Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cóc và Thiền

27 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15430)
Cóc và Thiền

 

 Haiku là một loại thơ sáng tạo đặc biệt của Nhật Bản, không chỉ vì tính cách ngắn gọn, đi thẳng vào lòng người, mà còn vì hương vị đậm đà của Thiền thấm sâu trong đó. Trong những bài thơ haiku bất hủ để lại cho đời, có lẽ độc đáo nhất là bài thơ con cóc của Matsuo Basho.

 Một ngày mùa xuân, thi sĩ ngồi tĩnh tâm bên bờ nước trong vườn. Trời mưa nhè nhẹ, văng vẳng đâu đây tiếng chim bồ câu rung rúc vang vọng lại. Một cơn gió phất phơ thổi đến, làm bay lả tả vài cánh hoa anh đào rơi rụng xuống đất. Một ngày đẹp tuyệt vời vào cuối tháng ba, khiến ta như muốn nó kéo dài mãi mãi. Và thi sĩ ngồi đó, trầm mình trong thiền định, tận hưởng từng sát na của giây phút hiện tại trong sự giao hòa của cái hữu hạn và vô hạn, cái vô thường và hữu thường. Chợt có tiếng con cóc nhẩy ào vào trong ao làm khuấy động mặt nước, như khuấy động sự tĩnh lặng trong tâm ông, và thi sĩ đã buột miệng nói lên :

 Con cóc nhẩy vào

 Tiếng nước xôn xao!

 Và để hoàn thành bài thơ, Basho đã làm câu trên là:

 Ao xưa

 Và thế là, bài thơ bất hủ con cóc đã được ghi lại như sau:

 Ao xưa

 Con cóc nhẩy vào

 Tiếng nước xôn xao!

 Bài thơ này có gì mà nổi tiếng như vậy? Nếu so sánh với bài thơ “Con cóc trong hang” của Việt Nam, bài thơ này cũng có nhiều điểm tương tự. Nhưng trong khi bài thơ của Basho là một tuyệt tác lừng danh thế giới, thì bài thơ con cóc của Việt Nam lại biến thành một đề tài để châm biếm những người không biết làm thơ mà lại cứ cố nặn ra vần thơ.

 Con cóc trong hang

 Con cóc nhẩy ra

 Con cóc ngồi đó

 Con cóc nhẩy đi

 Sở dĩ bài thơ con cóc của Basho là một tuyệt tác, vì trong đó có nét thiền vị chan hòa, thấm thấu vào lòng người. Thiền là gì? Có lẽ ít ai định nghĩa được thiền là gì, bởi vì khi cố gắng định nghĩa là đã xa rời ý nghĩa của Thiền rồi. Vua Trần Nhân Tông, sơ tổ Trúc Lâm đã nói: “Ðối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền.” Nhưng nếu theo sự kiến giải thông thường mà nói, thì Thiền lá Ðạo, là chân lý, mà Thiền cũng chính lá phương tiện, là pháp tu để đạt đến chân lý. Theo thiển ý, về phương tiện, thiền là phản chiếu lại nội tâm để nhận thức bản chất của sự hiện hữu của chính mình, và từ đó, có một cái nhìn đúng thực về tương quan của vạn pháp. Thiền là đi thẳngthâm nhập vào gốc rễ của mọi sự, và gốc rễ ấy không đâu khác hơn là Tâm của chúng ta. Và khi đã biết được gốc Tâm luôn luôn sáng suốt, không lặng và thường hằng, thiền là sống trong sự tỉnh giác, sáng suốt không lặng ấy, nhìn mọi sự trong thực tướng Như Như của chúng, và nhận biết được sự huyễn hóa của ngoại cảnh nên không còn thả ý chạy theo ngoại cảnh. Vì vậy, thiền giả nhìn con cóc nhẩy vào trong ao làm nước bắn tung tóe khuấy động sự tĩnh lặng trong vườn cây, nhưng đó chỉ là một hình ảnh chợt gợi lên rồi lặng xuống, tiếng nước chao động cũng chỉ thoáng qua rồi lặn đi, không có gì phải vướng mắc hay lưu luyến. Cái thấy nghe ngay lúc ấy và trong mọi lúc mới là cái chính, không phải là con cóc nhẩy vào trong ao. Nói một cách khác, thiền giả nghe tiếng động để rồi trở về với bản chất tánh nghe của mình, nhìn trần cảnh để rồi trở về bản chất tánh thấy của mình; bản chất tánh nghe, tánh thấy ấy không đâu khác hơn là ở trong sự sáng suốt không lặng bao trùm của Tâm. Lúc bấy giờ trong sự không rỗng trong sáng ấy, tâm thiền giả có khác gì mặt nước hồ trong, thấy chim nhạn bay qua nhưng không lưu lại bóng hình.

 Nhạn quá trường không

 Ảnh trầm hàn thủy

 Nhạn vô di tích chi ý

 Thủy vô lưu ảnh chi tâm.


 Dịch:

 Nhạn bay trên không trung

 Bóng chìm đáy nước lạnh

 Nhạn không ý để dấu

 Nước không tâm lưu bóng


Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm:

Khi xưa, đức Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông rồi hỏi ông A Nan rằng: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có nghe.”

Khi tiếng chuông hết ngân, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ không nghe.”

Khi ấy, La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa. Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có nghe.”

Phật lại hỏi ông A Nan: “Thế nào là ông có nghe, thế nào là ông không nghe?”

Ông A Nanđại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu đánh lên thì được nghe, âm vang hết rồi thì là không nghe.”

Ðức Như Lai lại bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa và hỏi ông A Nan rằng: “Theo ông nay có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng.”

Giây lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi: “Theo ông nay có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ không tiếng.”

Lát sau La Hầu La lại đánh một tiếng chuông. Phật lại hỏi ông A Nan: “Nay đối với ông có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng.”

Phật hỏi ông A Nan: “Thế nào mà ông gọi là có tiếng và thế nào là không tiếng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp rằng: “Tiếng chuông đánh lên thì gọi là có tiếng, lâu hết âm vang thì gọi là không tiếng.”

Phật bảo ông A Nanđại chúng: “Hôm nay các ông sao nói trái ngược lộn xộn như vậy?”

Ông A Nanđại chúng đều bạch Phật: “Sao Thế Tôn bảo chúng con nói trái ngược lộn xộn?”

Phật bảo: “Ông lẫn lộn tánh nghe nghe với tiếng chuông, sao không bảo là trái ngược lộn xộn? A Nan, nếu tiếng hết không còn âm thanh mà bảo là không nghe, thì tánh nghe đã diệt giống như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên làm sao ông lại biết có tiếng được? Biết có biết không là do thanh trần hoặc không hoặc có, chứ tánh nghe kia há lại vì ông mà thành có thành không? Nếu thật tánh nghe nói là không có thì ai biết là không nghe?

Thế nên A Nan, tiếng trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt mà khiến cho tánh nghe của ông thành có hay là không. Ông còn điên đảo lầm cho cái tiếng làm cái nghe, thì đâu có lạ gì mà không mê muội cho cái thường làm cái đoạn.

Bởi chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc, thanh trần rong ruổi với vọng niệmlưu chuyển, chưa từng khai ngộ Bản Tánh Thanh Tịnh Diệu Thường, không biết đến cái thường mà chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó mà đời đời bị tạp nhiễm phải lưu chuyển.” 

 Trở lại vấn đề con cóc, con cóc nhẩy vào ao hay con cóc trong hang nhẩy ra cũng chỉ là trần cảnh, trần cảnh đó chợt hiện ra trước mắt cũng là dịp để ta cảm nhận được tính thấy biết của mình, tính thấy biết ấy luôn luôn thường hằng, không thay đổi, không sanh diệt. Và sự thấy biết của giác quan cũng chỉ là diệu dụng của một Tự Tánh bao la không lặng tỏa ra. Biết được Tự Tánh ấy là đã thấy được Bộ Mặt Bản Lai của mình, bộ mặt bản lai vốn không có hình tướng, không có tên tuổi, không sanh không diệt, không được không mất, nhưng luôn luôn thường trú và còn được gọi với nhiều tên khác như là Chân Tâm, Phật tánh v.v.. Biết buông xả mọi ý niệm, kể cả ý niệm trừ vọng, cầu chân, mà chỉ an trú trong sự thanh thản tự nhiên, như nước lắng đọng trong suốt , hay như bầu trời không một gợn mây, Tự Tánh không lặng ấy sẽ tự hiển lộ, trong sáng và tròn đầy vô tận như ánh trăng rằm vằng vặc. Còn nếu còn ý niệm “năng” và “sở” của chủ thể và đối tượng, của cái ta và ngoài ta, thì vẫn ở trong vòng đối đãi phân biệt, và còn chưa thể cảm nhận được cái tự tánh bao la không biên giới trong ngoài vẫn thường hiện tiền bên ta như hình với bóng. Nếu lấy tâm đi tìm tâm, có khác nào đang cười trâu mà đi tìm trâu, bao giờ mới thấy được. Nói một cách khác, “buông tất cả để được tất cả”, khi biết buông tâm rồi sẽ thấy tâm, buông hết mọi ý niệm phân biệt, mọi tri kiến sẵn có để trở về với sự không lặng thênh thang tự nhiên, thì mới hiểu được câu nói của Lục Tổ Huệ Năng khi được Tổ Hoằng Nhẫn khai ngộ: “Ðâu ngờ tánh mình vẫn thanh tịnh xưa nay!”


 Chúng ta hãy ngộ nhập bài kệ bất hủ của Tổ Huyền Giác trong Chứng Ðạo Ca :

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

 Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thật tánh tức Phật tánh

 Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.


 Dịch:

 Dứt học, chẳng làm, nhàn đạo nhân

 Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân

 Thật tánh vô mình là Phật tánh

 Thân không huyễn hóaPháp thân.


 Hay như thiền sư Hương Hải mà ngâm rằng:

 Liễu liễu thời vô sở liễu

 Huyền huyền xứ diệc tu ha

 Ân cần vị xướng huyền trung khúc

 Không lý thiềm quang yết đắc ma?


 Dịch:

 Liễu, liễu, khi liễu không chỗ liễu

 Huyền, huyền, chỗ huyền cũng phải buông

 Ân cần hát khúc trong huyền ấy

 Ánh trăng giữa trời nắm được không?


 Và cảm nhận được bản chất tánh Không của chân tâm, vọng tâm:

 Suy chân chân vô tướng,

 Cùng vọng vọng vô hình

 Phản quán suy cùng tâm

 Tri tâm diệc giả danh


 Dịch:

 Xét chân, chân không tướng

 Tìm vọng, vọng không hình

 Quán lại tâm tìm xét

 Biết tâm cũng giả danh

 (Trích trong Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục)

 

 Trong những câu chuyện được truyền tụng lại, ta thường thấy những vị thiền sư ngộ đạo sống thật thoải mái, an nhiên tự tại, không vướng mắc nơi bất cứ cái gì, như người đã thấy mặt trăng nên không nhìn đến ngón tay chỉ mặt trăng nữa, đã qua đến bờ nên không còn phải ở trên bè qua sông... Tất cả mọi pháp môn tu tập đều chỉ là phương tiện, khi đã đạt tới cứu cánh rồi thì không còn chấp vào phương tiện nữa. Ðó là bởi vì họ đã đạt được sự vô ngã trong trí huệ Bát Nhã thấu suốt được tánh Không của vạn pháp. Tánh Không ấy không phải là cái Không đối đãi của có và không, nhưng là cái Chân Không Diệu Hữu, tuy không mà không phải không, bất động mà động, bởi từ trong bản chất không lặng ấy mà những dấy khởi phân biệt vọng lên, nên từ cái không sinh diệt mà khởi cái sinh diệt, từ cái vô niệm mà khởi lên ý niệm trùng trùng, từ chỗ không tâm mà lập ra có tâm, nhưng bản chất của chân tâmvọng tâm ấy là một không hai, như bản chất của sóng và nước là một. Do biết được bản chất của mọi hiện tượng nên họ sống trong dòng đời mà không bị cuốn trôi theo dòng đời, vượt thắng mọi hoàn cảnh, xem sanh tử như lật bàn tay. Còn chúng ta bị mây mù vô minh che lấp nên như người ở mê hồn trận không biết lối ra, lúc nào cũng quanh quẩn trong cái sướng khổ trước mắt của thân và tâm mình.


 Ðể kết thúc chuyện cóc nhái, chúng ta có thêm một chuyện ếch ngồi đáy giếng của Tây tạng do thiền sư Patrul Rinpoche kể lại.

Con ếch ngồi đáy giếng không biết gì hơn ngoài cái đáy giếng. Một hôm có một con ếch từ đại dương đến thăm nó. Eách ngồi đáy giếng hỏi:

- Mày từ đâu đến?

- Từ đại dương rộng lớn bao la. Con ếch kia trả lời.

- Lớn bằng chừng nào?

- Lớn vĩ đại.

- Có bằng một phần tư cái giếng của tao không?

- Lớn hơn.

- Lớn hơn? Mày nói có lớn bằng một nửa không?

- Không, lớn hơn nữa.

- Thế, có bằng cái giếng này không?

- Không thể so sánh được.

- Không thể nào được! Tao phải đi xem tận mắt mới được.

Hai con ếch cùng đi với nhau. Khi ếch ngồi đáy giếng thấy được đại dương rộng lớn, nó quá kinh ngạc đến nỗi đầu nó nổ tung ra.

Câu chuyện này có lẽ muốn ám chỉ chúng ta như những con ếch ngồi đáy giếng, chỉ quanh quẩn sống trong khuôn khổ chật hẹp của hình tướng hữu vi, đâu ngờ rằng vượt ra ngoài những hình tướng trước mắt còn có thực tại của tâm rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, mà chúng ta không hề biết đến.

Có lẽ con ếch ngồi đáy giếng kia, nếu biết tận dụng những lúc ngồi đáy giếng mà xoay lại phản chiếu chính mình, sẽ không nổ tung ra mà còn hỏi lại con ếch đại dương được rằng:

- Mày biết biển cả rộng lớn, vũ trụ bao la, nhưng có biết chính mình là ai không?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15578)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10803)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10778)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8972)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8997)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8648)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 12144)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10912)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10634)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13497)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8389)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
(Xem: 10306)
Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chíquyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này.
(Xem: 8800)
Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện.
(Xem: 9865)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn...
(Xem: 10389)
Mọi người chúng ta đều than cuộc sống là đau khổ..., người nghèo có cái khổ của người nghèo, người khá giả có cái khổ của người khá giả.
(Xem: 10204)
Hãy dành ít thời gian suy nghĩ về bảy bí quyết này. Đừng gạt chúng qua một bên để làm chuyện khác, mà hãy áp dụng những bí quyết này vào cuộc sống của bạn.
(Xem: 9023)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chínghị lực.
(Xem: 22588)
Nhân dáng từ bi của quý Ngài thường xuyên biểu hiện trong suốt 2 tuần qua đã biến ngôi già lam thanh tịnh này trở thành một ngôi thánh địa uy nghiêm bởi lời kinh tiếng kệ...
(Xem: 10299)
Đạo Phật có nhiều truyền thống cũng như vô lượng pháp môn tu. Nhưng dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cách thức nào thì nội dung tu tập vẫn không ngoài Chỉ và Quán.
(Xem: 12069)
Nụ cười của Đức Phật trên các pho tượng phản ảnh cho tâm an nhiên, tự tại. Cũng thế, các vị đại sư dành hết cuộc đời mình tu tập...
(Xem: 14262)
Bố thí là hạnh đầu tiên theo lời Phật dạy hay còn gọi đầy đủ là hạnh buông xả. Bố thí là cho, biết cho,là trao tặng, là giúp đỡ sẻ chia hay mở lòng rộng lượng
(Xem: 11213)
Vào một kiếp xa xưa, Bồ-tát (tiền thân đức Phật) sanh làm một con chim cút, thủ lĩnh của hàng ngàn con chim cút sống ở trong rừng.
(Xem: 9935)
Cuộc đời đầy những bài học cho ta tu tập, nếu ta có đủ kiên trì.
(Xem: 18968)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ.
(Xem: 10568)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành.
(Xem: 10734)
Đức Phật dạy vạn pháp vô ngã, vô thường. Thân con người còn không thật có (vô ngã, do duyên sinh), huống chi là tài sản của cải là vật ngoài thân.
(Xem: 11800)
“Chỉ là nắm tro” không phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế ấy tôi đã chạm mắt, đã sờ mó được.
(Xem: 10220)
Vì là cá nhân mỗi người thụ hưởng hoan hỉ hay đớn đau, tạo rắc rối và tích tập nghiệp báo – tất cả sự ồn náo và rối rắm được làm ra bởi tự ngã
(Xem: 11363)
Sự quan tâm giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tính đạo đức nhân văn cao cả mà chúng ta ai cũng có thể làm được.
(Xem: 8945)
Phật dạy, nếu người có hiểu biết chân chính sẽ tôn trọng chân lý, khi đưa ra một ý nghĩ gì đều nói “đây là suy nghĩ của chúng tôi”,
(Xem: 12858)
Chúng ta đều biết, đạo Phậttrung đạo. Đức Phật cũng nhờ tránh xa hai cực đoan dục lạckhổ hạnhthành tựu đạo quả.
(Xem: 10553)
Người ta khó chấp nhận việc đột tử của người thân là vì họ vừa có mặt hôm nay ở đây, rồi bỗng ngày hôm sau không có mặt.
(Xem: 11160)
Nguyện cầu Tam Bảomười phương chư Phật chứng giám cho lòng thành của chúng em; cầu mong hương linh Anh được an lạc nơi tịnh thổ.
(Xem: 17358)
Chúng ta đừng nên hứa một điều gì với ai khi đang vui. Bởi vì lời hứa ấy có thể làm cho người khác thất vọng, vì ta hứa mà không làm được.
(Xem: 10759)
Tất cả mọi người đều biết khổ - nhưng không thật sự hiểu khổ. Nếu thực sự hiểu khổ thì chúng ta đã có thể chấm dứt khổ.
(Xem: 10260)
Sẻ chia, cho đi một phần mình đang có, là hạnh tu phổ biến của hàng Phật tử. Nhờ cho đi, không cố nắm giữ mà thành tựu phước báo đủ đầy, an vui trong hiện tạivị lai.
(Xem: 11469)
Con người ta có nhiều cái sợ, như sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ thất nghiệp, sợ nghèo, sợ đói, sợ nhiều thứ...Trong những cái sợ này có cả sợ ma.
(Xem: 16507)
Tôi giống như đang đứng ở khúc cuối của con đường cùng, sau hai mươi sống trong tu viện. Tôi đã cống hiến bản thân mình, siêng năng tu tập, cùng tuân thủ theo giới luật của tu viện.
(Xem: 12714)
Học cách hiểu thất bại thế nào là một kỹ năng ít được nói đến, nhưng lại rất cần trong cuộc sống.
(Xem: 16644)
Dưới ánh sáng tỉnh thức, bạn sẽ biết rõ mình đang làm gì, đang đi đâu và về đâu. Và rồi bạn sẽ tự vén lên những bức màn bí ẩn của thân phận và cuộc sống bằng chính năng lực tỉnh thức của mình.
(Xem: 25042)
Buông bỏ là một trong những bài học đầu tiên chúng tôi được Hòa thượng Ân sư dạy. Tiêu đề Ngài dạy chung cho tất cả anh em là: “Các chú phải buông bỏ”.
(Xem: 9245)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả.
(Xem: 11749)
An là an tịnh nội tâm, còn Cư là kỳ hạn cư trú trong suốt một thời gian nhất định nào đó, mà theo giới luật là ba tháng.
(Xem: 9887)
Khi đến tu viện, các nhà sư và các sư cô mới vào tu, thường hỏi vị sư trụ trì hướng dẫn cách thực hành Con Đường Giải Thoát.
(Xem: 11504)
Quên cái danh thì tự khắc sẽ được an vui. Quên mình đi thì kẻ khác ắt có hạnh phúc. Vui với thành công của người thì niềm vui tăng mãi. Thương yêu tất cả thì lòng hóa vô biên.
(Xem: 9574)
Tôi chẳng làm gì cả. Sự-nhận-biết-về-cái-tôi của tôi đã bị quét sạch đi, từ ngày rất xa xưa rồi. Giờ đây, không còn "cái Tôi" để làm gì cả.
(Xem: 15576)
Tâm của con cũng như vậy. Khi rối loạn, hãy để yên. Rồi chờ một lát. Rối loạn tự ngừng lại. Con không cần gắng sức. Bình yên sẽ đến. Mà không cần làm gì cả.
(Xem: 10749)
Nghe chuông phiền não nhẹ lâng lâng Bồ đề thêm lớn Tuệ sáng ngần Xa rời địa ngục qua hầm lửa Nguyện thành như Phật độ chúng sanh.
(Xem: 14826)
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn...
(Xem: 10763)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant