Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật đã cứu sống tôi

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14912)
Đức Phật đã cứu sống tôi

ĐỨC PHẬT ĐÃ CỨU SỐNG TÔI

Nguyên tác: Eiko Sugimoto

Chuyển ngữ: Hoà thượng Thích Trí Chơn

 

Lời người dịch: Dưới đây là một câu chuyện thực, rất cảm động, xảy ra tại Nhật Bản nhiều năm trước đây. Bà Eiko Sugimoto, mắc chứng bệnh Minamata, toàn thân bị tê liệt gây nên bởi sự dùng thức ăn cá, tôm, cua v.v.. trong biển bị ô nhiễm chất độc thủy ngân do các hảng xưởng chế tạo hóa phẩm phế thải ra. Trong lúc tuyệt vọng chờ chết nhờ sự hướng dẫn của người thân bà gia nhập “Lập Chánh Giao Thành Hội” (Rissho Kosei-Kai), một tổ chức Phật Giáo lớn tại Tokyo ra đời năm 1938, do ông Nikkyo Niwano sáng lập và làm Chủ Tịch. Hội lấy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa làm căn bản tu học. Bà Sugimoto, sau nhiều tháng ngày thành tâm tụng kinh cầu nguyện và nhờ sức nhiệm mầu gia hộ của đức Phật, cuối cùng bà ta đã lành bệnh.

 

Vào lúc hừng đông, tôi nằm mơ thấy đức Phật với tướng hảo trang nghiêm rực rỡ, Ngài dang hai tay ra ôm tôi vào lòng. Mãi đến hôm nay, tôi vẫn còn nhớ rõ giấc chiêm bao này. Lúc ấy, tôi đang mắc chứng bệnh Minamata gây nên bởi sự nhiễm độc hóa chất thủy ngân. Sau một thời gian lâu nằm chữa trị tại bệnh viện, các bác sĩ đành chịu bó tay, và tôi bị tê liệt hẳn khi trở về nhà. Trải qua bốn năm, trong tình trạng bại xụi này, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn khi cử động. Da thịt nơi thân thể tôi trở nên tím bầm và sưng phù lên. Chân tay tôi không thể co duỗi dễ dàng và tôi cũng không còn cách nào tự mình lăn qua hay trở lại gì được. Tôi nằm liệt trên giường bất động như một khúc gỗ.

Tôi không còn thích sống trong bệnh tật nữa. Tôi mong được chết sớm một cách an lành. Tôi thực sự muốn từ giã cõi đời, vì tôi đã từng chứng kiến sự đau đớn vào những ngày cuối cùng của nhiều người không may mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo Minamata.

Ba tôi cầm đầu một nhóm ngư phủ từ ba mươi đến bốn mươi người. Năm 1969, ông ta đã chết vì bệnh Minamata. Sau ngày ba tôi qua đời, rất ít người đến thăm gia đình tôi. Tuy nhiên, vào buổi chiều ngay cái hôm tôi nằm chiêm bao thấy đức Phật, một người bạn đã đến thăm tôi. Ông ta tên là Tetsuya Seki, một hội viên của Lập Chánh Giao Thành Hội (Rissho Kosei-Kai). Sau khi nghe ông Seki thuyết giảng về việc cầu siêu cho người quá cố, tôi nhận biết rằng có thể ông ta là sứ giả của đức Phật mà tôi đã nằm mộng thấy hồi sáng nay. Do sự khuyến khích của ông, tôi liền xin gia nhập Hội Phật Giáo Rissho Kosei-Kai vào tháng 5 năm 1972.

Cuộc gặp gỡ đạo hữu Seki đã mang tôi lại gần với đức Phật, nhưng vẫn không chấm dứt được sự đau đớn vì chứng bệnh của tôi. Những ngày tháng tiếp theo là sự tranh đấu không ngừng. Tôi thực sự thành tâm tụng kinh cầu nguyện đức Phật từ bi gia hộ. Vì chân tay tôi không thể nào cử động, nên chồng tôi đã giúp cầm mở cuốn kinh ra cho tôi thầm lặng chí thành tụng niệm, trong khi đầu tôi đau nhức như búa bổ, sắp vở tung và tôi cũng không thể nói năng gì được.

Từ nhà đạo hữu Seki đến nơi tôi ở mất hai giờ rưỡi lái xe, nhưng ông ta đã không ngại đường sá xa xôi, vẫn thường đến thăm và an ủi tôi mỗi ngày. Cuốn sổ ghi pháp danh các hương linh quá cố của Chi Hội chúng tôi ban đầu chỉ có một, sau đó tăng lên hai tập, vì tôi nhận làm công tác cầu nguyện cho những Phật tử đã không may qua đời vì bịnh Minamata cũng như các ngư phủ bị tai nạn chết ngoài biển cả.

Do sự khuyến khích của đạo hữu Seki và chồng tôi, mỗi sáng chiều tôi tiếp tục cầu nguyện, và tôi cảm thấy bệnh tôi lần lần thuyên giảm, có thể cử động chút ít thân hình bại liệt của tôi. Cuối cùng tôi có thể ngồi dậy được trong khoảng thời gian ngắn. Sau hơn một năm, tôi nghe tin chi bộ Hội Phật Giáo của tôi dự định sẽ tổ chức một phái đoàn hành hương lên viếng thăm ngôi bảo điện trang nghiêm tại trụ sở ngôi chùa trung ương của Hội Rissho Kosei-Kai ở Đông Kinh (Tokyo). Tôi tự nghĩ biết rằng tôi không thể đi đứng bình thường được, nhưng hy vọng dù thế nào, tôi cũng sẽ cố gắng tham dự cùng đi chung với phái đoàn; vì tôi ước mong ít nhất một lần trong đời mình đựợc cầu nguyện ngay tại chánh điện thờ Phật của ngôi chùa Hội quán trung ương đó.

Để giúp tôi thành tựu điều mong ước này, toàn thể hội viên trong Chi bộ Lập Chánh Giao Thành Hội (Rissho Kosei-Kai) tại thành phố Yatsushiro đã hết lòng cầu nguyện cho tôi. Đại đức chi bộ trưởng Akihiro Kuga cũng đã khuyến khích tôi nên tham gia cùng đi với phái đoàn. Đại đức nói: “Này, đạo hữu Sugimoto, tôi nghĩ nhân dịp này đạo hữu nên trình bày trước đại hội ở hội quán trung ương cho mọi người biết những kinh nghiệm bản thân đạo hữu về sự mầu nhiệm của niềm tin cầu nguyện nơi đức Phật”. Cuối cùng, tôi đã thực hiện chuyến đi hành hương lên Tokyo.

Tôi được sắp xếp nằm ở chiếc ghế dài trên một chuyến xe lửa đặc biệt. Ngày sau, trong hơi thở hổn hển, tôi được chồng và chú tôi giúp đỡ dìu bước lên những bậc cấp để đi vào chánh điện tại ngôi chùa hội quán trung ương. Tôi nghe tiếng nói “Kính chào quý vị vang lên trong tai và xâm nhập vào lòng tôi. Tôi ngạc nhiên nhìn lên thấy trước mặt mình chính đức Phật mà tôi đã nằm chiêm bao thấy hơn năm trước tại nhà tôi. Tôi reo lên: “Lạy Phật, hôm nay con tới đây với Ngài rồi!”. Quá xúc động, nước mắt tôi chảy ràn rụa, và tôi cứ để cho những dòng lệ tiếp tục chảy như thế. Lúc ấy, tôi cảm thấy lòng mình thanh tịnh và trong giây lát, như từ nơi bóng tối, tôi đã thoát ra ngoài ánh sáng. Những cơn đau đớn dữ dội hành hạ vì chứng bịnh của tôi từ nhiều năm qua, giờ đây dường như đã biến mất. Tôi cảm thấy thân thể trở nên khỏe mạnh và tinh thấn vô cùng vui vẻ, thoải mái.

Tại hội trường “Phổ Môn” với đông đảo Phật tử trong phái đoàn hành hương của tôi đang họp mặt, tôi được đạo hữu trong Ban Quản Trị của chùa mời lên phát biểu cảm tưởng. Lúc ấy mầu nhiệm thay, tôi đã có thể một mình đứng lên được mà không cần ai nâng đỡ. Trước sự hiện diện của hàng trăm thiện nam tín nữ, tôi đã phát biểu ngắn gọn như sau: “Tôi cảm thấy đức Phật đối với tôi giờ đây thực hết sức nhiệm mầu! Nhiều người đang đau khổ cùng cực vì mắc phải chứng bịnh Minamata. Tôi mong rằng quý vị sẽ giúp đỡ để một ngày nào những bệnh nhân bất hạnh đó cũng sẽ có được cùng niềm tin Phật Pháp như tôi hôm nay”. Tiếp theo là những tràng pháo tay nổ dòn từ các thính giả vang lên như phá vỡ sự yên lặng của cả hội trường, trong lúc lòng tôi cảm thấy vô cùng sung sướng vì lần đầu tiên sau những tháng năm dài đau ốm, tôi đã đứng dậy được một mình, không phải nhờ người khác giúp đỡ. Từ Tokyo trở về nhà, tôi bước ra khỏi xe lửa mà không cần ai phụ giúp. Những người đến tiếp đón tôi thấy vậy đều kinh ngạc.

Từ hôm ấy, tôi đã dành hết thì giờ chú tâm vào việc đến thăm những người mắc bệnh Minamata và giảng cho họ thấy rõ sự cao siêu nhiệm mầu của giáo lý đức Phật, cùng mọi phước đức trong việc cầu nguyện cho người quá cố, ông bà tổ tiên. Công tác Phật sự này đã trở thành lẽ sống và nguồn vui của tôi.

Bịnh Minamata đã mang lại sự đau đớn khủng khiếp cho nhiều người và tệ hại hơn nữa là không có thuốc gì chữa lành hẳn được chứng bịnh này. Cho nên tôi không ngạc nhiên khi thấy nhiều bệnh nhân mà tôi đến thăm, họ tỏ ra vô cùng xúc động. Họ thường hỏi tôi: “Ai bảo bà đi làm công tác này?”. Khi họ nhận biết rằng tôi đã từng đau khổ vì mắc phải cùng chứng bịnh và hiện tại tôi đã ráng sức di chuyển cái thân thể yếu đuối của tôi để đến thăm họ thì tất cả đều thông cảm. Nhiều bệnh nhân dần dần đã nghe tôi quay về theo giáo lý của đức Phật.

Khi khuyến khích, hướng dẫn các bệnh nhân gia nhập Hội Phật giáo Rissho Kosei-Kai, tôi nhận thấy rằng tôi đã có thể làm một công việc phước đức giúp đỡ cho những kẻ khác. Điều đó đã nâng cao tinh thần tôi và tôi cảm thấy sống qua những ngày thực sự hạnh phúc.

Mười bốn năm đã trôi qua kể từ hôm đầu tiên tôi quỳ xuống cầu nguyện đức Phật qua tiếng khóc nức nở tại chánh điện của hội quán trung ương Lập Chánh Giao Thành Hội ở Tokyo. Từ đó, tôi lần lần được chữa lành khỏi bịnh Minamata. Tôi tìm thấy qua sự luyện tập các vũ điệu dân tộc như phương cách hữu hiệu nhất trong việc phục hồi sức khỏe của thân thể. Có người bảo rằng tập vũ đối với các bịnh nhân Minamata là điều không tốt, nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì nó lại rất là hữu ích.

Tôi tập múa như một đứa trẻ, chồng tôi có lần bảo: “Anh sẽ đi mua cho em một cái quạt dùng để múa thật đẹp và mướn một vũ sư để dạy cho em”. Tôi đã cảm động khóc, khi nghe chồng tôi nói như vậy. Từ đó, tôi cố gắng hết lòng tập múa, nhưng điều ấy không phải dễ. Đầu tiên tôi đi tới một bước lại té xuống, rồi tiếp đi bước thứ hai lại ngã xuống nữa. Nhưng tôi đã tự khuyến khích mình bằng cách quán tưởng rằng đức Phật như đang nhìn tôi múa hát và tôi tiếp tục gắng sức để tập múa cho được.

Gần đây, tôi đã có thể chèo thuyền với chồng tôi ra biển Shiranui và theo đuổi những đàn cá bạc óng ánh lội ngoài khơi, cánh tay tôi không còn cảm thấy đau nhức và lòng tôi tràn đầy hạnh phúc. Được nuôi dưỡng lớn lên giữa tiếng gào thét của sóng biển như điệu hò ru con dưới bầu trời trong xanh của vùng đảo Kyushu nên tôi đã vô cùng yêu thương biển cả.

 

Trích từ tạp chí “Dharma World”

Dưới đây là lời bình luận của ông Kinzo Takemura, Giám đốc Hội Phật Giáo Rissho Kosei-Kai tại Tokyo (Nhật Bản) về bài viết trên của đạo hữu Eiko Sugimoto.

Các độc giả đều hiểu rõ sự việc liên quan đến chứng bịnh Minamata qua loạt bài đăng ở tạp chí này về “Thảm trạng của bịnh Minamata” nhưng nay tôi sẽ tóm lược lại hậu quả khốc hại của nó để chúng ta có thể hiểu biết trực tiếp và sâu xa hơn những kinh nghiệm bản thân qua bài viết trên của bà Sugimoto.

Minamata là chứng bệnh gây nên do bệnh nhân ăn nhằm chất độc thủy ngân, thường thấy xảy ra tại khu vực trong vịnh Minamata thuộc quận Kumamoto (Nhật Bản). Chất hữu cơ thủy ngân (organic mercury) này được phế thải ra ngoài vịnh Minamata qua những dòng nước bẩn từ các hãng xưởng chế tạo hóa phẩm gần đó. Những tôm cua và cá trong vịnh Minamata đã nuốt chất thủy ngân, và chất độc thủy ngân trong thức ăn hải sản mà dân chúng dùng đến đã phá hoại hệ thống thần kinh, khiến bệnh nhân có thể bị mù, điếc, và khó khăn trong sự cử động, nói năng.

Năm 1983 có 2653 trường hợp về chứng bệnh Minamata xảy ra được chính thức ghi nhận và khoảng 730 người đã chết vì bịnh này. Đầu tiên, các hãng xưởng trong vùng đó từ chối nhận trách nhiệm gây ra sự ô nhiễm. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy chứng bệnh đã phát triển, xảy ra giống nhau ở quận Niiagata nên chính phủ Nhật đã xác quyết sự ô nhiễm chất thủy ngân trong biển là nguyên nhân gây nên bịnh Minamata.

Trường hợp tương tự của chứng bịnh này gây nên bởi vùng biển ô nhiểm chất thủy ngân cũng đã thấy xuất hiện ở Ontario, Canada vào năm 1975. Bịnh Minamata còn thấy xảy ra tại Ấn Độ, nơi dân chúng sống gần vùng nước sông bị nhiễm chất thủy ngân gây nên bởi các hãng xưởng chế tạo hóa phẩm; và tại khu dân cư sinh sống dọc bờ biển trong vịnh Djakarta ở Indonesia.

Do đó, chúng ta nên nhận thức rằng sự việc mà bà Sugimoto kinh nghiệm trải qua, đã nêu lên một vấn đề quan trọng không chỉ cho riêng cá nhân bà ta mà toàn xã hội của chúng ta. Nền văn minh khoa học hiện đại đã giúp chúng tamột đời sống đầy đủ tiện nghi vật chất hơn, nhưng chúng ta đừng quên rằng mặt khác nó cũng gây hậu quả tai hại khủng khiếp: sự làm ô nhiễmphá hoại môi sinh qua câu chuyện bà Sugimoto kể trên. Chúng ta cần ý thức sâu xa về những nguy hiểm gây nên do bởi sự tiến bộ khoa học đã vượt quá sự tiến bộ tinh thần. Vì nhân loại là một phần của thiên nhiên, nên khi hủy diệt thiên nhiên tức chúng ta sẽ hủy diệt nhân loại.

Sự cải đổi chính bản thânquan niệm sống của chúng ta là điều hết sức khó khăn. Hình như chúng ta không muốn theo lời Phật dạy để tu tỉnh khi đời sống của chúng ta diễn tiến êm xuôi, gặp nhiều may mắn. Chúng ta chỉ thực sự tu tập khi trong cuộc sống chúng ta gặp phải những vấn đề khổ đau không thể giải quyết. Do đó, chúng ta dễ dàng hiểu biết trường hợp của đạo hữu Sugimoto đã phát tâm tinh tấn tu hành khi bà ta mắc phải chứng bệnh ngặt nghèo khó chữa trị Minamata.

Sau một thời gian cầu nguyện, chí thành tụng kinh niệm Phật, bệnh của bà Sugimoto đã lần lần thuyên giảm. Bà đã phục hồi, thoát khỏi tình trạng bị tệ liệt hoàn toàn, và có thể tập múa các vũ điệu dân tộc mà bà ta ham thích. Cuộc sống của bà đã trở lại gần như bình thường. Làm thế nào bà đã có được sự bình phục kỳ diệu này? Ngay sự hiểu biết thông thái của nhà tâm thần học Thụy sĩ, ông C.G.Jung (1875-1961) cũng không tài nào giải thích nổi.

Cho nên, một điều giản dị chúng ta có thể nói là chúng ta cần phải biết tri ân thế giới thiên nhiên đang bao bọc chúng ta và nên tìm cách sống hòa hợp với thiên nhiên.

 

Phỏng viết theo bài “Respect For Nature Is Vital To Our Well-Being” (Tôn trọng Thiên Nhiên là điều thiết yếu cho Hạnh Phúc của chúng ta) của Cư Sĩ Kinzo Takemura, đăng ở tạp chí “Dharma World” phát hành tại Tokyo (Nhật Bản)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8187)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 12021)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10391)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8861)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10343)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10933)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12044)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8705)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9302)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10052)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11328)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9849)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9385)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10100)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10136)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9302)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13319)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10192)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10509)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10951)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9135)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10308)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10253)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9355)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11052)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15079)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11820)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10145)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12681)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10911)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10443)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10783)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10707)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10576)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 10005)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9326)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9356)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11376)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9712)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13091)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12637)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9176)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9585)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9618)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9656)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9202)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 9008)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10408)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8644)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8318)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant