Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

21 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17856)
Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

Có người cha vĩ đại cao minhTrần Thái Tông và có người con thiên tài xuất chúng là Trần Nhân Tông, thế nên tên tuổi Trần Thánh Tông (tự là Vô Nhị thượng nhân) dường như khuất chìm. Hơn nữa, dù viết nhiều, ít nhất là năm tập sách, chẳng tác phẩm nào còn truyền lại, ngoài 16 bài thơ!
Nhưng thử chạm vào thơ ấy đi, thơ của Vô Nhị thượng nhân, ta sẽ gặp một cơn lốc. Ta bay hoặc rơi, lặng người hoặc ca hát, trầm tư bất động hoặc ngất ngây nhảy múa. Ta muốn làm trẻ thơ, muốn cởi trần, muốn vào hang trống nghe gió reo, đến đầm lạnh nhìn trăng sáng. Để rồi ta lại trở về, ngồi dưới chân nhà thơ lớn, lắng lòng để lắng nghe, để có thể nghe ra tiếng đàn không điệu của Vô Nhị thượng nhân.
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp như muốn ca hát mặc cơn đau xé từng hơi thở. Chính lúac ấy, trước phút lâm chung, Vô Nhị thượng nhân viết bài thơ tuyệt bút:
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Tự cổ cập kim,
Cánh vô dị lộ.
(Sống như mặc áo,
Chết như cởi quần.
Xưa nay vô cùng,
Không đường nào khác).
Sống là gì? Có biết bao triết lí về đời sống. Để làm gì và chẳng để làm gì. Có lý và vô lý. Có nghĩa và vô nghĩa. Lạc quanbi quan. Cam chịunổi loạn.
Nhưng Vô Nhị thượng nhân nói: Sống như mặc áo. Tại sao áo? Tại sao mặc áo?
Áo thì có đủ loại, đủ kiểu, đủ mùa, đủ màu sắc…
Bắt đầu là hình hài. Áo là hình hài, là da tóc, mặt mũi, tứ chi. Ta mang hình hài ấy và tiếng khóc mà vào đời. Cái áo đầu tiên của ta đấy.
Tiếng khóc cũng là cái áo mà ta mang ta mặc. Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra (Ôn Như Hầu). Và cái áo của tiếng khóc ấy đâu chỉ mặc một lần. Bao nhiêu lần, nhớ nổi không?
Và khi bắt đầu biết cười là có thêm một cái áo khác. Rồi tự nụ cười hồn nhiên đến những nụ cười sau này lại có vô số áo của nụ cười. Ta mang cái áo này đi khắp nơi, gặp đủ hạng người. Cái cười càng ngày càng lạ. Cười vậy mà không phải vậy. Có cái cười của tình yêu và có cái cười của hận thù. Có cái cười của sát nhân và có cái cười của cứu độ. Tất nhiên là không kể xiết: xu mị, lừa phỉnh, cay đắng, giả dại, xin xỏ, dụ hoặc... là áo cả thôi. Hãy hỏi xem nó che đậy cái gì?
 
Ta mang một cái tên. Danh tính. Đó cũng là áo. Hay nói như Tagore, cái tên là ngục tù: “Người tôi giam trong tên tôi đang khóc than, tên tôi là ngục tù ấy” (He whom I enclose with my name is weeping in this dungeon). Bởi vì cái áo của hư danh không cho thấy con người thực. Bản chất của áo bao giờ cũng là che đậy, kể cả khi nó muốn phô bày một cái gì đó. Phô bày cũng là một hình thức khác của che đậy.
Ta có một cái xe, một địa vị, một mảnh bằng, một tổ chức, một cơ nghiệp, một bảng hiệu, một cờ xí... Đó là áo và áo và áo. Chứ là gì khác?
Với Trần Thánh Tông, vua cũng là một cái áo. Nếu không thì Người đâu cần nói: “Từ khi bé bỏng đã vào thiền” (Tự tòng quán giác nhập thiền lưu). Cái áo đó Người không hề muốn giữ suốt đời.
Còn sống thì không thể nào thôi mặc áo.
Vì vậy, Vô Nhị thượng nhân mới bảo: Chết như cởi quần.
Cởi quần.
Cởi quần chỉ rõ trạng thái hoàn toàn trần truồng, cái hình hài nguyên sơ của mọi con người, cái hình hài sắp sửa trở về với vô hình, với hư vô.
Từ trần truồng trở về với trần truồng, như nhà thơ Issa nói trong một bài haiku:
Từ bồn tắm đến bồn tắm
Toàn thể chuyến đi dài
Chỉ thế mà thôi!
Trần truồng được tắm khi sinh và trần truồng được tắm khi chết. Chỉ là sự di chuyển giữa hai bồn tắm, hai tình trạng trần truồng. Chỉ thế mà thôi. Từ kẻ ăn mày rách rưới nhất đến những vĩ nhân, thánh hiền danh tiếng nhất cũng đều đi như vậy.
Từ xưa đến nay đều vậy. Xưa nay vô cùng. Từ Diogenes trần truồng sống trong một thùng rượu đến Đại đế Alexander tung áo bào phủ khắp thế gian. Dẫu muốn hay không, họ đều chết. Như đã giống hệt lúc mới ra đời. Chỉ có di chuyển giữa hai lần đó là khác.
Thử tưởng tượng họ nói gì với nhau sau khi chết:
- Alexander: Đến bây giờ mà ông vẫn còn trần truồng ư?
- Diogenes: Phải. Đến bây giờ ông mới biết trần truồng ư? Thế áo bào của ông đâu rồi?
Áo bào đâu rồi? Và mọi loại quần áo đâu rồi sau khi chết?
Chết như cởi quần. Thoát khố. Một lời đơn giản tột cùng. Mà rành rành như ta có thể nhìn thấy ngón tay mình. Một lời mà nhìn thấy xưa nay.
Không đường nào khác. Ta đi vào cuộc sống và mặc vào những cái áo. Như vậy, như vậy... Ta vĩnh biệt cuộc sống và trả lại mọi áo quần. Dù muốn hay không muốn.
Thế nên Vô Nhị thượng nhân nói: không đường nào khác.
Chỉ có cách di chuyển của ta là khác nhau. Còn đường đi thì bao giờ cũng thế. Đường đi không có đúng sai. Chỉ người đi là khác.
Sau khi đọc xong bài thơ (hay bài kệ), Thượng nhân hét lên :
Bát tự đả khai phân phó liễu
Cánh vô dư sự khả trình quân
(Mở toang tám chữ mà trao,
Có đâu dư chuyện ngõ hầu trình anh).
Người đứng hầu bên Thượng nhân lúc đó chính là Nhân Tông.
“Bát tự” có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu ám chỉ “Tuyết Sơn bát tự” thì tám chữ đó là “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (Sinh diệt nếu diệt rồi, thì tịch diệt là vui). Trong kinh Niết Bàn, Bồ tát Tuyết Sơn để nghe tám chữ đó phải hi sinh cho quỷ La Sát ăn thịt.
Nhưng trong văn cảnh này thì “Bát tự” là, hay có thể là tám chữ mở đầu bài thơ: “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố” (Sống như mặc áo, chết như cởi quần).
 

Dung nạp những cách hiểu này càng làm cho bài thơ Sinh Tử của Vô Nhị thượng nhân bao la hơn. Cái đón đợi của người đọc vì thế sâu xa hơn, niềm hân thưởng vì thế lớn hơn.
 
Đọc những vần thơ bay bổng của Thượng nhân, buồn rằng lịch sử đã để mất các tác phẩm khác của người: Di hậu lục, Cơ cầu lục, Thiền tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Chỉ giá minh...
Những tiêu đề đó có phải chăng là: “chiếc đàn không điệu” (bất điệu cầm) của Vô Nhị thượng nhân:
Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm
Nhàn môn vô sự khả quan tâm
Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy hữu tùng phong họa thử âm.
(Đàn không điệu gảy nguyên ngày
Cửa nhàn không chút mảy may bận lòng
Ai hay khúc điệu bên trong
Có chăng chỉ gió rừng thông họa đàn).
Đó cũng là thơ Thượng nhân. Là thơ của “khúc điệu bên trong ”, cái tâm thanh tịnh muôn đời cảm ứng với thiên nhiên ca hát.
Đó là thơ của một cái khảy tay nhưng đủ phá cả vạn trùng núi non :
Nhất đàn chỉ phá vạn trùng san
Giá cá công phu dã thị nhàn
(Khảy tay phá vạn trùng san
Công phu thế ấy vẫn nhàn làm sao!).
Đó là thơ của cực động và cực tĩnh:
Động như không cốc phong xao hưởng
TĨnh nhược hàn đàm nguyệt mãn minh.
(Động như hang trống vang lừng gió
Tĩnh tựa đầm hoang chói rạng trăng).
Chạm vào những vần thơ trên của Thượng nhân lại càng rung động hơn trước những lời tuyệt bút tráng lệ của Người.
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Sống ư? Chết ư? Áo ư? Quần ư? Tuyệt!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8181)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 12019)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10372)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8854)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10333)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10921)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12029)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8689)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9296)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10031)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11324)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9839)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9364)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10089)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10115)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9300)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13307)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10185)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10492)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10943)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9121)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10289)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10251)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9331)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11048)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15065)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11799)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10140)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12663)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10908)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10419)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10780)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10693)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10559)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9996)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9315)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9354)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11365)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9702)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13078)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12628)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9172)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9577)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9609)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9636)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9193)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8993)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10402)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8617)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8308)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant