Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thuyết tương đối văn hóa

19 Tháng Mười 201000:00(Xem: 30164)
Thuyết tương đối văn hóa

Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học... Để tìm hiểu những qui luật lí giải cho sự vận hành của văn hóa các dân tộc, từ thế kỷ thứ XIX đã xuất hiện các học thuyết khác nhau.
Và những học thuyết này chủ yếu xuất hiện ở các nước có nền văn minh tiên tiến như Mỹ, Anh, Đức... Trong buổi đầu này, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất hiện hàng loạt những nhà nghiên cứu văn hóa với những học thuyết khác nhau; như Framz Boas với học thuyết tương đối văn hóa, Bronislaw Malinowski (1884-1942) với quan điểm về chức năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và nhu cầu tâm lý cơ bản của con người; Radcliff Brown (1881 – 1955) và khuynh hướng nghiên cứu cấu trúc xã hội, các nguyên lí tổ chức các cá nhân thành xã hội; Friedrich Ratzel, Friedrich Grabner ở Đức với học thuyết truyền bá văn hóa... Các nhà nghiên cứu văn hóa này đã góp phần làm cho văn hóa học được nhiều người chú ý hơn và đã tạo được nền móng ban đầu cho những người người sau nghiên cứu về văn hóa.

Mỗi học thuyết đều có nhưng lí giải khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau khi đối mặt với các vấn đề của văn hóa. Bởi vì văn hóa học có đối tượng rất đa dạng và phong phú. Nó không bị hạn hẹp trong một quốc gia nào, một con người nào, một thời đại nào. Nó là tất cả những yếu tố vật chất lẫn tinh thần do con người tạo ra và đang chi phối con người về mặt này hoặc mặt khác... đó đều là đối tượng nghiên cứu của văn hóa học.

Với một đối tượng quá rộng như vậy, các nhà nghiên cứu sẽ tìm hiểu chúng ở những khía cạnh khác nhau. Ở đây chúng tôi chọn học thuyết tương đối văn hóa với nhà nghiên cứu đại diện là Framz Boas (người Mỹ) để tìm hiểu.

Framz Boas đã phê phán thuyết tiến hóa sinh học được áp dụng trong việc nghiên cứu xã hội. Vì ông cho rằng nghiên cứu các thể hữu cơ sinh học và xã hội là khác nhau và không đồng nhất. Cụ thể ông đã đưa ra các điểm:

- Ông phê phán cách so sánh của các nhà nghiên cứu thuyết tiến hóa luận đơn tuyến. Ông chủ trương tập trung vào các nền văn hóa cụ thể. Và ông cho rằng, mỗi một nền văn hóa có những sự diễn biến đặc thù cho nền văn hóa đó mà thôi. Vì mỗi cộng đồng có một lịch sử riêng, chính lịch sử riêng ấy đã qui định văn hóa của cộng đồng.

- Ông cho rằng khi nghiên cứu những nền văn hóa khác nhau thì có thể tìm ra những điểm chung, những điểm chung ấy do: 1. Tất cả các xã hội khác nhau đều phát triển theo một qui luật, đều muốn sáng tạo một nền văn hóa và nền văn hóa ấy phát triển từ thấp đến cao. Đây là qui luật chung của sự sáng tạo nhân loại. 2. Do sự phát triển đồng qui: Mỗi nền văn hóa có một lịch sử riêng của mình và trong quá trình phát triển thì đồng qui nhau ở một điểm nào đó.

Như vậy để giải thích được các nền văn hóa khác nhau cần xuất phát từ ba quan điểm:

1. Quan điểm về điều kiện môi trường.

2. Quan điểm về các nhân tố tâm lí: chính môi trường đã tác động đến tâm lí của cộng đồng ấy.

3. Quan điểm về các quan hệ lịch sử của nền văn hóa này. Đây là quan điểm quan trọng nhất. Vì mỗi nền văn hóa có một lịch sử riêng; khi tìm hiểu nền lịch sử của cộng đồng ấy, bắt buộc nhà nghiên cứu phải thâm nhập vào cộng đồng ấy, biết ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc ấy để sử dụng trong giao tiếp. Và đặc biệt quan trọng, đó là cách nhìn, phải xuất phát từ cộng đồng người ở nền văn hóa đó.

Hướng nghiên cứu này nó là nền tảng cho học thuyết Tính tương đối của các nền văn hóa. Và người đại diện thành công của học thuyết này là một nhà nhân học người Mỹ Herscovits, ông là học trò của Framz Boas. Herscovits đặc biệt nhấn mạnh thuyết tương đối văn hóa. Ông coi nó như là một phương pháp nhận thức các giá trị văn hóa dựa trên cơ sở thừa nhận sự bình đẳng các giá trị văn hóa, thừa nhận tính độc lập giá trị tự thân của các nền văn hóa.

Herscovits đã chia học thuyết này ra làm ba phương diện:

1. Phương diện phương pháp luận: được thể hiện: khi miêu tả các giá trị của các nền văn hóa khác nhau thì cần phải miêu tả bằng chính các thuật ngữ của các nền văn hóa ấy. Mục đích của phương pháp này là cố gắng tìm hiểu nền văn hóa từ trong lòng nó bằng ánh sáng của chính xã hội đó. Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu nhân học theo cách nghĩ cách nhìn của người bản địa. Đó là một quá trình tìm hiểu lâu dài vì nhà nghiên cứu phải thâm nhập, hiểu rõ họ, sống cùng với họ ngay cả phải thực hành những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng.

2. Phương diện triết học: Đó là sự thừa nhận có nhiều con đường phát triển văn hóa khác nhau. Đây là chủ nghĩa đa nguyên. Với quan điểm triết học này, các nhà tương đối luận văn hóa phủ nhận các nền văn hóa phát triển theo một con đường mà phải phát triển theo nhiều con đường khác nhau. Đây cũng là cách để chống lại chủ nghĩa đế quốc phương Tây (trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện tượng hòa nhập). Đây chính là chủ thuyết không tuyệt đối hóa một kiểu phát triển văn hóa nào.

3. Phương diện thực tiễn đánh giá: Điều này được nói lên rằng, trong thực tế rất phức tạp, bao hàm cả việc tiến bộ lẫn lạc hậu. Nên khi xem xét một nền văn hóa nào cũng phải thực tiễn đánh giá. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu phải thực tiễn vào nền văn hóa, sống trong nó, làm việc trong nó, khi ấy mới có một cái nhìn trung thực được.

Nghiên cứu văn hóa, hơn bao giờ hết, mục đích là tìm cho đượccái khuôn của nền văn hóa đó. Chúng mang một màu sắc đặc trưng của dân tộc, tôn giáo, xã hội... mà màu sắc ấy thể hiện rất nhạt nhòa trong các nền văn hóa khác.

Ví dụ: Ở Ấn Độ triết lý khổ hạnh và thang bậc đẳng cấp đã bao trùm nền văn hóa nước này; Ở Nhật Bản trung thành với nhà vua là tư tưởng chủ đạo. Nó thể hiện tính toàn vẹn trong văn hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóanghiên cứu tính toàn vẹn đó để thấy được những giác trị riêng của từng nền văn hóa.

Chúng ta biết rằng, văn hóa là những cái rất riêng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người (không có văn hóa của từng cá thể). Nó là kết tinh của một chuỗi dài thời gianlối sống của một dân tộc nào đó. Chính vì vậy, trong vấn đề nghiên cứu văn hóa, không có hiện tượng áp đặt văn hóa. Không thể cho và cũng không thể có một mô hình chung để từ đó các nền văn hóa lần lượt phát triển theo.

Học thuyết tương đối văn hóa này, đúng tên gọi của nó là một sự không áp đặt khi xem xét. Mà quá trình nghiên cứu, giải mã nó phải xuất phát từ bên trong, trong lòng nền văn hóa đó. Ví dụ: để tìm hiểu nền văn hóa Việt Nam, thì một người Mỹ hay Anh không sống trên đất nước này, không tham gia lao động sản xuất, không thực hiện niềm tin tôn giáo... thì không thể nghiên cứu trọn vẹn được. Và có nếu có được chăng nữa thì đó chỉ là cái sát không hồn. Bởi vì một nền văn hóa nào cũng mang đậm dấu ấy của tư duy, của tình cảm, của ước mong... của dân tộc ấy.

Với học thuyết này, và các học thuyết khác như thuyết chức năng văn hóa, thuyết truyền bá văn hóa... đã làm cho văn hóa học được nhiều người chú ý đến. Tuy văn hóa học ngày nay vẫn chưa phát triển mạnh ở trong nước cũng như nước ngoài, nhưng nó đã tạo được một tiền đề quan trọng cho những người làm công tác nghiên cứu sau này phát triển.

Thích Hạnh Tuệ



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11430)
Trong những năm gần đây, tình hình bão lũ, động đất, sóng thần xảy ra khắp mọi nơi với cường độ càng ngày càng mạnh có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của rất nhiều người và động vật.
(Xem: 8791)
Trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người.
(Xem: 9784)
Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thângia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy.
(Xem: 9556)
Theo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật...
(Xem: 10576)
Rất lạ là có nhiều người không biết thương chính bản thân. Có lẽ do họ nghĩ rằng thương yêu chính bản thân là điều dễ làm nhất trên đời nầy, vì ai cũng lo cho mình là trước nhất.
(Xem: 9391)
Mùa mưa đến, chư Tăng Ni đều y theo lời Phật thực hành an cư. Đạo tràng an cư tu học thanh tịnh tất yếu nhờ ơn ngoại hộ của các thí chủ
(Xem: 10161)
Đức Phật dạy rằng phá thai chính là lấy đi mạng sống của một con người, đây là một lỗi lầm rất nghiêm trọng.
(Xem: 12124)
Lý tưởng Bồ tát đạo là một danh từ chung cho những ai có tâm xã kỷ vị tha (quên mình vì người).
(Xem: 10344)
Ta chỉ cần trở về với sự tĩnh lặng trong sáng sẵn có, buông bỏ những mong cầu của mình, và mở rộng lòng ra tiếp nhận những gì xảy ra với một tình thương.
(Xem: 9400)
Dòng sinh tử, tử sinh được gọi là Luân Hồi. Cái bánh xe quay vòng vòng chẳng tìm ra đâu là khởi điểm, đâu là dứt điểm.
(Xem: 10832)
Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Xem: 14320)
Theo Phật học thì “hãy xem lá đa rụng ở vườn chùa như là những phiền não tham lam, sân hận, si mê nơi chính vườn tâm mình, quét lá và rác rưởi cũng chính là quét đi những cấu bẩn của tự tâm...
(Xem: 8795)
Người tu Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù tu theo bất cứ pháp môn nào thì tâm tịnh và trí sáng là mục tiêu quan trọng cần phải đạt được trong đời sống tu hành.
(Xem: 10334)
Đại từ Đại bi thương chúng sanh, Đại hỷ Đại xả cứu muôn loài...
(Xem: 9096)
Đời sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên được hỗn hợp, bao gồm cả tốt lẫn xấu. Nếu chúng ta chỉ yêu thích cái tốt, ghét cái xấu, thì đời sống tinh thần của mình sẽ trào dâng cảm xúc vui buồn mà thành ra có khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc.
(Xem: 8978)
Tục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì...
(Xem: 28735)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới.
(Xem: 16130)
Trời thu lạnh nhưng đạo tình ấm ápPhó hội về Quảng Đức để tuyên dươngĐại Hội năm (V) Phật Giáo Việt lệ thườngCứ bốn năm có một lần khoáng đại…
(Xem: 9882)
Thưa mẹ, mẹ có biết không, thời gian, không gian làm cho con run sợ và phẫn uất. Đó là những biên giới đã phân chia tất cả, đã ngăn cách tất cả và làm cho con người lẻ loi và cuộc sống bơ vơ.
(Xem: 11600)
Sự hiện hữu của con trong cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao của bố mẹ. Bởi tình yêu thương vô hạn, bố mẹ sẵn lòng làm tất cả để dành cho con những gì tốt đẹp nhất.
(Xem: 9767)
Ở đây không thể phủ nhận có một vài wedsite Phật giáo trong và ngoài nước đã làm được điều mà bài viết này rất muốn được xem đó là tấm gương soi chung...
(Xem: 9452)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ.
(Xem: 9177)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế.
(Xem: 10616)
Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc...
(Xem: 12355)
Vì không có hiện tượng nào Là không duyên sinh Nên không có hiện tượng nào là không Trống rỗng sự tồn tại cố hữu
(Xem: 9864)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một những Đạo sư Phật Giáo vĩ đại của thế giới hiện tại...
(Xem: 11503)
Tăng li chúng tăng tàn ắt hẳn không thể là sự quy kết một thành viên tăng chỉ xa lìa đại chúng là bị tàn lụi bị hủy diệt, mà đúng hơn là thành viên đó rời khỏi sự thanh tịnhhòa hợp của chúng tăng...
(Xem: 12041)
Người theo Phật gia đem tâm quyết từ bỏ những nguy hiểm của dòng nước, muốn đi trên bề mặt của dòng nước chứ không để nó thấm ướt gót chân mình.
(Xem: 9723)
Nếu quan điềm sai lầm rằng con người và sự vật tồn tại một cách độc lậpnguyên nhân của tất cả những quan điểmcảm xúc ẩn tàng chướng ngại...
(Xem: 9844)
Trong một lần dừng chân tại thị trấn nhỏ dưới rặng núi Cascade, khi tiếp xúc người dân địa phương để tìm hiểu đặc chủng nấm trong vùng...
(Xem: 9961)
Tâm giác ngộ nguyện vọng là mong ước mạnh mẽ để vượt thắng những khuyết điểm của chúng tanhận ra những tiềm lực của chúng ta để làm lợi ích cho mọi người.
(Xem: 12384)
Tâm kinh Bát-nhã có thể xem là bản kinh văn ngắn nhất trong kinh hệ Bát-nhã vì đề cập đến tinh yếu của tư tưởng Bát-nhã chỉ với chưa đầy một trang kinh.
(Xem: 9847)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt.
(Xem: 15724)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 14122)
Dòng đời trôi như dòng sông với thuyền bè xuôi ngược. Lênh đênh trong dòng tử sanh có lắm thứ vui buồn, hạnh phúc thì ít nhưng khổ đau và hiểm nguy lại nhiều.
(Xem: 11971)
Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận.
(Xem: 10083)
Đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni vì lòng đại bi xuất thế, Phật nhật huy hoàng, xua tan màn đêm của vô minh, làm thuyền cứu vớt chúng sanh thoát khỏi ái hà.
(Xem: 10120)
Sống được với lòng bi, chúng ta sẽ cởi mở cuộc sống hạn hẹp của mình trở nên rộng lớn hơn, sâu thẳm hơn.
(Xem: 10117)
Tu hành muốn thành công hẳn ai cũng biết phước và trí đều phải đầy đủ, trang nghiêm.
(Xem: 10683)
Cầu nguyện bình an, phúc lộc đầu xuân là nét văn hóa tín ngưỡng, tâm linh đậm chất nhân văn của tất cả những người con Phật.
(Xem: 9533)
Trong niềm tịnh tín Tam bảo, tin Tăng có vai trò rất quan trọng. Nhờ thâm tín Tăng bảo nên nương tựa tu họcdần dần tăng thêm tin hiểu vào Pháp bảoPhật bảo.
(Xem: 10175)
Kinh Phật có câu “tướng tự tâm sanh” tức dáng vẻ, dung mạo bên ngoài của mình từ nội tâm ở bên trong lưu xuất.
(Xem: 11160)
“Tình dục như một vết ngứa, thà không có vết ngứa ấy thì hơn. Nếu không, chúng ta phải cào đến xước da và chảy máu.”
(Xem: 10597)
Chỉ cần dừng lại tâm ô nhiễm thì điểm tới thanh tịnh hiển bày, dừng tâm sân si thì Cực Lạc quốc độ ngay dưới bước chân ta.
(Xem: 10560)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng: “Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”, nghĩa là: “Sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”.
(Xem: 10493)
Nếu không có Phật, không có giáo lý Ngài hướng dẫn, có lẽ tôi đã tạo tội bằng non. Nhờ Ngài, tôi biết phân biệt thiện ác...
(Xem: 12650)
Chúng ta lỡ hẹn với giây phút hiện tại này không phải vì mình chần chờ, do dự, mà phần lớn cũng tại vì mình cố gắng và mong cầu quá đi thôi.
(Xem: 11096)
Theo bình chọn của tạp chí Forbes, gia tài của ông trị giá khoảng 7,6 tỷ đô la (USD). Ông còn là người chuyên làm từ thiện nhưng lại có một cuộc sống rất bình dị.
(Xem: 8762)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10221)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant