Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

29 Tháng Tám 202019:32(Xem: 6869)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn

 

Huỳnh Kim Quang

Tu nhà năm mấy tuổi đầu

Lẽ huyền chưa đạt thâm sâu Bến Bờ

Chừ nương cảnh chợ sống hờ

Thử xem nhẫn nhục còn chờ những chi?

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.”

(Tâm Tấn, Đêm Huyền)

 

Mấy câu thơ ở trên đã diễn bày được trọn vẹn cuộc đời của một người nữ cư sĩ tu tại gia “nương cảnh chợ sống hờ,” nhưng kiến giảitâm nguyện thì hướng tới cảnh giới bất nhị “Niết Bàn-Địa Ngục bất ly.” 

Đó là một đoạn của bài thơ Đêm Huyền trong tuyển tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương,” đã được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2004, của nữ sĩ Tâm Tấn, đã qua đời vào ngày 13 tháng 7 năm 2020 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam, thượng thọ 100 tuổi. 

Tuyển tập thơ này tôi đã đọc từ sau khi nó được phổ biến tại Hoa Kỳ do người con trai của nữ sĩ Tâm Tấn là nhà văn Vĩnh Hảo thực hiện. Bây giờ nhân cụ ra đi về cõi Phật, nhà văn Vĩnh Hảo tặng cho tôi để đọc lại và cũng để tưởng niệm công đức của nữ Sĩ Tâm Tấn đối với nền văn học nước nhà nói chung và nền văn học Phật Giáo Việt Nam nói riêng. 

Thú thật, lần này đọc lại tập thơ tôi rất đỗi ngạc nhiênthú vị vì chất thơ thấm đẫm hương vị văn chương và chất Phật cao thâm siêu thoát trong thơ của bà.

Nói nào ngay, xét ra tôi cũng rất có duyên với gia đình nữ sĩ Tâm Tấn. Tôi biết bà từ những năm sau 1975, chính xác là năm 1976. Nhưng bà thuộc thế hệ tiền bối nên chỉ biết mà không thân cận. Ngược lại tôi quen thân với nhiều người con của bà, như thi sĩ Phù Du Vĩnh Hiền, nhà văn Vĩnh Hảo, nhà văn Vĩnh Hữu, Vĩnh Hiếu và Vĩnh Bình. 

Trong bài thơ Đêm Huyền vừa trích, có mấy câu đáng suy gẫm:

 

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.

 

Thi sĩ Tâm Tấn đưa ra một hình ảnh rất đời thường để nói đến lý bất nhị của Niết BànĐịa Ngục: trong và ngoài cánh cửa. Đọc câu sau chúng ta sẽ thấy đó là cánh cửa tâm. Đúng vậy, Niết Bàn hay Địa Ngục cũng từ tâm mà ra. 

Điều khá lý thú khác ở đây là thi sĩ đưa ra thí dụ về việc mở tâm và khép tâm. Mở tâm thì bước vào cõi Ta Bà khổ đau. Khép tâm thì thể nhập Chơn Không tịnh lạc. Đây là một ẩn dụ rất sâu xa cho thấy thi sĩ Tâm Tấn là người Phật tửtu tập. Mở tâm tức là hướng tâm ra ngoài, là vọng động chạy theo trần cảnh. Khép tâm tức là xoay tâm vào bên trong nội quán để thể nhập Chơn Không. 

Thi sĩ Tâm Tấn kết thúc bài thơ Đêm Huyền với mấy câu thấm đẫm chất Phật:

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

Trăng nương gió lật trang Thơ

Đèn khuya bấc lụn trầm tư đêm huyền.

 

Triết lý nhị đế dung thông của nhà Phật nằm gọn trong câu “Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.” Sống trong cõi tục đế, tức cõi thế gian phàm tục, nhưng lòng thì không bao giờ quên đại nguyện chứng nhập vào cõi xuất thế của Chân Đế, Chân Như

Hai câu cuối chuyên chở chất liệu văn chương làm say mê người đọc. Ở đây thi sĩ mô tả cảnh đêm trăng huyền diệu mà bà đang thưởng lãm. Chính tâm cảnh ngắm trăng thơ mộng đó đã như chất liệu kỳ diệu cho thơ trào ra. Thi sĩ đã sử dụng một ẩn dụ đầy sáng tạo “Trăng nương gió lật trang Thơ” để miêu tả cảm trạng xúc cảnh sanh tình gây cảm hứng cho hồn thơ tuôn chảy. Câu sau cùng là một câu thơ có họa và nhạc. Họa là ngọn đèn mà cái bấc đã cháy gần cạn nên ánh sáng còn yếu ớt huyền ảo. Nhạc là qua khung cảnh một người ngồi trước ngọn đèn leo lét nhìn bên ngoài ánh trăng như ảo như mộng, có thể nghe được sự tĩnh lặng sâu lắng trong khung cảnh này.

Trong bài thơ “Quán Thế Âm Tịnh Thánh,” thi sĩ Tâm Tấn đã thổ lộ tâm tư của bà với Bồ Tát:

 

Con từ bao kiếp Vô minh,

Vãng lai vấp ngã Tử Sinh đôi bờ.

Đò thiêng lỡ chuyến bơ vơ,

Xôn xao nghiệp Ái gánh hờ Trần Duyên.

 

Đó là lời bộc bạch chân thật của một người Phật tử tại gia đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong đoạn thơ trên, chúng ta thấy thi sĩ Tâm Tấn trong cõi sâu xa của tâm thức dường như không thể quên ước nguyện từ vô lượng kiếp muốn đáp chuyến đò từ bờ bên này sinh tử luân hồi sang bên kia bờ giải thoát niết bàn. Có lẽ vì thế, đối với bà, nghiệp trần duyên của kiếp này chỉ là “gánh hờ” chứ không phải là sự nghiệp trường cửucứu cánh mà bà nhắm tới. Nhưng nói thế không có nghĩa bà không sống hết mình với vai trò của một người vợ một người mẹ. Nhà văn Vĩnh Hảo đã viết về người Mẹ của ông trong Đôi Lời Vào Tập của tập thơ Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương như sau.

“Người mẹ thi sĩ của chúng tôi đẹp, hiền lành, nhân ái, quả cảm, tận tụy một đời chăm sóc chồng con; vất vả trăm chiều sinh và dưỡng bầy trẻ 14 đứa… Cuộc đời Mẹ, từ những con chữ trên trang giấy cho đến những hạt gạo, miếng vải, mồ hôi nước mắt, lời ru giọng hát, tiếng khen thưởng con ngoan, hay tiếng la trách con hư… đều toát lên cái ý vị phong nhiêu diệu vợi của thơ, và của tình.”

Từ bối cảnh tâm thức thấm nhuận Phật Pháp như thế, nên hơn 50 bài thơ trong tuyển tập “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” không bài nào, không câu nào không bàng bạc giáo lý Phật Đà.

Trong tập thơ nêu bật mấy chủ đề quan trọng mà thi sĩ Tâm Tấn hay nói đến, gồm Lễ Vu Lan với tình mẫu tử và hiếu đạo, tinh thần yêu chuộng hòa bình vì đó là bản chất của đạo từ bi của nhà Phật, các sự kiện liên quan đến lịch sử của đất nước và Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1975.

Trong bài Cảm Niệm Vu Lan 2, thi sĩ Tâm Tấn tưởng niệm ân đức của bậc sinh thành, với lời thơ chí thành tha thiết.

 

Ba mươi năm sau… đầu con sương giá,

Ngồi thương cha nhớ mẹ tuổi hoàng hôn:

Bờ âm dương lấp biển với che nguồn,

Con chỉ thấy núi xa mây trắng hiện…

 

Hai tách trà thơm dâng vào cõi huyễn,

Dĩa trầu cau nồng thắm cũng hư vô!

Những giấc chiêm bao ôm mẹ mơ hồ

Những giọt lệ mừng cha tàn ảo ảnh…

Vén trí phàm phu phút giây nhập thánh,

Tâm là hoa xin hướng cội kỳ hoa.

Kinh Vu Lan ấm phủ mẹ Hồn cha,

Con quỳ lạy minh châu kim trượng chuyển

Ân Đại Hiếu Kiền-Liên muôn kiếp hiển…

Xin mẹ cha mau thoát khỏi luân hồi,

Chín phẩm sen vàng ân phước vào ngôi,

Con hồi hướng với tâm lành trọn kiếp.

 

Trong tình mẫu tử thiêng liêng, thi sĩ Tâm Tấn đã bày tỏ nỗi đau của người mẹ mất con trong bài Khóc Con.

 

Ai nỡ cướp con tôi măng sữa,

Chôn vùi sâu, cách cửa âm dương!

Nơi đây hơi Mẹ ấm giường,

Sao con nằm chốn gió sương mưa dầm?

Dưới huyệt trũng, nắng dầm thiêu đốt

Héo thân con, đau buốt lòng Me!

Mưa Đông rồi tiếp nắng Hè

Đất vun cỏ đắp khôn che ấm tình…

 

Là người Phật tử phụng thừa lời dạy từ bitrí tuệ của Đức Phật có nghĩa là không chủ trương, không hậu thuẫn cho bất cứ cuộc chém giết tương tàn nào đối với muôn vạn sinh linh. Điều đó cũng có nghĩa là người Phật tử luôn luôn sống với suy nghĩ, lời nói và hành động hàm chứa tinh thần hòa bình và nỗ lực kiến tạo cuộc sống hòa bình cho mình và cho tha nhân. Thi sĩ Tâm Tấn là mẫu người Phật tử như thế. Trong bài thơ “Lời Cầu Nguyện Hòa Bình,” thi sĩ Tâm Tấn bày tỏ ước mơ đất nước hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh.

 

Thắp nến Diêm Phù xin châm lửa Tuệ

Trầm hương dâng, xin ngát Pháp Hoa tâm

Đàn con thơ thống thiết vọng hồng ân

Lễ Thành Đạo xin chuyển vần Xe Pháp.

Lạy Từ Phụ! quê hương con đổ nát

Vì Tham Kiêu đã khoác lốt cuồng chinh

Hai mươi năm thây chất bởi vô minh

Tưởng Tiên Dược đem Trường Sinh Bất Tử:

Chủ nghĩa này trưng chiêu bài, đưa nhủ!

Ý thức kia “Đời nguyên tử” khoe trao!

Năm tiếp năm vết Đạn xoáy Bom cào,

Ngày tiếp tháng Núi Sông gào “Độc Dược”!

Lạy Từ Phụ! xin ban niềm mộng ước

Bóng Thanh Bình làm linh dược hồi sinh.

 

Thi sĩ Tâm Tấn là người thân cận với chư tôn túc lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam từ thập niên 1950, khi bà được Cố Hòa Thượng Thích Trí Quang mời cộng tác cho báo Liên Hoa tại Huế. Rồi sau đó bà cộng tác với báo Bát Nhã của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Vì vậy cuộc đời của thi sĩ gắn liền với vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam từ đó về sau. Trong biến cố nhà Ngô đàn áp Phật Giáo vào năm 1963, thi sĩ Tâm Tấn đã là một trong những nhân chứng sống. Trong bài thơ Ác Mộng viết vào ngày 16 tháng 8 năm 1963, nghĩa là 4 ngày trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm tổng tấn công vào chùa chiền trên toàn quốc, bà đã ghi chú ở cuối bài thơ rằng, “Vừa khóc vừa làm trong đêm 16/08/1963.”

 

Bạn ơi, bạn ơi! núi vun mây hận

Đất phương này sấm động náo tâm tư.

Vừng Từ Vân khuất lấp bởi sương mù,

Hoa Tinh Tấn dập vùi trong bão chướng.

Kinh ngạc sững sờ hồn không định hướng

Ngẩng nhìn cao tìm dấu vết Từ Vân.

Bắc Đẩu tinh phương chiếu rạng tinh thần

Vầng nguyệt từ bi biến mờ đâu cả!

 

Trong bài Áo Vàng Bất Diệt, thi sĩ kể tình hình Phật Giáo vận động cho tự dobình đẳng tôn giáo năm 1963 như sau.

 

Phật Giáo Tăng Ni, tín đồ tranh đấu

Thiết tha đòi Năm Nguyện Vọng thuần từ.

Nạn độc tài vận nước lúc suy hư,

Giáo Kỳ trưng lên, Giáo Kỳ triệt hạ!

Nhìn Thầy tuyệt thực, nắng sương đỏi lả,

Rồi nghe tin Thượng Tọa tự thiêu mình

Và  Sa Di, Đại Đức tiếp hy sinh

Lửa Tử Đạo bừng bừng trong ánh mắt.

 

Khép tập thơ lại. Lòng tôi dâng lên niềm cảm thán và kỳ thú. Cảm thán vì đọc được những bài thơ chứa chan tình đời nghĩa đạo. Kỳ thú vì không ngờ một người “chưa từng cặp sách đến trường” – như nhà văn Vĩnh Hảo đã viết trong lời đầu tập thơ – mà có thể có được kiến vănchữ nghĩa bác lãm và uyên thâm như thế. Đây quả thật là một sự hiếm có. Tôi tự giải thích cho chính mình với hai nhân duyên. Thứ nhất là nỗ lực phi thường của chính thi sĩ Tâm Tấn trong việc tự học trong đời này. Thứ hai là bà vốn có một thiên tư trí tuệ đặc dị mà không phải ai cũng có, nếu không muốn nói là bà mang chủng tử trí tuệ từ nhiều kiếp trước đến đời này. Điều này làm cho tôi rõ lý do tại sao thi sĩ đã nhiều lần nhắc đến ước nguyện trở về cố hương Chân Như trong trong tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.” 

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

 

Xin kính cảm ơn thi sĩ Tâm Tấn. Nhân tuần chung thất của bà, xin cầu nguyện bà sớm hoàn thành ước nguyện.

 Tap tho CUOI DOI LOC NHUNG TINH SUONG

Bìa tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3932)
Vùng kia có một ông tăng Giỏi nghề họa sỹ nên thường vẽ thuê Tiền công tính đắt khỏi chê Khách hàng trả trước, khó bề thiếu ông
(Xem: 3474)
Bát quan trai giới xuất gia, Một ngày trọn đủ ngọc ngà sánh chi, Gieo duyên tu Pháp từ bi, Tám điều giới cấm tường tri rõ ràng.
(Xem: 4807)
Tu hành biếng nhác mãi thôi Cho nên vẫn bị luân hồi tử sanh, Rồi than Phật chẳng độ mình Trách luôn Phật Pháp chẳng linh, chẳng mầu!
(Xem: 6229)
Rời xa lậu nghiệp chớ làng nhàng, (*) Tham ái thêm nhiều khổ lụy mang. Việc đến luôn chăm tâm chẳng buộc, Chuyện qua mãi khuất dạ không ràng.
(Xem: 3721)
Trùng dương biển thắm gió ngàn khơi, Ánh giác rạng soi ngập đất trời. Trực nhận chơn tâm xa bể đắm, Hằng nghe diệu pháp cạn châu rơi.
(Xem: 6172)
Cảm Đức Từ Bi phước lớn Một lòng hướng Phật chuyên tu Xoá tan cuộc đời tăm tối Mở tung cánh cửa ngục tù.
(Xem: 4920)
Ngày xưa có một ông sư Ngồi thiền tinh tấn, rất ư chuyên cần Nhiều năm tu tập qua dần Một ngày trong lúc chú tâm ngồi thiền...
(Xem: 3022)
Hiểu rõ luôn vui cùng chốn ấy… Thôi thì hổng giận cả trần đây… Như làn gió mỏng, duyên đà trẩy… Cầu nguyện đường về thẳng hướng Tây…
(Xem: 3172)
Ôi ! Người Mẹ của tôi Bốn ngàn năm nổi trôi Sụt sôi lòng căm hờn Thù ngoài cùng giặc trong
(Xem: 5019)
Bóng cha xưa dưới bầu trời nắng sớm Như thiên thần đang dạo giữa cõi tiên Và quê hương rất đẹp cảnh thiên nhiên Có những cánh đồng thơm mùa lúa trổ
(Xem: 5092)
Ở trong tịnh xá Kỳ Hoàn Nơi thành Xá Vệ hương ngàn thênh thang Cỏ cây rực rỡ ánh vàng Phật ngồi thuyết pháp cho hàng chư Thiên.
(Xem: 5509)
Bát cơm chén nước mẹ trao Nuôi con khôn lớn công lao dưỡng từ Cuộc đời mẹ chẳng gì dư Bao năm khổ cực không từ gian nan .
(Xem: 3748)
Bao mùa lá rụng vẫn buồn thê, Giọt nắng lung linh gợi nhớ về. Bỏ hết xuân thời Mẹ nỡ kể, Theo cùng tuổi hạc Người còn lê.
(Xem: 3548)
Mấy thu con chưa gặp mẹ, Lòng nghe buồn mênh mông, Ở đây cuộc đời sôi động, Sầu dâng nghiêng ngã trong lòng
(Xem: 3930)
Nhớ về cha, một buổi chiều, Bôn ba thân hạc dắt dìu các con, Kỷ niệm xưa nhớ mỏi mòn, Hoa rơi nước chảy đưa con về nguồn
(Xem: 5253)
Tình yêu của Mẹ tuyệt vời Như hòn đảo giữa biển đời mênh mông Biển bao la, rộng muôn trùng.
(Xem: 4425)
Sống chỉ là tạm gởi Chết mới thật trở về Ta về nơi cửa Phật Bỏ lại đời nhiêu khê .
(Xem: 4991)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 5195)
Khỉ kia nhiều vợ, lắm con Thuở xưa tụ họp ở luôn vùng này Thật là đông đúc vui vầy Khỉ cha cai trị cả bầy từ lâu
(Xem: 4495)
Mẹ Quan Âm muôn đời cứu khổ Biết ơn Ngài ta lắng lòng nghe Dù cho gió cuốn mây che Niệm Ngài nhớ mãi thuyền ghe đến bờ .
(Xem: 4831)
Thân tướng đẹp cuộc đời Thầy lại ngắn Nét tươi cười rộng đẹp cả con tim Thế gian này đâu phải dễ kiếm tìm Bậc Thiền Đức sống tu hành tịnh vắng .
(Xem: 5199)
Tâm ta đẹp do tu mà có Trải rộng lòng đừng khó làm chi Tự mình cất bước mà đi Thoát vòng mê chấp sầu bi chẳng còn .
(Xem: 4293)
Xưa rời cung điện ra đi Giờ đây thành đạo trở về thăm cha Hai mươi năm thoáng trôi qua Quê hương Đức Phật Thích Ca đón người
(Xem: 7025)
Tu tâm hiển hiện, ánh vàng sen, Chướng nghiệp lìa xa, lặng đảo điên. Mù khử, hận tiêu, tâm định tĩnh, Đục trừ, sân hết, ý an yên.
(Xem: 9640)
Nàng thu vừa gõ cửa Chân rón rén qua thềm Đêm qua hồn hoa cúc Cựa mình tạ từ sen.
(Xem: 4569)
Tiền thân Đức Phật một thời Từng là chú khỉ sống nơi khu rừng Thân hình to lớn hào hùng Xiết bao mạnh mẽ, vô cùng thông minh,
(Xem: 3342)
Bảy mươi năm, những thăng trầm dâu bể, Thầy vẫn đi, mang đuốc tuệ sảng soi, Giáo Pháp truyền trao, mệt mỏi chẳng nàn, Để gần gũi chúng con hàng Phật Tử.
(Xem: 4608)
Mùa An Cư Tăng Ni hội tụ Hướng tâm về giới hạnh trang nghiêm Chuyển đưa giáo pháp con thuyền Y vàng thanh tịnh kết duyên thiện lành .
(Xem: 6890)
Tình cha cao vời vợi, Như núi Thái non bồng. Như trời cao thăm thẳm, Giữa vũ trụ mênh mông.
(Xem: 5765)
Ta là ai mà xem thường quả báo Ngày qua ngày tạo nghiệp bất thiện thôi Rồi vướng trong vòng cuốn của luân hồi Khổ càng khổ ôi muôn ngàn đau khổ .
(Xem: 5065)
Tôi muốn sống ở tuổi đời còn lại Nương con thuyền Bát Nhã vượt bờ mê Bao bão to sóng gió cũng chẳng hề Lòng kham nhẫn không bao giờ lùi bước .
(Xem: 4310)
Thiền sư hướng dẫn học thiền Bao nhiêu đệ tử khắp miền về đây Một anh chàng trong nhóm này Đêm thường lén dậy chuồn ngay ra ngoài
(Xem: 4701)
Thời gian lẳng lặng thoi đưa Thoắt qua thoắt lại bốn mươi năm vừa Nhớ lại ngày ấy năm xưa Một chín bảy bảy đẩy đưa xứ người
(Xem: 9036)
Lâu rồi chẳng thấy Tịnh Viên đâu. Có phải tơ duyên chuyển niệm đầu ? Nhớ thuở sum vầy nơi cửa trước, Hoài khi vắng vẻ chốn vườn sau.
(Xem: 4528)
Xin các Ngài hãy cùng nhau cứu xét Mở rộng lòng ngàn con trẻ đáng thương Đem tình yêu thắp sáng một con đường Cho các cháu cả niềm vui đoàn tụ .
(Xem: 4358)
Một lời nói thiếu lòng từ ái Đêm về nằm ngủ chẳng thấy yên Khi lòng thất niệm đảo điên Biết bao đau khổ não phiền khởi lên .
(Xem: 4631)
Bố thường ít nói: “Yêu con!” Mặc dù tình cảm sẵn luôn tràn đầy Tuy nhiên đôi chữ nhỏ này Rất là khó nói để thay tiếng lòng.
(Xem: 4029)
Cha chúng tôi rất nhọc nhằn Tay luôn làm lụng, tâm hằng lo toan Tạo cho cuộc sống chu toàn Chúng tôi được hưởng bình an vô cùng.
(Xem: 4584)
Bà kia bồng đứa con thơ Dừng chân hóng mát bên bờ hồ sen Thấy tay con trẻ lấm lem Mẹ bèn múc nước hồ đem rửa liền
(Xem: 4939)
Tôi có một dòng máu Theo suối từ triền non Luân lưu dòng Lạc Việt Xuôi chảy hòa biển Đông Tôi có một mầu da Đượm vàng đất phù sa Giải giang sơn chữ S Ơn dựng nước Ông Cha
(Xem: 9363)
Cuộc đời ai cũng như ai Ai ăn thì nấy được đầy bụng no Đừng vay thì chẳng phải lo Tháng ngày thư thái đắng đo chẳng còn .
(Xem: 4985)
Ra đi lòng vẫn muốn về Thăm ngôi chùa cũ tràn trề nắng mưa Hàng cây bụi chuối đong đưa Mẹ già ngồi ngắm ruộng dưa chín mùa .
(Xem: 4092)
Đệ tử Phật vẫn một lòng thẳng tiến Luôn bảo tồn hình tượng Phật trang nghiêm Cuộc đời Ngài bi trí đủ uy nghiêm Xin nhớ rõ đừng mang tâm phỉ báng .
(Xem: 5427)
Sơ sanh bảy đóa sen nâng Phật từ Đâu Suất giáng trần độ sinh Mười phương trời đất chuyển mình Cùng hoà âm nhạc đón trình Như Lai
(Xem: 5537)
Trang sách quý nghĩa tình thêm cao quý Từ tấm lòng dâng hiến đạo huyền sâu Tuổi đã cao mà tâm trí vẫn tiếp thâu Nguồn Phật Pháp nhiệm mầu qua tu tập .
(Xem: 5595)
Dương trần đã xuống chịu nhiều đau, Mãi lộn theo vòng chẳng biết đâu? Hiểu rõ vong tồn như bụi khói, Nom tìm được mất chỉ tằm dâu.
(Xem: 4694)
Ngày xưa có một bầy nai Cùng nhau vui sống giữa nơi non ngàn Nai già khả kính, khôn ngoan Lại thêm khéo léo, giỏi giang, làm thầy
(Xem: 10218)
Bàn tay diệu pháp Phật trao Là dòng trí tuệ khổ đau chẳng còn Thong dong trời biển nước non Như tình mây nước trăng tròn sáng trong .
(Xem: 6558)
Quê hương mưa nắng dậm trường Gánh gồng mẹ Việt trên đường nuôi con Bây chừ con đã lớn khôn Bỏ quên bà Mẹ lưng còm vai cong .
(Xem: 6359)
Quê hương tôi hai mùa mưa nắng Bao cảnh đời cách biệt quá xa Người thì giàu có xa hoa Kẻ thì rau muối cũng qua tháng ngày .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant