Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Bước Thăng Trầm Của Phật Giáo Tây Tạng Thế Kỷ IX

07 Tháng Sáu 202119:49(Xem: 3204)
Những Bước Thăng Trầm Của Phật Giáo Tây Tạng Thế Kỷ IX
Những Bước Thăng Trầm Của Phật Giáo Tây Tạng Thế Kỷ IX

Thích Nữ
Tâm Liên

Không Vướng Mắc

Phật giáo Tây Tạng đã trải qua những thời kỳ thăng trầm gắn với những biến cố lịch sử làm thay đổi đời sống con ngườixã hội. Đặc biệt, vào khoảng thể kỷ thứ IX, vị vua Tây Tạng thứ 39 là Lãng Đạt Ma đã đàn áp Phật giáo một cách khốc liệt, khiến Phật giáo Tây Tạng rơi vào pháp nạn nguy khốn.

BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA PHẬT GIÁO KHI TRUYỀN VÀO TÂY TẠNG 

Các nhà nghiên cứu thống nhất Phật giáo du nhậptruyền bá vào Tây Tạng vào giữa thế kỷ thứ VII, khoảng năm 641 dưới sự trị vì của vua Songtsen Gampo (629-649) [1] – người đầu tiên trong ba vị vua hộ trì Phật pháp (hai vị còn lại là Tri Songdétsen và Relbachen). Songtsen Gampo được xem là hóa thân của bồ tát Avalokitesvara, người đã tái sinh làm vua để tiếp tục truyền bá giáo pháp, đưa Tây Tạng trở thành cường quốc ở Trung Á [2].

Đến đời Tạng vương thứ 35 là vua Tridé Tsuktsen (705-755), ông tiếp nối con đường của thiên Tổ để xiển dương Phật pháp. Triều đại của ông đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng khi cử một số vị đại thần sang Trung Hoa tu học Phật pháp, cũng như thỉnh Tăng sĩ Trung Hoa vào Tây Tạng để hoằng pháp. Việc thứ ba là xây dựng 7 trung tâm làm nơi lưu trú cho Tăng sĩ từ các tiểu quốc Trung Á sang Tây Tạng lánh nạn binh đao.

Sau khi ông qua đời, phe cánh Bổng giáo làm cho Phật giáo ngưng trệ. Đồng thời, các phe phái bài xích Phật giáo, thậm chí pháp luật do triều đình ban hành cũng không tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Nhiều Tăng sĩ bị trục xuất, các tượng PhậtTây Tạng phải di dời đến Nepal, các tu viện biến thành lò mổ gia súc và quán bán thịt, cấm mọi hoạt động sinh hoạt đại thể liên quan đến Đạo Phật. Đây là pháp nạn đầu tiên của Phật giáo kể từ lúc du nhậptruyền bá vào Tây Tạng.

Đến thời vua Cật Phiêu Song Đề Tán (755-797) đã có những đóng góp to lớn và giúp Phật giáo đi từ ngưng trệ đến giai đoạn phát triển cực thịnh. Nhà vua bảo hộ và đặt nền tảng cho sự hưng thịnh của Phật giáo giai đoạn này. Một trong những sự kiện nổi bật dưới thời của ông là thỉnh mời các Tăng sĩ nước ngoài đến Tây Tạng để hoằng pháp. Điều này là nền tảng xây dựng truyền thống Phật giáo đúng nghĩa thời bấy giờ. Từ khi du nhập giữa thế kỷ thứ VII cho đến thời kỳ vua Cật Phiêu Song Đề Tán, mặc dù Phật giáo đã được truyền bá rộng rãi đến mọi tầng lớp xã hội và hình bóng Tăng sĩ cũng có mặt tại Tây Tạng, nhưng để hình thành một cộng đồng Tăng sĩ có đời sống sinh hoạt tu học đúng với truyền thống Phật giáo như ở Trung Hoa, Ấn Độ thì Phật giáo Tây Tạng chưa thực hiện được. Mãi đến thời vua Cật Phiêu Song Đề Tán, việc sinh hoạt của Tăng sĩ mới có hệ thống rõ ràng, đúng với truyền thống một số quốc gia Phật giáo điển hình.

Đến thế kỷ thứ IX, Tây Tạng có một vị vua trở thành hộ pháp Phật giáo là Ralpacan (815-836) – vua thứ 41 của vương triều Yarlung. Ông không nuôi dưỡng âm mưu đánh phá các lãnh thổ gần Tây Tạng để mở rộng biên giới như một số vị vua trước, mà đặt vấn đề ổn định vương quốc là ưu tiên hàng đầu. Dưới sự trị vì của ông, các hoạt động Phật giáo nổi bật là dịch thuật kinh sách một cách bài bản với nhân lực dồi dào và chuyên môn cao, gồm người nước ngoài đến từ Nepal, Ấn Độ, Trung Hoa, kết hợp với các nhà trí thức trong nước giỏi về nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngôn ngữ, văn phạm. Vua cho mở dịch trường, ban hành chế độ ưu đãi Tăng già. Tất cả đều phát xuất từ niềm tin và sự thành kính của nhà vua đối với Tam bảo. Đây là thời kỳ Phật giáo hưng thịnh, các hoạt động phiên dịch kinh sách và giao lưu Tăng sĩ được coi trọng.

Tuy nhiên, vua Ralpacan bị Langdarma (836-842) ám hại để cướp ngai vàng. Sau khi lên ngôi, Langdarma cổ xúy ủng hộ Bổng giáo. Do đó, quân vương mới đã ban hành sắc lệnh triệt hạ Phật giáo vô cùng tàn khốc: “Ông cấm chỉ việc dịch kinh thiêu đốt kinh điển, phá huỷ chùa chiền và tượng Phật, ra lệnh bắt Tăng lữ phải hoàn tục, cưỡng bức họ phải làm nghề đồ tể và săn bắn. Phàm vị Tăng nào dám bất tuân mệnh, đều bị giết hại. Nhà vua đã thi hành mọi việc cực kỳ bạo ngược. Cả sự nghiệp mà vua Đề Tán và vua Lại Ba Thiệm xây đắp trong vòng 100 năm, trong một sớm đã bị phá sạch” [3]. Năm 842, Langdarma bị ám sát, tình hình chính trị – xã hội Tây Tạng rơi vào rối ren.

Phật giáo Tây Tạng trong giai đoạn tiền truyền, với sự nỗ lực hoằng truyền của hai cao Tăng Ấn Độ là Ngài Tịch HộLiên Hoa Sanh cùng một số Tăng sĩ khác, đã chứng kiến sự thăng trầm với các nguyên nhân nội sinh và ngoại lực tác động, xuất phát từ những vấn đề xã hội phức tạp của Tây Tạng bấy giờ.

MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN PHẬT GIÁO TÂY TẠNG SUY TÀN

Diễn trình lịch sử phát triển Phật giáo trải qua những giai đoạn thăng trầm khác nhau. Có những giai đoạn Phật giáo cực kỳ phát triển và hưng thịnh, nhưng cũng có giai đoạn Phật giáo lâm vào pháp nạn hết sức điêu tàn, kéo dài hàng trăm năm. Phật giáo Ấn Độ đã có lịch sử rất lâu đời (từ thời Đức Phật vào thế kỷ VI – V Trước Công Nguyên), nhưng đến thế kỷ thứ XII, Phật giáo bắt đầu suy tàn và gần như vắng bóng trong văn hóa tâm linh Ấn Độ.

Phật giáo Tây Tạng cũng chịu pháp nạn tương tự từ thay đổi chính trị – xã hội. Khi Tạng Vương thống nhất đời thứ 30 là Khí Tông Lộng Tán còn gọi là Tùng Tán Cang Bố (Sro-btsan-sgam-po) lên ngôi, đất nước Tây Tạng hưng thịnh. Ông cùng với hai người vợ [4] cổ vũ Phật giáo, truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng vào thế kỷ thứ VII. Trải qua trăm năm, Phật giáo gặp phải pháp nạn lớn thời Lãng Đạt Masuy yếu. Theo tác giả, sự suy vi này xuất phát từ cả nguyên nhân nội sinh và tác động của ngoại lực.

NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ NỘI TÌNH CỦA PHẬT GIÁO

Dưới thời trị vì của vua Ralpacan, Phật giáo chi phối toàn bộ đời sống xã hội chính trị đất nước Tây Tạng. Nhưng đằng sau sự phát triển đó vẫn tồn tại những mặt tiêu cực. Bởi sự ủng hộ, sùng bái của vua Ralpacan nên Tăng già thời bấy giờ được nhiều ưu đãi. Trong Tăng đoàn xuất hiện một số thành phần bất hảo và chính sự tồn tại của các Tăng sĩ bất hảo này đã trở thành đối tượng bị công kích bởi những người không có niềm tin với Phật giáo. Hình ảnh của Tăng đoàn bị tổn hại, quần chúng mất niềm tin vào Tam bảo.

Việc nhà vua cho phép Tăng già thu thuế thập phân cũng khiến nhân dân bất bình. Lịch sử Phật giáo Tây Tạng viết: “thường dân trong bảy hộ chịu trách nhiệm cúng dường cho một vị Tăng” [5] tức 7 hộ gia đình nuôi dưỡng một vị Tăng là một điều chưa có tiền lệ. Điều đó đã thu hút những tầng lớp bất hảo của xã hội vào chùa để được hưởng nhiều quyền lợi. Sự gia tăng số lượng Tăng sĩ đã trở thành gánh nặng cho người dân. Trong chính sách của mình, vì nhà vua quá ưu ái Phật giáo mà không chú ý sâu sắc đến tình cảnh kinh tế, sự phân hóa trong xã hội bấy giờ nên trở thành một thiên kiến, không mang lại lợi ích đồng đều của các bên trong chính giới Tây Tạng. Không phải ai cũng ủng hộ Phật giáo. Một số người chỉ ủng hộ Phật giáo vì tuân phục quyền lực của nhà vua. Một bộ phận Tăng sĩ lợi dụng chính sách ủng hộ của triều đình đã tạo ra tệ nạn trong xã hội. Đấy là những nguyên nhân nội tại đưa đến pháp nạn Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ IX.

TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỪ BÊN NGOÀI 

Chính sách ưu đãi Tăng già quá lớn của vua Ralpacan động đến truyền thống tín ngưỡng Bổng giáo, từ đó gia tăng mâu thuẫn giữa tín đồ Bổng giáo với Phật giáo. Điều đó dẫn đến sự chống đối của tín đồ Bổng giáo, đứng đầu là những quan lại trong triều đình theo truyền thống này. Họ trở nên kỳ thị Phật giáo, chống đối để bảo vệ quyền lợiđức tin, vì bản thân những tín đồ Bổng giáo đã giữ gìnduy trì tôn giáo bản địa vốn gắn kết với người Tây Tạng lâu đời, nhưng không được bất kỳ sự ưu đãi nào từ nhà vua. Sự xung đột chính trị và tôn giáo bấy giờ đã tác động không nhỏ tới Lãng Đạt Ma – người em của vua Ralpacan. Bản thân Lãng Đạt Ma cũng là tín đồ của Bổng giáo [6] nên bị thành phần phe phái trong truyền thống Bổng giáo xúi giục ám hại vua Ralpacan để cướp ngôi.

Sau khi lên ngôi, Lãng Đạt Ma cổ xúy ủng hộ Bổng giáo, cùng với sự tác động của các quan đại thần phe phái Bổng giáo, Lãng Đạt Ma đã ra sức bức hại Phật giáo một cách tàn khốc. “Chính sách tiêu diệt của Lãng Đạt Ma khiến cho Phật giáo Tây Tạng rơi vào tình cảnh khốn đốn, Phật giáo không những được triều đình bảo trợ như trước đây mà tài sản chùa cũng bị tịch thu, trưng dụng, Giáo hội bị đặt ngoài vòng pháp luật, bị phân tán. Thiêu đốt toàn bộ kinh sách, chùa chiền, tượng Phật bị phá hoại, bài phá Đạo Phật suốt năm năm. Lãng Đạt Ma còn bắt Tăng chúng hoàn tục làm nghề mổ thịt [7]. Gần như mọi công trình Phật giáo mà các Tạng vương đời trước gầy dựng bị tiêu diệt hoàn toàn trong tay Lãng Đạt Ma. Sau khi Lãng Đạt Ma bị thích sát, Tây Tạng rơi vào cảnh nội chiến kéo dài hàng trăm năm làm cho đời sống người dân vô cùng cơ cực. Phật giáo khi ấy rơi vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng, sự pha trộn với tín ngưỡng mê tín Bổng giáo, giáo pháp không còn được hiểu một cách đúng đắn và phương thức hành trì cũng bị sai lệch, dẫn đến Phật giáo Tây Tạng suy vi.

Phật giáo Tây Tạng đã trải qua thời kỳ lịch sử đặc biệt, đi từ hưng khởi đến suy vi là do nhiều nguyên nhân cùng kết hợp. Từ kinh nghiệm lịch sử này, hậu thế có thể rút ra được bài học quan trọng cho sự nghiệp tu họchoằng dương Phật pháp.

 

Chú thích:

[1] Đức vua Songtsen Gampo (629-649) – người kiến lập nên vương quốc Tây Tạng và là một trong ba vị Pháp Vương đầu tiên của Tây Tạng; là vị vua đời thứ ba mươi ba trị vì triều đại Yarlung.
[2] John Powers (2007), Introdution of Tibet Buddhism, Snow Lion, Revised Edition.
[3] Pháp sư Thánh Nghiêm, Pháp sư Tịnh Hải, Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới, Nxb Khoa học xã hội, tr.294.
[4] Công chúa Văn Thành (Trung Hoa thời nhà Đường) – Công chúa Ba Lợi Khố Cơ (Nepal).
[5] Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch (2013), Lịch sử Phật giáo Tây Tạng, Nxb Phương Đông, tr.85.
[6] Thích Thánh NghiêmTịnh Hải (2008), Lịch sử Phật giáo thế giới, Nhóm biên dịch, Nxb Khoa học xã hội, tr.294.
[7] Trần Quang Thuận (2015), Phật giáo trong dòng lịch sử văn hoá Tây Tạng, Nxb Hồng Đức, tr.164.

(Văn Hóa Phật Giáo Số 365)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12214)
Người đi sông núi im lìm, Mà nghe xao xuyến tận miền tâm tư.
(Xem: 13642)
Tôi mơ có ngày, Trời trong mây trắng, Lòng thênh thênh, Chuông ngân, Ánh đạo an bình ...
(Xem: 15217)
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn, cây khế đồi cao trổ hết bông - Phạm Công Thiện
(Xem: 12808)
Lãng tử phiêu bồng không chỗ trú Không chốn dung thân giữa phong trần Nên đi thỏa thích trời vô định...
(Xem: 14503)
Ngài Pháp Tạng Bồ-tát Thề nguyện lúc tu nhơn Tâm từ bi đại lực Thương muôn loài chúng sanh.
(Xem: 12572)
Quanh tôi giọng cười con trẻ Vô tư rộn rã tiếng chim Nụ cười ngây thơ đến lạ Mắt tròn da mịn mùa xuân
(Xem: 13197)
Quanh tôi giọng cười con trẻ Vô tư rộn rã tiếng chim Nụ cười ngây thơ đến lạ Mắt tròn da mịn mùa xuân
(Xem: 25882)
Quê nghèo ơi dẫu gió sương Mãi thơm ngọt mát vấn vương hồn người Nuốt tiếng nấc, nở nụ cười...
(Xem: 26289)
Chưa tan vỡ cũng đầy nứt rạn Khi hồn không mái ấm yêu thương Khi nỗi nhớ không nơi an trú...
(Xem: 27554)
Từng bước đi trong gió chiều lồng lộng Như tìm về sự thật rất xa xăm… Phật soi đường bằng Giáo Pháp diệu thâm
(Xem: 16700)
Sự chia sẻ, có cần gì phải nói lời cao xa có cần gì phải bông lung, hư ảo...
(Xem: 20773)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21297)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 24384)
Cảm ứng tùy thời thị hiện ngay Nước sôi lửa bỏng khổ oan đày Chuyên tâm cầu nguyện toàn tâm tưởng...
(Xem: 23589)
bông linh trang sáng nay bên triền cát trắng duỗi dài vô tận thảng thốt và bần thần...
(Xem: 28511)
lạy phật con xin sám hối nếu đời nầy còn mắc tội tiền thân tuy tự xét mình chẳng làm chi nên tội hay có tội ngập đầu mà ký ức quên chăng...
(Xem: 24448)
Nơi anh về, thời gian như đứng lại, Bơ vơ buồn, hoang vắng chảy trong tim, Dòng nước mắt tuôn dài trên đôi má...
(Xem: 36240)
Tìm em trên cánh đồng Oải Hương, Đất trời bát ngát một mùi thơm, Anh ơi những cánh hoa màu tím, Đã rủ em về từ tháng Năm.
(Xem: 23252)
Bước chân trần hóa ngọc Núi – lửa thiêu xanh ngời Phương Đông mặt trời mọc Sáng tỏa vạn trùng khơi
(Xem: 25068)
khu phố này một mùa đã qua quen thuộc con đường, không tên để nhớ...
(Xem: 24000)
Từ lúc sinh ra thơ luôn chung thủy với đời nên cũng chẳng muốn ai đẩy thơ lên tận trời cao xa mù mịt...
(Xem: 27408)
Khói mây liễu mộng, ngoại trần chơi Trăng nước hoa gương, gẫm lại cười Nhân ái đề huề, sao tỏ rạng...
(Xem: 27022)
Hòa cùng tất cả Mà vẫn một mình Cháy hồn ngọn lửa Bừng sáng quang minh
(Xem: 24851)
cánh rất mỏng chim đường bay rồi chẳng tới bởi mù sa hớt hải đuổi bên chân
(Xem: 16520)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vời mà mùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 26933)
Lá xanh cõng nắng sang mùa Phất phơ sương khói hiên chùa gọi nhau Làm thơ, hoa cỏ chụm đầu...
(Xem: 25910)
Dừng bước nhìn mây bốn phía trời Tiếng chim nào vừa đậu xuống lòng tôi Ngùi trong lửa bếp tan trong nắng...
(Xem: 22643)
Nhịp chày con giã trái tre Ngoại sàng lọc sỏi tái tê tuổi già Trăng khuya rọi sáng hiên nhà...
(Xem: 25319)
Đêm chớm lạnh ai ru hồn trong gió Vi vu vi vu xác lá thông rơi Trăng đơn lẻ trăng mờ trong hư ảo...
(Xem: 24736)
Ta làm kẻ hành khất đi qua miền khổ lụy chỉ xin trần gian lưng chén cơm ăn...
(Xem: 23846)
Chiều vắng lặng không một lời của gió Không âm u lảng vảng chút mây trôi Lòng trăn trở trời tuôn cơn nắng...
(Xem: 22940)
Đường của thơ là đầm đìa cát bụi Vùi nắng mưa sấm chớp bão bùng Và khơi mở dòng đời từ vô thủy...
(Xem: 28281)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 29255)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 22671)
Một cơn gió nhẹ thoảng qua Dễ đưa ta đến lìa xa cõi đời Để kết thúc một kiếp người Mong manh như giọt sương rơi đầu cành!
(Xem: 22257)
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui Chuyện đời như nước chảy hoa trôi Lợi danh như bóng mây chìm nổi Chỉ có tình thương để lại đời
(Xem: 22562)
Tàn khuya gió giục Quẫy rột màn đêm Thềm sương sao rụng Rưng rức gọi hồn.
(Xem: 20027)
Hào quang rạng tỏa đất trời Pháp thân hiện trú rạng ngời oai nghi Bốn loài nhất niệm quy y Bổn sư Từ Phụ Mâu Ni đạo thành
(Xem: 22049)
Ngọn nến hồng trong đêm thắp sáng một niềm tin ôi, mắt buồn thơ dại!
(Xem: 21757)
Tôi về, nhặt nụ hoa tâm Nở trên ruộng phước bao lần em gieo Cõi nhân gian, sóng cuồng reo...
(Xem: 30115)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 22063)
Tuyết chiều Muôn cánh hoa rơi mùa tan tác rụng trên đồi nguyên xuân...
(Xem: 30174)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 30411)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 21427)
Giêng xanh cỏ mượt chân trời Giêng xanh nguyệt lộng ngập ngời Nguyên Tiêu Giêng xanh thơm một lời yêu...
(Xem: 28337)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 21061)
Dường như ai đi ngang cửa, Hay là ngọn gió mải chơi? Chút nắng vàng Thu se nhẹ...
(Xem: 20012)
Hôm ấy vào ngày hoa sen nở, Lòng tôi lơ đãng lạc phương nao? Trên tay giỏ hoa dường trống rỗng...
(Xem: 20946)
Người về nhẹ khép cửa sài Quanh co lối gió trăng cài ngậm sương Níu mây hỏi chuyện vô thường...
(Xem: 20269)
Dốc cao lũng thấp cheo leo Xăm xăm một niệm bước vèo …nhẹ tênh… Sân thiền cỏ mượt chân êm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant