Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Địa danh Thủ Dầu Một

27 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 19415)
Địa danh Thủ Dầu Một
Hình ảnh
(Đăng lại từ blog 360 plus)

Nam Bộ trước nay tồn tại một số địa danh có thành tố “thủ” đứng trước như:
  • Thủ Dầu Một, Thủ Đồn Sứ, Thủ Nhơn, Thủ Chánh (Bình Dương),
  • Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Đào, Thủ Hy, Thủ Huấn, Thủ Khúc, Thủ Tắc, Thủ Tọa, Thủ Thuật (TP. Hồ Chí Minh)
  • Thủ Thừa, Thủ Đoàn (Long An)
  • Thủ Triệu, Thủ Cấm, Thủ Chánh ( Tiền Giang)
  • Thủ Chiến Sai ( An Giang)
  • Thủ Tam Giang ( Cà Mau)
Nguồn gốc các địa danh này thương gây tranh cãi trong giới nghiên cứu, trong đó có địa danh Thủ Dầu Một (TDM).

Theo Huỳnh Tịnh Paulus Của thì: “Thủ ngữ là chức quan giữ của biển” (1869). J.F.M Génibel ghi trong tự điển của mình là: “Quan thủ ngữ: Captaine de port” (Quan canh giữ đồn biển) (1898). Eugène Gouin cũng chua nghĩa tương tự: ”Thủ ngữ: Garder le port” (Đồn canh phía biển) (1957). Về sau này cách nhà nghiên cứu cũng hiểu yếu tố “thủ” trong địa danh theo nghĩa đó, như Sơn Nam: ”Thủ là chăm sóc, giữ gìn, còn có nghĩa là một đồn binh, đồn tuần tra”, Vương Hồng Sển: ”Thủ ngữ, tấn thủ: chức quan giữ của biển, đồn thủ tại của biển”. Theo Nguyễn Đình Đầu: ”Thủ để thu thuế và giữ việc trị an”. được đặt tại nơi xung yếu để giữ an ninh trật tự”. Chú giải của Lý Việt Dũng trong bản dịch Gia Định Thành thông chí: “Thủ sở, thủ ngự sở, gọi trại thành thủ ngự là nơi đóng đồn trên bộ để phòng giặc kiêm luôn thu thuế khóa như Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn, Thủ Dầu Một, Thủ Thừa…” Chỉ thuần túychức năng thu thuế: ”Thủ ngự là viên chức trông coi một thủ (nhỏ hơn tuần ty). Hay có một cách hiểu khác đi một chút như Bùi Đức Tịnh: ”Danh từ chỉ các đồn canh gác dọc theo các đường sông”. Hoặc như Nguyễn Đình Tư bổ sung cách hiểu về “thủ” là trạm gác được lập ở những chỗ giáp giới rừng núi, chỗ chính quyền chưa kiểm soát được về mặt hành chính. Thủ được thiết lập dọc theo các con suối, đường độc đạo, bến đò ngang mục đíchkiểm soát sự đi lại và thu thuế.

Thủ ngự có hai nghĩa :
1. Chức quan võ phụ trách quân đội canh gác dọc biên giới.
2. Chức quan trong coi một thủ nhỏ hơn tuần ty, giữ việc thu thuế.

Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
Hình ảnh
Chợ Thủ Dầu Một, ảnh chụp lại từ cuốn Quê Hương Sông Bé của Sở văn hóa thông tin Tỉnh Sông Bé, 1990 


Trước nay có ba cách giải thích về nguồn gốc địa danh này.

Thuyết thứ nhất cho rằng địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer “Thun Đoón Bôth” có nghĩa là gò có đỉnh cao nhất. Vương Hồng Sển đã bác bỏ giả thuyết trên khi cho rằng: “Chữ Đoón” không đúng giọng Thổ, phải nói “doeum” có nghĩa là cây. Bôth theo tự điển, pannetier viết doeum pou là “banian” tức cây lâm vồ, cây bồ đề, nơi Phật Thích Ca nhập niết bàn, và người Miên trọng nể cây lâm vồ này lắm.Thul là gò.
Thuyết thứ hai giải thích địa danh TDM là địa danh thuần Việt, được ghép theo phương thức: thủ (đồn , trạm) + tên thực vật + số từ.

Trong “Gia Định Thành thông chí” đã thấy ghi nhận về địa danh “Dầu Một”. Trong “Đại Nam nhất thống chí” (1820) đã thấy ghi nhận về địa danh này: ”Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường, huyện Bình An tục danh chợ Dầu Một ở bên lỵ sở huyện, xe cộ ghe thuyền tấp nập, đông đảo”. Như vậy địa danh “Dầu Một” đã tồn tại trước địa danh Thủ Dầu Một.

L. De Grammont, sĩ quan quân đội Pháp, từng chỉ huy đồn binh Thủ Dầu Một những năm 1861, 1862 đã có những ghi chép về chợ Phú Cường hay chợ Thủ Dầu Một, đoạn bến sông Sài Gòn: “… Những thân cây dầu trần và rất cao tạo thành vòng đai cảng. Dưới chân chúng, một cây đã đã có hơn trăm tuổi đứng hùng vĩ như hình ảnh kẻ vương tay che chở bảo vệ vùng đất này”.

Tác giả Sơn Nam cho biết, địa điểm chợ TDM ngày nay, trước kia là một bến xe trâu, thuận lợi để tắm trâu và rửa xe. Nơi đây có quán trà Huế, quán cơm, dần dần thành chợ. Chỗ mé sông (ngang dinh chủ tỉnh) có cây dầu lớn, trốc gốc sau cơn bão (có lẽ bão năm Thìn 1904), ngọn cây gây cản trở giao thông giữa lòng sông. Người Pháp phải huy động dân phu giải tỏa, gốc to “đôi ba người ôm”.

Hiện nay trong khuôn viên của Tỉnh ủy Bình Dương và trường Sĩ quan Công binh (Phường Phú Cường , TX TDM) cũng còn một số cây dầu. Hay như đoạn đường Bạch Đằng chỗ gần trường trung học Mỹ thuật BD vốn trước đây có cây dầu bị đốn hạ khi mở rộng con đường này.

Ở Ngã ba Nguyễn Tri Phương – Bùi Quốc Khánh thuộc phường Chánh Nghĩa, hiện vẫn còn cây dầu đôi với tên gọi đã trờ thành địa danh Dầu Đôi.

Trên đường Nguyễn Tri Phương , chỗ khu Lò Heo cũ hiện vẫn còn cầu Thủ Ngữ, nằm ranh giới phường Phú Cường và phường Chánh nghĩa.Con rạch chảy từ sông Sài Gòn vào có tên là rạch Thủ Ngữ.Cạnh đấy là cung thiên hậu được xây lại năm 1988 (địa điểm cũ của chùa bà Bình Dương trước 1923).

Người Hoa gọi địa danh Thủ Dầu Một là “Cổ Long Mộc”[1]. Dầu ráy được gọi là mãnh hỏa du, còn gọi là dầu chai để trét thuyền, nhúm lửa v.v.

Sách Phú Cường lịch sử văn hóatruyền thống cách mạng cho biết, cách đây vài trăm năm cây dầu hoang mọc kín cả mấy ngọn đồi Phú Cường và Bà Lụa. Những rừng dầu lâu năm được cư dân ở đây khai thác lấy gỗ để đóng đồ dùng sinh hoạt, đóng thuyền khai thác nhựa để làm chất đốt và chất chai trét thuyền. Xóm Dầu Đặt (tức An Nhất) chuyên đóng ghe thuyền cho địa phương, nằm ở quãng từ chợ TDM lên tới thành Quan. Xóm Dầu vàng (tức thôn Phú Lợi Tây) tương ứng với khu vực ấp Bộng Dầu.

Đây là cách giải thích được đa số ý kiến các nhà nghiên cứu chấp nhận nhất.
Và thuyết thứ ba cho rằng địa danh Dầu Một là do Dầu Miệt (vùng có cây dầu) mà ra.Nếu chữ miệt có nghĩa là vùng thì kiểu kết hợp trong địa danh Dầu Một /Miệt là không phù hợp. Ví dụ, phải nói miệt vườn, miệt biển, miệt trên, miệt dưới, miệt thứ, miệt U Minh, miệt Đồng Tháp…

Như vậy địa danh TDM có thể hiểu là “cây dầu lớn/ cả (duy nhất) mọc vượt lên trên nằm bên cạnh đồn/ thủ”.

Tóm lại, địa danh TDM có kiểu định danh: thủ + tên thực vật + tính chất. Việc nghiên cứu các địa danh có kiểu định danh này sẽ giúp tìm hiểu rõ hơn quy luật cấu thành các địa danh Nam Bộ.
NGUYỄN THANH LỢI
----
Sáng mua báo Xưa và Nay đọc thấy hay, gõ lại cho mọi người xem, cũng mệt nghỉ, đã bỏ bớt một số đoạn nhỏ và cả trang chú thích .
Riêng ba chữ "Cổ Long Mộc" ở trên theo mình là chưa chính xác.Năm nào có lễ hội chùa bà mình cũng coi và thấy đó là ba chữ "Thổ Long Mộc" chứ không phải "Cổ", xem wiki tiếng Hoa http://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%B9%B3%E9%99%BD%E7%9C%81 thấy cũng vậy (thử dùng google translate dịch là biết ^^).
Bonus thêm cái hình vòng xoay ngã sáu 
Hình ảnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24136)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20564)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18745)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21310)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18264)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19838)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14836)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12940)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13942)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13141)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13932)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17627)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15388)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14685)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14447)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17845)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21885)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19445)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14700)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21986)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20620)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15764)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20706)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18625)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31500)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30591)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23848)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26542)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant