Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí Huệ Là Thường Tự Thấy Lỗi Mình

09 Tháng Tư 202318:29(Xem: 1386)
Trí Huệ Là Thường Tự Thấy Lỗi Mình

Trí Huệ Là Thường Tự Thấy Lỗi Mình


Lục Tổ Huệ Năng

Nguyễn Thế Đăng

Vài Suy Nghĩ Về Thiền Phái Trúc Lâm Trong Bức Tranh Phật Giáo Việt Nam



1/ Trí huệ thường quán chiếu

Trong những bài thuyết pháp, Lục Tổ Huệ Năng nói nhiều đến thấy tánh, trí huệ Bát nhã… nhưng ngài cũng nói nhiều đến lỗi, những phiền não như ghen tỵ, tham sân, đố kỵ, ngã mạn...

Trí huệ Bát nhãbản tánh, là tự tánh của chúng sanh, “người đời vốn tự có”:

Thế nên biết rằng bản tánh tự có trí Bát nhã, bản tánh ấy tự dùng trí huệ thường quán chiếu, cho nên chẳng cần mượn đến văn tự. Cả thảy sông ngòi đều chảy vào biển cả, hợp thành một thể. Trí Bát nhãbản tánh của chúng sanh lại cũng như vậy.

Người tiểu căn nguyên có trí Bát nhã, không khác biệt với người đại trí, mà do sao nghe pháp lại chẳng tỏ ngộ? Do là sự che chướng của tà kiến còn nặng, gốc rễ phiền não ăn sâu, giống như đám mây lớn che khuất mặt trời, không có gió thổi tan thì ánh sáng mặt trời không hiện”.

(Phẩm Trí Huệ)

Hành trí huệ là không để mây vọng niệm che chướng mặt trời trí huệ:

Tất cả nơi chốn, tất cả thời gian, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí huệ tức là hạnh Bát nhã. Một niệm ngu tức là Bát nhã tuyệt, một niệm trí tức Bát nhã sanh.

Thiện tri thức! Trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết bản tâm mình. Nếu rõ bản tâm tức là vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát nhã tam muội. Bát nhã tam muội tức là vô niệm.

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết hết thảy pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám tất cả chỗ. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, thông dụng không trệ, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm”.

(Phẩm Trí Huệ)

2/ Lỗi là gì?

Lỗi là “duyên theo tâm mê”, một niệm ngu”, “tà kiến phiền não”.

Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ

Lỗi là tâm tà, phiền não, độc hại, hư vọng, trần lao, tham giận, ngu si:

Mê muội tự tánh tức là chúng sanh. Giác ngộ tự tánh tức là Phật. Từ bi tức Quan Âm, hỷ xả gọi là Thế Chí, thường tịnh tức là Thích Ca, bằng thẳng tức là Di Đà.

Nhân ngãnúi Tu di, tâm tà là nước biển, phiền não là sóng lớn, độc hại là rồng dữ, hư vọngquỷ thần, trần lao là cá mập, tham giận là địa ngục, ngu sisúc sanh.

Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì thiên đường liền đến, trừ nhân ngã thì núi Tu di sụp, bỏ tâm tà thì nước biển cạn, không phiền não thì sóng lớn diệt, độc hại trừ thì cá rồng tuyệt.

Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời Lục dục. Tự chiếu bên trong ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến cõi kia được”.

(Phẩm Nghi vấn)

Trí huệ là thường quán chiếu tự tâm, dứt ác làm thiện, để tự mình khai mở cái thấy biết của Phật (Phật tri kiến):

Người đời tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng nói thiện tâm nghĩ ác, tham giận, ghen ghét, dối nịnh, ngã mạn, lấn người hại vật, ấy là tự mình khai mở cái thấy biết của chúng sanh. Nếu có thể chánh tâm thường sanh trí huệ, quán chiếu tự tâm, dứt ác làm thiện, ấy là tự mình khai mở cái thấy biết của Phật”.

(Phẩm Cơ duyên)

Quán chiếu tự tâm, tự tánh, là thực hành trí huệ:

Ba là Huệ hương, tâm mình không bị ngăn ngại. Thường dùng trí huệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo ra các xấu ác. Tuy tu các điều thiện lành mà tâm không bám níu, kính người trên nghĩ đến người dưới, thương xót những kẻ côi cút nghèo cùng. Ấy là Huệ hương”.

(Phẩm Sám hối)

Chính khi quán chiếu tự tâm, tự tánh mà người ta tìm thấy lỗi mình, và cũng do ánh sáng của trí huệ quán chiếu ấy mà lỗi lầm được chuyển hóa, tiêu tan, như bóng tối gặp ánh sáng mặt trời. Trí huệ chính là pháp thân vốn có nơi mình:

Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng. Trí huệ thường sáng, do vì bám cảnh bên ngoài nên bị đám mây vọng niệm che khuấttự tánh chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng thì trong ngoài sáng suốt, trong tự tánh mình muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng giống như vậy. Đây gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật”.

(Phẩm Sám hối)

Thế nên chẳng lìa tự tánh, an trụ trong tự tánh trí huệ thì ánh sáng của nó sẽ làm tiêu tan những phiền não tham sân si để chuyển hóa thành giới định huệ của tự tánh:

Hãy dùng đại trí huệ mà phá tan năm uẩn, phiền não, trần lao. Tu hành như đây thì quyết định thành Phật đạo, biến ba độc tham sân si thành Giới, Định, Huệ.

Pháp môn đây từ một Bát nhã sanh ra tám vạn bốn ngàn trí huệ. Tại sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu khôngtrần lao thì trí huệ thường hiển hiện, chẳng lìa tự tánh”.

(Phẩm Trí huệ)

 

Điều thứ hai, khi quán chiếu tự tâm, tìm thấy lỗi mình, nếu quán chiếu cho đến tận gốc rễ của những lỗi lầm phiền não thì người ta sẽ khám phá ra nền tảng của chúng mà từ đó chúng phát sanh. Nền tảng đó là tự tánh vốn có sẳn của mình.

Những lỗi lầm, phiền não, trần lao là những ý nghĩ lỗi lầm, những ý nghĩ xấu và kể cả những ý nghĩ tốt, chúng đều che lấp bản tâm, tự tánh khiến chúng ta không thể thấy bản tâm, tự tánh vốn thanh tịnh của mình:

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn sự đều từ tự tánh sanh: nghĩ lường tất cả sự ác tức sanh hạnh ác, nghĩ lường tất cả sự thiện tức sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng nhưng vì những đám mây ý nghĩ che lấp nên trên sáng dưới tối. Khi gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện”.

(Phẩm Sám hối)

Khi biết rằng mọi ý nghĩ, mọi niệm đều khởi lên từ tự tánh, người ta nhận ra tự tánh, nền tảng của mọi khởi niệm:

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay”.

(Phẩm Định Huệ)

Biết rằng mọi ý nghĩ tốt xấu, mọi niệm đúng sai đều khởi lên từ “tự tánh chân không”, thì các niệm ấy cũng sẽ tan vào tự tánh chân không. Chứng biết như vậy, người ta có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của các niệm bằng cách để cho các niệm tự giải thoát lấy chính chúng, tự tan biến vào nền tảng của chính chúng.

Đây là hiệu quả thứ hai của việc thường tự thấy lỗi mình.

Tóm lại, việc thấy lỗi là để không bị lỗi trói buộc và che chướng, do đó thấy cái chân thật xưa nay.

 

3/ Thấy lỗi của người khác

Lỗi lầmchấp ngã, chấp pháp, thấy có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, từ cái thấy sai lầm ấy sanh ra tranh chấp, cải cọ, hơn thua, cao thấp, thế nên tự tánh vốn không có sanh tử lại tự tạo cho mình sanh tử khổ đau:

Nếu tâm miệng đều thiện thì trong ngoài nhất như, định huệ bình đẳng.

Hãy tự ngộ tu hành chẳng phải ở nơi tranh luận. Nếu sanh niệm người trước người sau bèn đồng với người mê. Chẳng dứt được hơn thua, cao thấp thì càng thêm chấp ngã chấp pháp, chẳng lìa được bốn tướng”.

(Phẩm Định Huệ)

Lỗi lầm căn bản là sự phân biệt khiến xa cách với người khác, với môi trường xung quanh, từ đó những phiền não sinh sôi, thương ghét, lấy bỏ, tranh cãi, cho đến chiến tranh. Cứ như thế, người ta tự đưa mình vào sanh tử:

Tông này vốn không tranh

Tranh luận mất ý đạo

Giữ pháp môn trái cãi

Tự tánh vào sanh tử.

(Phẩm Phó chúc)

Muốn đạt đến một vị bình đẳng của tự tánh, phải không thấy lỗi của người khác và cố chấp vào đó để tranh hơn thua, như thế mới đạt được sự bình đẳng của ta và người, “trong ngoài nhất như, định huệ bình đẳng”.

Nếu thật người tu đạo

Chẳng thấy lỗi thế gian

Nếu thấy người khác lỗi

Tự mình đã sai rồi

Người lỗi ta chẳng chê

Ta chê, ta có lỗi.

Chỉ dẹp tâm thấy lỗi

Phiền não thảy phá trừ

Thương ghét chẳng dính tâm

Nằm duỗi hai chân nghỉ.

(Phẩm Trí huệ)

Sở dĩ như thế bởi vì khi thấy lỗi của người thì đó chính là phiền não của mình thấy, chứ chẳng phải tự tánh định huệ bình đẳng thấy.

 

Với chính mình, lỗi lầm là lìa tự tánh, là lìa trí huệ quán chiếu, để cho phiền não lôi kéo ra khỏi sự sống động, sáng tỏ của tự tánh khiến lạc vào sanh tử:

Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không trệ ngại, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, đó gọi là công đức.

Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài là hành theo lễ là đức. Tự tánh kiến lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức.

Nếu tìm công đức Pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức”.

(Phẩm Nghi vấn)

 

4/ Thường thấy lỗi trong tự tâm

Khi dạy cho Sa di Thần Hội, Lục Tổ nói về tự thấy lỗi mình như sau:

Có một đồng tử tên là Thần Hội, con nhà họ Cao ở Tương Dương, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.

Sư nói: Người tri thức khó nhọc từ xa đến, có đem theo được cái gốc chăng? Nếu có gốc thì phải biết ông chủ, nói thử xem.

Thần Hội thưa:  Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Sư nói: Sa di kia sao lại bắt chước lời nói của người.

Thần Hội bèn thưa: Hòa thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?

Sư lấy gậy đánh ba cái, nói: Ta đánh ngươi, đau hay chẳng đau?

Thần Hội thưa: Cũng đau cũng chẳng đau.

Sư nói: Ta thấy cũng chẳng thấy.

Thần Hội hỏi: Sao là thấy cũng chẳng thấy?

Sư nói: Ta thấy là thường thấy lỗi trong tự tâm, chẳng thấy những phải   trái tốt xấu của người, đó là cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói đau cũng chẳng đau là thế nào? Ngươi nếu chẳng đau thì đồng với gỗ đá, còn đau thì đồng với phàm phu, liền sanh giận hờn. Trước ngươi hỏi thấy hay chẳng thấy, đó là hai bên, cũng đau cũng chẳng đau, đó là sanh diệt. Tự tánh của ngươi, ngươi còn chẳng thấy, sao dám đùa cợt người?

Thần Hội lạy tạ xin lỗi

Sư lại nói: Nếu ngươi tâm mê chẳng thấy, thì hỏi thiện tri thức tìm ra con đường. Còn nếu ngươi tâm ngộ, tức là tự thấy tánh, thì y pháp tu hành. Ngươi tự mê chẳng thấy tự tâm, lại hỏi ta thấy hay chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết, đợi gì cái mê của ngươi? Ngươi nếu tự thấy cũng chẳng dính dáng gì cái mê của ta. Sao chẳng tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy.

Thần Hội làm lễ hơn trăm lạy, xin tha tội lỗi, rồi chuyên cần hầu hạ bên Tổ, chẳng khi nào rời”.

(Phẩm Đốn tiệm)

 

Khi nhờ trí huệ thường quán chiếu để những lỗi lầm trong tự tâm tiêu tan trong ánh sáng thường sáng của trí huệ, không còn bị các lỗi lầm trói buộc, ngăn ngại, người ta sẽ có được “bao nhiêu của báu hiện giờ” của đời sống chân thật. Trong lời dạy cho sư Pháp Đạt về tụng Kinh Pháp Hoa, Lục Tổ dạy (ở đây chỉ trích ra một đoạn):

“…Huống gì văn kinh đã nói rõ cho ông, chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác. Nếu kinh nói hai thừa, ba thừa cho đến vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ thì các pháp ấy đều chỉ là một Phật thừa mà thôi.

Sao ông chẳng xét ba xe, ba thừa là giả, là chuyện thời trước, một thừa là thật, là chuyện bây giờ, ấy là dạy cho ông bỏ giả về thật. Đã về thật rồi thì cái thật ấy cũng không có tên nữa.

Vậy phải biết bao nhiêu của báu hiện có ấy đều thuộc về ông, tùy ông thọ dụng; lại chẳng tưởng của cha, cũng chẳng tưởng của con, cũng không có tưởng việc thọ dụng. Đó mới gọi là trì kinh Pháp Hoa, từ kiếp này sang kiếp khác tay chẳng rời cuốn kinh, từ ngày đến đêm, không lúc nào chẳng niệm”.

(Phẩm Cơ duyên)

Khi không còn bị các lỗi ràng buộc, che chướng, người ta được tự do, tự do này Lục Tổ gọi là thấy tánh:

“Nếu ngộ tự tánh thì cũng chẳng lập Bồ đề Niết bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến. Không có một pháp có thể đắc mới có thể kiến lập vạn pháp, nếu rõ ý này, cũng gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ đề Niết bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến.

Người thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, đến đi tự do, không ngưng không ngại, ứng dụng tùy làm, ứng lời tùy đáp, hiện khắp hóa thân mà chẳng lìa tự tánh, tức là được tự tại thần thông, du hý tam muội, ấy gọi là thấy tánh”.

(Phẩm Đốn tiệm

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5989)
Tôi muốn nói lên một lời cảm tạ Dịp xuân về nhớ lại mái chùa xưa Bên tách trà toả sáng pháp Đại Thừa Xin nguyện hướng về con đường Giác Ngộ.
(Xem: 4955)
Cuộc đời là cõi không hoa Tỉnh trong giây phút gọi ta trở về Xin luôn tâm niệm từng lời Những câu Phật dạy muôn đời chẳng quên.
(Xem: 5450)
Mây chùng ngõ vắng thoảng hơi sương, Vách đá cheo leo kẻ ngại đường. Tĩnh lặng trầm xông lơi cõi đắm, Mơ màng khói tỏa lạnh đời vương.
(Xem: 4796)
Già lam lẳng lặng mát hương thiền Lá cỏ vươn mầm loáng thoáng nghiêng Học đạo bên Thầy nương ngộ tánh Sống thời cạnh chúng biết tùy duyên
(Xem: 5377)
XUÂN về cảnh vật ánh dương ngời, XUÂN chúc ngày thêm sáng nụ cười. XUÂN vững tình thương xây nghĩa thắm, XUÂN giàu nghị lực mở lòng tươi.
(Xem: 4811)
Duyên Tam Bảo một đường thẳng tiến Nợ trần gian xin bỏ lại sau Ngày đêm tích đức thiện cao Phát huy Bi Trí khát khao hướng lành.
(Xem: 6716)
Xuân về thắm đẹp rực đào mai Mở cửa mừng xuân tháo buộc cài Ngắm cảnh xuân ngời tan bụi khói Nhìn xuân nắng rạng sạch rào gai
(Xem: 4307)
Tiền tài sương đọng giọt khuya sớm Danh vọng sóng trào bọt trước sau Thôi hãy mừng Xuân! Vui hiện tại! An nhiên ngắm nước chảy qua cầu.
(Xem: 5908)
Bình minh rực rỡ sắc tươi hồng Tiếng đại hồng chung vọng cửa Không Trong Điện nhang thơm bay phảng phất Trên Trời mây thắm lượn phiêu bồng
(Xem: 4400)
Mùa Xuân Di Lặc rạng ngời Muôn người hoan hỉ tươi cười bên nhau Nắng mai ấm cả vườn đào Tình người luôn vẫn đẹp màu thời gian
(Xem: 4996)
Danh mà chi Lợi mà chi Cuộc đời đến lúc cũng ra đi Con quỷ vô thường rình ẩn núp Đừng nên chậm trễ phút quy y.
(Xem: 4982)
Năm mới quyết tâm đổi mới Văn Tư Tu niệm chẳng quên Nguyện lòng theo chân Thầy Tổ Vui trong ánh đạo vững bền.
(Xem: 5250)
Di Đà Pháp Hội thật trang nghiêm Lễ Phật tụng kinh thắp nến nguyền Rạng ánh từ quang soi cõi thế Ngời vòng tuệ nguyệt chiếu nhân thiên
(Xem: 4961)
Giác Hạnh chùa quê đượm nét thiền Lá vàng từng chiếc nhẹ bay nghiêng Tăng nhân dưỡng đức trì Kinh tạng Tục khách quy tâm hướng Phật duyên
(Xem: 4854)
Tu hành vượt thoát tử sinh Nhờ ân Tam Bảo biết mình ở đâu Cội nguồn Diệu Pháp thâm sâu Ngẫm suy là bước khởi đầu từ đây.
(Xem: 5740)
Những con đường mặt đất hoang vu Tôi đến cùng hoa cỏ mộng du Gió thổi mãi muôn triều sóng vỗ Đường linh hồn biển động thiên thu.
(Xem: 5573)
Tiết lạnh sương tràn thấm dạ ai? Non cao người vắng có chi cài Chim buồn ngại hót nên đồi vắng Gió thoảng mây loang quyện dãi dài
(Xem: 6359)
Mây chùng ngõ vắng thoảng hơi sương, Vách đá cheo leo kẻ ngại đường. Tĩnh lặng trầm xông lơi cõi đắm, Mơ màng khói tỏa lạnh đời vương.
(Xem: 5198)
Ngày xưa có một ông vua Trong vương quốc nọ rất ư lạ đời Sinh con trai đủ trăm người Ông hoàng thứ một trăm thời dễ thương
(Xem: 4610)
Khóa Tu Báo Ơn năm nay, Chúng con tu tập những ngày mùa đông, Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng, Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
(Xem: 5387)
Tôi muốn nói lời xin lỗi Cho lòng nhẹ bớt ưu tư Đêm về ngủ ngon thẳng giấc Dưới vầng trăng sáng diệu từ.
(Xem: 3718)
Cuối năm ngồi tính sổ đời, Phong ba bão táp thôi thời chán ngây, Từ miền đông đến miền tây, Đâu đâu cũng có chuyện nầy chuyện kia.
(Xem: 4539)
Khởi niệm mong cầu chẳng ít chi Sống đạo hành thâm khó thể bì Tham vấn minh sư khai tuệ nhãn Đoạn trừ mê vọng dứt ngu si
(Xem: 3691)
Tiếng mõ huyền vi tiếng mõ nào, Trời thơ hoa mở cánh xôn xao Từ Cung Đâu Suất ngời hương đạo Thoảng giấc mơ đời cánh gió trao.
(Xem: 4773)
Bao giờ ta biết thương nhau Cho niềm vui mãi ngày nào còn đây Bao giờ ta biết ngừng gây(điều ác) Dù cho nhắm mắt đẹp ngay nấm mồ Bao giờ ta biết cơ đồ(sự nghiệp)
(Xem: 5856)
Pháp Phật khai thông dòng bế tắc Sạch bóng vô minh thoát nỗi buồn Sáng đẹp cõi lòng hương toả khắp Duyên Pháp nguyện hành dứt bỏ buông.
(Xem: 5144)
Nơi miền Bắc Ấn Độ xưa Thành Ba La Nại có vua trị vì Nhà vua có vị quan kia Rất là khôn khéo ai bì được ngang
(Xem: 5027)
Nhật Tụng Sơ Thời cốt tuỷ kinh Trực chỉ nhân tâm hiển tánh mình Xa lìa khái niệm thông đạt ý Giải thoát tâm hồn đẹp tánh linh
(Xem: 4987)
Một hôm đạo sĩ A La Trên đường khất thực ghé qua một nhà Chuyên buôn vàng bạc, ngọc ngà Giàu sang tột bực, xa hoa tuyệt vời.
(Xem: 4800)
Nhật Mộng Đồ Huyễn bên tai còn vang vọng Lời của Thầy như tiễn bước hoàng hôn Tiếng chuông chùa nghe sâu lắng tâm hồn Tôi ngồi đó mà lòng như sống dậy.
(Xem: 6164)
Màn đêm phủ xuống cảnh mờ sương, Ánh nguyệt lung linh rọi nẻo đường Gió nhẹ vờn lay hồ sóng gợn Mây lành tỏa quyện núi đồi vương
(Xem: 3900)
Xuân đi xuân đến để xuân sang, Xuân rãi hương hoa khắp muôn ngàn, Xuân vẫn là xuân, xuân bất tận, Thế thái nhân tình hợp rồi tan...
(Xem: 5506)
Uất hận làm chi ở kiếp này Khởi niệm tâm từ chuyển bước ngay Mang dòng đuốc tuệ đem soi sáng Thoát nghiệp si mê rõ tháng ngày.
(Xem: 4701)
Xưa trong làng nhỏ vùng quê Có ông đánh trống chuyên nghề lâu nay Một hôm ông được cho hay Tại Ba La Nại nơi đây ăn mừng
(Xem: 4559)
Tôi mơ cõi nước Ta Bà Miễn sao cuộc sống chan hoà tình thương Lòng không sầu muộn vấn vương Vui niềm xả bỏ đoạn trường bủa vây.
(Xem: 4905)
Xan tham tật đố hãy thầm buông, Diệu pháp thường nghe thoát não buồn. Kệ ngọc siêng trì gìn nghĩa cội, Kinh vàng gắng tụng giữ ân nguồn.
(Xem: 3677)
Tôi mơ cõi nước của Đức Phật Di Đà, Nơi không có con người gian dối. Không có qủy ma, Cho nên cây trái ở đây cũng mang vóc dáng thật thà.
(Xem: 5160)
Chuông chùa thức tỉnh khách trần ai, Lắng dịu sầu đau, tưởng giác đài.
(Xem: 4659)
gày xưa có một gia đình Tiền rừng bạc bể quả tình giàu sang Con trai sinh được một chàng Trưởng thành, học vấn vững vàng vừa xong
(Xem: 4190)
Ở Ba La Nại xa xưa Trị vì là một vị vua lâu đời Vua sinh ra một con trai Lớn lên độc ác ít ai sánh cùng
(Xem: 5091)
Diệu Quang đại chúng nhớ Người Đạo cao đức trọng một đời hiến dâng Sư Bà xả bỏ báo thân Vui chơi tịnh cảnh giác trần thong dong
(Xem: 6325)
Rồi tất cả tan theo làn mây khói Bao thăng trầm thế sự cũng qua đi Tử và sanh tiếp diễn chẳng kể chi Cứ mặc kệ hãy sống đời thanh thản.
(Xem: 4608)
Sen vàng nâng bước Người đi, Tăng Ni Phật Tử khắc ghi hạnh nguyền... Diệu Từ Ni Trưởng thâm uyên, Diệu Quang một thuở tinh chuyên đạo mầu
(Xem: 4788)
Sương sa vạn vật gợi tình quê, Lắng nhẹ trần gian, nghĩa đạo kề. Đường tuệ sáng, trăng soi dáng núi, Cảnh tâm trong, gió lộng hương đê
(Xem: 8378)
Kiếp xưa nhờ đủ phước duyên Hướng tâm tu Phật muộn phiền biến tan Ta không tham nhiễm thế gian Cuối đời nhắm mắt chẳng ràng buộc chi.
(Xem: 5880)
Bây giờ mùa đã chớm vào Đông Mây trắng mù giăng, trắng ngõ lòng ! Thăm thẳm chiều xa buồn cánh nhạn Hắt hiu đời quạnh nhớ mênh mông.!
(Xem: 8079)
Quê hương trời Việt bao la Chan hoà khắp cả trong ta kiếp nào Tình yêu hương thắm ngọt ngào Như nguồn suối chảy dạt dào quanh năm.
(Xem: 5706)
U nhàn, cảnh tịch, gợi nhàn thêm, Lặng tiếng hưu nai, vắng bóng thềm. Mù núi lạnh, gió lay khóm trúc, Mịt trăng mờ, mây phủ sương đêm.
(Xem: 4804)
Tại nơi tịnh xá Trúc Lâm Thành Ba La Nại, mùa Xuân đã về Đất trời tĩnh lặng bốn bề Muôn hoa phô sắc sum suê trên cành
(Xem: 3649)
Từ tâm giúp đỡ cứu thương đời, Tĩnh lặng lòng an rạng mắt môi. Niệm Phật tham thiền nên gắng tấn, Sát Sanh hại vật hãy xa rời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant