trở về thăm cha Hai mươi năm thoáng trôi qua Quê hương Đức Phật Thích Ca đón người
(Xem: 3565)
Kính chúc mừng Thượng Toạ Thích Đồng Lưu nhân dịp Lễ Khánh thành Pháp Đường Tu Viện Quan Âm-Florida, Hoa Kỳ
(Xem: 3396)
Thành kính xưng dương tôn hiệu 157 chư tôn đức Tăng Ni trong Trường Hạ Phật Học Viện Quốc Tế Hoa kỳ - PL 2553 Năm 2009
(Xem: 3649)
Đệ huynh từ thuở khai tâm. Việt Nam Vĩnh Đức ươm mầm Như Lai. Dù cho vạn nẻo sông dài. Đến ngày khánh hỷ chung vai chúc mừng.
(Xem: 4730)
Mùa thiền định và an cư Nơi tu viện của thiền sư năm này Bao nhiêu đệ tử về đây Cùng nhau tu học với thầy, đua tranh,
(Xem: 3655)
Kính chúc mừng Thượng Toạ Thích Hạnh Tri và quý Phật Tử nhân dịp lễ khánh thành chùa Minh Giác.
(Xem: 5300)
Sáu mươi mốt tuổi vừa qua Thiền sư ngài đã lìa xa cõi đời Hoàn thành sự nghiệp tuyệt vời Một kho giáo pháp hơn người biết bao
(Xem: 4792)
Bậc Giác Ngộ xuất trần cứu độ Bình bát Ngài khất thực hoá duyên Pháp thân trải rộng khắp miền Trời lành đất mát mây hiền thoáng trong.
(Xem: 5459)
Một Biết cảm Phật chi ân Hai Biết hiếu dưỡng song thân ở đời Ba Biết thương kính muôn người Bốn Biết quán chiếu mọi thời khắc qua
(Xem: 6373)
Vẫn hẹn hoa tràn nắng ngập sân, Vườn ươm hạnh phúc rộn duyên trần. Vòng tay ấm áp tình vô tận, Việc phước thanh cao nghĩa sáng ngần.
(Xem: 4823)
Cái chết rồi sẽ đến Chẳng ai cứu hộ mình Hãy thường xuyên quán chiếu Đừng để mất niềm tin.
(Xem: 4816)
Khi còn sống ta mượn thân tứ đại Chẳng có gì mà thuộc cái của ta Lúc chết đi đâu trả về lại đó Còn chi đâu cúng thỉnh giải trừ oan.
(Xem: 4178)
Ở bên Ấn Độ thời xưa Trong vương quốc nọ gió mưa thuận hoà Ngựa vua quý báu, kiêu sa Mỗi khi tắm táp hay ra phía ngoài
(Xem: 5208)
Người giúp ta ta xin nhớ mãi Ân nghĩa đền quyết dứt niệm THAM Lòng không cầu khẩn than van Nương theo Chánh pháp thanh nhàn kết duyên.
(Xem: 4929)
Ngày xưa có một ông vua Thích chơi bài với tế sư trong triều Mỗi khi súc sắc được gieo Vua thường lên giọng nói theo câu này
(Xem: 5110)
Đạo thâm diệu ngày đêm quán chiếu Đừng hửng hờ giao phó thần linh Đời mình mình tự cứu mình Nhờ Thầy chỉ đạo hành trình sáng soi.
(Xem: 6468)
Mùa Xuân, Gối Mộng Ru Thơ Ru Em, Áo trắng bên bờ ly tao Ru hời, tiếng Mẹ Ca Dao Bốn mùa mưa nắng dạt dào Tình Thương...
(Xem: 4523)
Kính Lậy Ngài Đấng Cha Hiền nhân loại Vầng trượng quang chiếu rọi sáng đêm trường Là bình minh thanh khiết ánh chiêu dương Con Kính Thành, Quỳ dâng Lời Sám Hối !
(Xem: 4475)
Hai nhà buôn thuở xa xưa Vẫn thường liên lạc thư từ với nhau Ông già thành thị rất giàu Ở Ba La Nại từ lâu đời rồi
(Xem: 5252)
Chánh Pháp muôn đời soi rạng ý Khai thông tâm thức vượt thời gian Bỏ thói kiêu căng cùng ảo tưởng Thấu triệt cội nguồn tánh hiển quang.
(Xem: 5815)
Ngàn năm mây núi xa xăm Sương mờ bao phủ trăng rằm chiếu soi Người Xưa trên đỉnh mây trôi Khách thiền lặng lẽ giữa đồi ai qua?
(Xem: 5453)
Ngày không giết hại Đêm lại cầu kinh Thọ mạng lâu dài Sống vui tương kính.
(Xem: 5946)
Lối nhỏ qui dần niệm cõi hương… (*) Ngày qua lặng ngắm những cung đường… Nào rên khổ cực nơi trần thế, Dẫu nhận thờ ơ cảnh hí trường!
(Xem: 4530)
Tôi ngơ ngác nhìn trời cao biển rộng, Bước vào đời như giọt nước hân hoan. Nghe chim hót trên tàng cây lá mộng, Dưới chân tôi nắng óng ánh huy hoàng!
(Xem: 4739)
Đây lời Phật dạy lâu rồi: "Ta xem chức tước, thứ ngôi trên đời Của hàng vua chúa mọi thời Hay là của kẻ khắp nơi cầm quyền
(Xem: 5443)
Biết tha thứ là bước đầu tu học Tự thương mình không làm khổ tha nhân Sống hài hoà luôn trân quý tình thân Đức khiêm tốn chẳng có gì thua thiệt.
(Xem: 5372)
Đầu năm xin chúc mọi nhà Sống vui tu tập thuận hoà hiếu chơn Chúc cho tình nghĩa keo sơn Cùng nhau hành thiện tránh hờn dối nhau
(Xem: 7838)
Cung nghinh Kỷ Hợi chén men nồng CHÚC cả dương trần vẫy nạn xong TÂN phúc tùy duyên hằng thỏa dạ XUÂN an đối cảnh chẳng vương lòng
(Xem: 4738)
Niệm Phật tham thiền nghiệp chuyển lay, Niềm vui trí tuệ hiển chan đầy Hương hoa kính ý cung minh đến Lễ nhạc thành tâm đón thiện lai
(Xem: 4891)
Nhà vua Giới Đức thời xưa Tiếng tăm phúc đức nhân từ vang xa Vua cho xây sáu căn nhà Làm nơi phát thực phẩm ra giúp đời
(Xem: 4776)
CHÚC mùa xuân thắm trải ngàn hoa, CHÚC cả nhân gian được thái hòa. CHÚC nhớ nguồn xưa, luôn rõ cội, CHÚC nhìn cảnh mới, mãi thương nhà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant