Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những bất cập trong bài viết “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ”

08 Tháng Chín 201100:00(Xem: 11809)
Những bất cập trong bài viết “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ”

NHỮNG BẤT CẬP TRONG BÀI VIẾT
“PHẬN NHỮNG NÔ LỆ TÌNH DỤC TRÊN CHÙA ẤN ĐỘ”

Minh Nguyên


blankVừa qua, trên trang báo điện tử Vietnamnet có đăng bài viết của tác giả Sầm Hoa với tựa đề “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ” đã gây xôn xao dư luận trong cộng đồng Phật giáotổn hại đến hình ảnh, uy tín của Phật giáo. Nguồn gốc bài lược dịch này lấy từ đâu? Tính xác thực của nó như thế nào? Và những chủ ý nhào nặn ngôn ngữ cũng như sự yếu kém của tác giả Sầm Hoa thể hiện ở đâu mà gây ra bất bình như thế? Trong bài viết này chúng tôi sẽ lần lượt trình bày những vấn đề đó để mọi người cùng nhìn nhận và phán xét. 

Trước hết là vấn đề nguồn tài liệutác giả Sầm Hoa đã sử dụng để viết bài. Thực ra một bài lược dịch có nguồn gốc từ một bài viết bằng tiếng Hoa. Như tác giả ghi chú là “Theo Huanqiu”. Huanqiu là trang web Hoàn Cầu, có tên miền là www.huanqiu.com. Dựa vào nguồn tác giả Sầm Hoa đã đưa ra và dựa vào bài viết, chung tôi thử dùng từ khóa “印度聖女的性奴” (Ấn Độ Thánh nữ đích tính nô - tạm hiểu: Thánh nữ làm nô lệ tình dụcẤn Độ) để tìm kiếm trên chính trang web Hoàn Cầu thì thấy có bài viết với tiêu đề là “印高僧享用的性奴圣女” (Ấn cao tăng hưởng dụng đích tính nô thánh nữ - đây là đường dẫn của nó: http://society.huanqiu.com/gallery/2011-08/1922956.html), bài này được đăng vào ngày 18/8/2011. So sánh nội dụng bài viết này với nội dung bài lược dịch của Sầm Hoa thì thấy có sự giống nhau. Ngay những hình ảnh dùng để minh họa cho bài viết của Sầm Hoa ở trên Vietnamnet cũng giống với những hình ảnh đã được dùng để mình họa cho bài viết “Ấn cao tăng hưởng dụng đích tính nô thánh nữ” ở trên Hoàn Cầu. Cho nên chúng tôi mạnh dạn khẳng định là Sầm Hoa đã lược dịch từ bài “Ấn cao tăng hưởng dụng đích tính nô thánh nữ”.

Bây giờ chúng tôi xin bàn về nội dung mà tác giả Sầm Hoa đã lược dịch. Ngay ở tiêu đề, tác giả Sầm Hoa tự đặt lại một tiêu đề mới chứ không phải dịch từ tiêu đề của bài viết bằng tiếng Hoa. Đúng là ở trong tiêu đề bài viết gốc có dùng chữ 高僧 (cao tăng), nhưng nếu đọc vào nội dung của bài viết, ngày ở đoạn đầu tiên, chúng ta thấy người ta viết rất rõ ràng rằng: “印度有一種與其歷史一樣古老的傳統――來自賤民家庭的女孩子年紀輕輕便開始為寺院服務,成為印度教高級僧侶和婆羅門長老的性奴隸. 她們被稱為聖女” (Âm Hán Việt: Ấn Độ hữu nhất chủng dữ kỳ lịch sử nhất dạng cổ lão đích truyền thống nhất nhất lai tự tiện dân gia đình đích nữ hài tử niên kỷ khinh khinh tiện khai thủy vị tự viện phục vụ, thành vị Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ hòa Bà la môn trưởng lão đích tính nô lệ. Tha môn bị xưng vi thánh nữ. Tạm dịch:Ấn Độ có một truyền thống từ xa xưa, gắn liền với lịch sử rằng, con gái của các gia đình tiện dân phải phục vụ cho các đền thờ ngay từ khi còn nhỏ, và trở thành những nô lệ tình dục cho các vị tu sĩ cao cấp của Ấn Độ giáo và các vị trưởng lão Bà la môn. Những người nữ ấy được gọi là thánh nữ). Như vậy, việc các thánh nữ phục vụ cho các ngôi đền là một truyền thống, một hủ tục của Ấn Độ, và nó liên quan đến Ấn Độ giáo. Các “thánh nữ” ấy trở thành những nô lệ tình dục cho các tu sĩ của Ấn Độ giáo và các vị trưởng lão Bà la môn trong xã hội Ấn Độ chứ không hề dính dáng gì đến Phật giáo, không hề làm nô lệ tình dục cho các vị tu sĩ của Phật giáo. Còn chữ “cao tăng” ở tiêu đề của bài viết tiếng Hoa và ở phần dưới của nội dung hay là chữ “tăng lữ” ở trong bài viết là do người ta đã lược giản từ chữ “cao cấp tăng lữ” mà ra. Việc đặt tiêu đề như ở trong bản gốc tiếng Hoa là một cách để thu hút người đọc, tạo tính tò mò. Làm như thế đã là khó chấp nhận. Nhưng ngay từ đoạn đầu của bài viết, người ta đã ghi rất rõ là “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ”, nên người ta có tỉnh lược thành “cao tăng” hay “tăng lữ” ở phần sau vẫn tạm chấp nhận được, vì không gây hiểu nhầm. Thế nhưng, khi chuyển dịch cụm từ “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ hòa Bà la môn trưởng lão”, tác giả Sầm Hoa lại dịch là “cao tăng và các trưởng lão Bà la môn”. Tác giả đã lược bỏ một ý hết sức quan trọng của cụm từ đó. Chính điều này và từ “chùa” mà Sầm Hoa đã dịch từ hai chữ “tự viện” ở phần trước đó đã gây hiểu nhầm cho người đọc, khiến người ta hiểu đấy là các vị cao tăng của Phật giáo. Đây là sự lược bỏ có chủ ý, là một sai lầm nghiêm trọng của Sầm Hoa. Còn về từ “tự viện” có các nghĩa là: chùa, đền, hay tu viện của các tôn giáo. Khi dùng chữ “chùa” có nghĩa là đang nói đến chùa Phật giáo, là nơi thờ Phậttu tập của tín đồ Phật giáo. Theo trong mạch văn của bản gốc thì “tự viện” phải dịch là “đền” mới hợp, vì các vị tu sĩ cao cấp của Ấn Độ giáo không thể ở trong chùa.

Riêng về từ “Thánh nữ”, trong tiếng Hindi (ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ) gọi là “Devadasi”. Theo trong bài nghiên cứu “Devadasi system in Indian Temples” (Hệ thống thánh nữ trong các đền thờ ở Ấn Độ) của tiến sĩ Zoya Zaidi, người Ấn Độ, thì từ “Devadasi” có nghĩa đen là “God’s female servant” (tỳ nữ của Thần linh). Việc chọn ra những người con gái để làm “Devadasi” là một tập tục của Ấn Độ giáo. Trước tuổi dậy thì, một số người con gái (trinh nữ) thuộc giai cấp tiện dân ở trong xã hội sẽ được gia đìnhcộng đồng chọn để làm phẩm vật hiến dâng cho Thần linh thờ tại ngôi đền ở địa phương. Những cô gái ấy không được phép lập gia đình, vì họ được xem như là đã kết hôn với vị thần ở trong đền rồi. Các cô gái ấy sẽ “phục vụ” cho các vị tu sĩ sống trong đền, và “phục vụ” cho cả những người có chức quyền ở trong làng, xã và cả những người địa chủ, họ phục vụ vì những người đàn ông ấy trả tiền hoặc là dùng quyền lực ép buộc. Việc các “thánh nữ” phải phục vụ, phải quan hệ tình dục với những người đàn ông ấy được xem như là giống như đang phục vụ cho thần linh. Các cô gái ấy phải phục vụ cho thần linh suốt đời, không được trốn thoát. Nếu như có cô nào trốn thoát thì cộng đồng xã hội sẽ tẩy chay họ. Đây là một hủ tục, cưỡng bứchành hạ người phụ nữ, gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, cho nên vào năm 1934 nhà nước đã ban hành lệnh cấm hủ tục này. Rồi đến thập niên 1980, nhà chức trách lại tăng cường lệnh cấm, thế nhưng đến nay nhiều nơi vẫn vi phạm, hủ tục vẫn diễn ra.

Trở lại với bài viết của tác giả Sầm Hoa, cũng ở tiêu đề, tác giả viết là “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ”, tiêu đề này đã bộc lộ rõ sự yếu kém về trình độ tiếng Việt của tác giả. Sao lại là “trên chùa”? Có chùa nào có tên là “chùa Ấn Độ” hả? Với cách viết của Sầm Hoa như thế thì người đọc có thể hiều là có một ngôi chùa Ấn Độ và ngôi chùa ấy luôn nằm phía trên khu dân cư, hoặc nằm trên núi. Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng. Một dịch giả bình thường thì không thể nào lại lược dịch như thế được. Nhưng việc làm này của Sầm Hoa khá trẻ con. Bởi vì, với những người có chút ít kiến thức về xã hội, về lịch sử thì sẽ dễ dàng nhập thấy sự sai lạc trong nội của bài viết. Tại vì, trong Phật giáo không hề có khái niệm thần linh, không bao giờ thờ cúng thần linh, càng không có tục chọn “thánh nữ” để dâng cúng cho thần linh. Hơn nữa, kể từ thế kỷ thứ 12, Phật giáo đã bị suy tànẤn Độ, suốt nhiều thế kỷ không hề có bóng dáng tu sĩ Phật giáoẤn Độ, rất hiếm người Ấn Độ biết về Phật giáo. Mãi cho đến cuối thế kỷ 19, Phật giáo mới bắt đầu hồi sinh trở lại, nhưng rất chậm. Cho đến nay, theo thống kê Xã hội học của Ấn Độ, tín đồ Phật giáo chỉ có 0,5% trong tổng số hơn 1 tỷ người dân Ấn Độ. Đấy là con số nói chung về tín đồ Phật giáo. Còn riêng số lượng chư Tăng người Ấn thì rất hiếm hoi. Họ chủ yếu sống tập trung tại các di tích, thánh tích của Phật giáo. Vậy thì lấy đâu ra nhiều chùa để cho các “thánh nữ” đến phục vụ, như tác giả viết: “...con gái của những gia đình địa vị thấp ở Ấn Độ đều phải lên chùa để làm Thánh nữ”“Những bé gái xuất thân trong gia đìnhđịa vị thấp trong xã hộiẤn Độ đều không thể thoát khỏi... Khi trở thành thiếu nữ, họ sẽ chính thức làm lễ kết hôn trên chùa, sau đó sẽ phải trải qua đêm tân hôn với các cao tăng, trưởng lão tại đây”. Và đã không có nhiều chùa thì lấy đâu ra nhiều “cao tăng”, “trưởng lão” nhiều “thầy tu háo sắc” (chữ của Sầm Hoa) để cho các “thánh nữ” phục vụ? Bạn dịch như vậy không thấy quá sai lệch với lịch sử sao?

Nếu xét về lỗi dịch thuật, văn phong thì trong bài lược dịch của Sầm Hoa còn có nhiều điểm khác cần phải bàn. Nhưng chúng tôi không có chủ ý phân tích bài viết của Sầm Hoa, mà chỉ muốn trình bày những điểm chính mà Sấm Hoa đã dịch sai, đã nhào nặm ngôn ngữ, khiến cho bạn đọc hiểu sai bản chất của vấn đề, của một hủ tục trong truyền thống xã hội Ấn Độ, và gây tổn hại đến uy tín, thanh danh của Phật giáo, của chư Tăng mà thôi.

Mong là Sầm Hoa rút kinh nghiệm và làm việc có lương tâm của một người cầm bút hơn. Và mong báo Vietnamnet phải cẩn trọng hơn khi biên tập và duyệt đăng bài vở, nhất là những bài liên quan các vấn đề nhạy cảm.

Minh Nguyên

 

Nguyên văn nội dung bài viết của tác giả Sầm Hoa đăng trên Vietnamnet:

Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ

Khi đến tuổi cập kê, con gái của những gia đình địa vị thấp ở Ấn Độ đều phải lên chùa để làm "Thánh nữ" nhưng thực tếtrở thành nô lệ tình dục của những cao tăng và các trưởng lão Bà la môn.

Những bé gái xuất thân trong gia đìnhđịa vị thấp trong xã hộiẤn Độ đều không thể thoát khỏi những cuộc hôn nhân theo truyền thống khi mới 10 tuổi đó là trở thành "lễ vật" trong lễ cầu nguyện cho cả dân làng và được hứa hẹn gả cho "thần thánh" địa phương. Khi trở thành thiếu nữ, họ sẽ chính thức làm lễ kết hôn trên chùa, sau đó sẽ phải trải qua đêm tân hôn với các cao tăng, trưởng lão tại đây.

Chức danh "Thánh nữ Ấn Độ" không phải chỉ Nữ hoàng cũng không phải nữ minh tinh mà ngược lại đó lại là những cô gái có số phận bi thảm nhất trong xã hội.

Bình thường các "Thánh nữ" vẫn sống chung cùng gia đình, trước khi trở nên già cỗi, họ phải phục vụ trên chùa suốt những năm tháng thanh xuân của mình. Sau đó, giống như những kỹ nữ ở nhà thổ châu Âu, trước khi chuẩn bị "về hưu", họ lại lên kế hoạch cho một thế hệ "Thánh nữ" tiếp theo.

Tại Ấn Độ, "Thánh nữ" không uy nghiêm như tên gọi của nó, ai cũng biết rõ rằng những cô gái có địa vị cao như vậy có vai trò thực sự như thế nào. Chức danh "Thánh nữ Ấn Độ" không phải chỉ Nữ hoàng cũng không phải nữ minh tinh mà ngược lại đó lại là những cô gái có số phận bi thảm nhất trong xã hội.

Theo truyền thống, "Thánh nữ Ấn Độ" đều là con nhà nghèo. Khi các cô gái mới bước vào tuổi thanh xuân căng tràn sức sống, họ đã bị bán lên chùa để trở thành vật hiến tế cho thần linh, cả tuổi xuân phải sống trên chùa để làm nô lệ tình dục và không có cuộc sống hôn nhân bình thường như những người khác.

Tổ chức từ thiện Christian Aid phát hiện mặc dù nghi lễ biến trẻ em thành "Thánh nữ" để lên chùa phục vụ các nhà sư đã bị cấm từ năm 1986 tại Ấn Độ nhưng khi tiến hành kiểm tra 42.000 "Thánh nữ" ở khu vực Andhra Dees, có tới 40% cô gái bị HIV dương tính.

Phong tục tập quán cổ hủ thâm căn cố đế tại Ấn Độ đã hủy hoại sức khỏe của những thiếu nữ bất hạnh cũng như khiến virus HIV lây nhiễm trong cộng động với tốc độ nhanh hơn.

Rõ ràng, những "Thánh nữ" bị biến tướng vai trò đều là những người ở dưới đáy xã hội, không ai thèm đếm xỉaquan tâm. Ngoài làm công cụ tình dục cho các thầy tu, họ còn là "trạm lưu thông hoạt động" của virus HIV.

Hiện nay, tại Ấn Độ đã có hơn 5 triệu người bị lây nhiễm HIV, nếu như khôngbiện pháp khống chế hiệu quả, thì cứ 10 năm, sẽ có thêm 3 triệu người bị nhiễm loại virus gây ra căn bệnh thế kỷ AIDS này.

Mặc dù biết tử thần đang đứng trước mặt nhưng hủ tục "Thánh nữ" của người dân Ấn Độ vẫn không thay đổi. Để có được miếng cơm no bụng, những "Thánh nữ" vẫn chấp nhận đi lên chùa, hy sinh tuổi thanh xuân cho "thần thánh" và xà mình vào vòng tay của những thầy tu háo sắc. Cách gọi "Thánh nữ" dường như chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài, hằng ngày họ vẫn sống chung với gia đình, chỉ khi nào nhà chùa cần thì họ mới phải báo đápđiều kiện.

Ngoài việc mua vui miễn phí cho các thầy tu, hầu như các "Thánh nữ" không phải làm gì khác. Khi còn trẻ, họ luôn được các thầy tu sùng ái nhưng khi hết thời, họ chỉ như những cây mía bị ép hết nước. Khi đó, các thầy tu sẽ nói rằng nhiệm vụ của họ đã hoàn thành và họ không còn là "Thánh nữ" nữa.

Hầu hết những "Thánh nữ già" lưu lại ở chùa phải sống những tháng ngày còn lại trong đau khổ, họ trở thành quân sư bất đắc dĩ cho những lớp "Thánh nữ" mới. Thực tế, cho dù là Thánh nữ mới hay cũ thì những cô gái này đều không thoát khỏi số mệnh bi đát luân hồi.

Sầm Hoa (Theo Huanqiu)

Link: http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/36361/phan-nhung-no-le-tinh-duc-tren-chua-an-do.html

 

Nguyên văn bài viết tiếng Hoa:

 

印度聖女命運悲慘 賣身高僧成性奴

 

印度有一種與其歷史一樣古老的傳統――來自賤民家庭的女孩子年紀輕輕便開始為寺院服務,成為印度教高級僧侶和婆羅門長老的性奴隸。她們被稱為聖女。

這些地位低下的鄉村女孩10歲時便不得不放棄傳統的婚姻模式,將自己一生幸福都獻給了當地的神,為本村的村民進行宗教儀式和做祈禱。

剛剛進入青春期,她們便在儀式和慶典上嫁給寺院,然後與寺院僧侶或長老共度洞房花燭夜。

聖女一般與家人生活在一起,在衰老之前一直為寺院服務。然後,就如同歐洲妓院老鴇的命運一樣,年老的聖女開始退居幕後,為下一代聖女出謀劃策。

在印度,“聖女”可不是個體面的稱呼。儘管人們對她們恭敬畏懼,磕頭碰地;但是,誰都清楚,那些高高在上的姑娘,究竟在 充當什麼角色。所謂“印度聖 女”,既不是女王,也不是女明星;反倒是命運最為凄慘的苦孩子。但凡家裡有條件,誰肯把親閨女送出去,受人淩辱呢?這話聽起來別扭,說到底,還是印度古老 的文化傳統使然。

遵照傳統,“印度聖女”全部來自賤民家庭,她們剛剛進入青春期,就被迫賣身於寺院。人前,有個光鮮的名字遮羞——聖女; 背後,不過是印度教高級僧侶和婆羅 門長老們免費的“性奴隸”。這種醜事兒瞞不了人,所以,走進寺院,向神靈獻身的少女,注定要出賣青春和肉體,也注定要過一輩子沒有婚姻的奇特生活。

慈善機構基督教援助慈善會發現,儘管印度小女孩成為聖女為寺院工作的做法已在1986年被正式宣布為非法,但安德拉普拉德什地區的4.2萬聖女當中仍有約40%HIV檢查呈陽性。

 印度古老的習俗,葬送了無辜少女的身心健康,也為艾滋病傳播,埋下了禍根。很顯然,“聖女”這種畸形角色,完全處於社會底層,既沒人關心,也沒人管理。除了充當僧侶的洩欲工具之外,她們還是艾滋病毒的活動流通站。印度社會將為此付出高昂的代價。

目前,印度的艾滋病病毒感染者已超過500萬人,如果未加有效控制,那麼,每十年,將新增300萬新患者。早在2003年,艾滋病就成為印度人口死亡最多的疾病。

雖說死神在前邊呲牙,印度風俗依然是要色不要命,各種各樣的“聖女”為了吃一口飽飯,不得不走上了通向寺院的道路,她們必須把青春獻給冥冥之中的神,將肉體投入那些僧侶們貪婪的懷抱。“聖女”似乎不穿僧袍,日常生活也在自己家裡。只有寺院需要時,她們才無條件地報到。

除了免費的性服務,其他根本就用不著,“聖女”們招之即來,揮之即去,酷似廟裡的“應召女郎”。她們紅顔尚在時,定然是長老們的香餑餑,一旦年老色衰,便淪為榨幹汁水的甘蔗渣子。寺院裡宣稱:你的任務完成了,從“聖女”隊伍中退役吧。


留給這個“老聖女”的,只有殘燈破廟,痛苦的餘生。她們往往成為新一代“聖女”業餘參謀。其實,無論新老聖女如何算計,也跳不出命運的輪回。(來源:環球網)

Link: http://big5.xinhuanet.com/gate/big5/news.xinhuanet.com/life/2011-08/18/c_121876443.htm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22121)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15943)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18939)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
(Xem: 17190)
Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố… khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt...
(Xem: 18286)
Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc.
(Xem: 17771)
Bình thức giấc, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ trong nhà thằng Phi. Chưa kịp nghĩ gì thì mùi thức ăn xộc thẳng vào mũi làm nó nghe dạ dày nhói lên quặn thắt.
(Xem: 17793)
Vậy là sau bốn năm lăn lộn ở chốn phố thị phồn hoa này, cuối cùng thì Hải cũng đã trở về quê, một chuyến về ngoài dự kiến.
(Xem: 17629)
Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng.
(Xem: 17595)
Niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời tôi chính là giây phút đầu tiên tôi đặt chân vào tòa nhà chánh Pháp. Một luồng rung cảm lâng lâng niềm hỷ lạc...
(Xem: 16794)
Trên đường trở về nhà, con gái cứ luôn ngọng ngọng nghịu nghịu hỏi tôi: “Bố ơi, mấy con cá bị người ta bắt đi thật là tội nghiệp!”...
(Xem: 16122)
Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết. Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng...
(Xem: 18434)
Từ lâu, tình thương là chất liệu ngọt ngào không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chất liệu đó đã là nhịp cầu nối tâm linh...
(Xem: 15496)
Trời bắt đầu vào thu với những ngày mưa thường xuyên hơn. Không gian se lạnh về theo những ngày nhiều mây và len sang cả những ngày có nắng.
(Xem: 16465)
Ái dụcyếu tố quan trọng đưa đến luân hồi sanh tử trong cõi Dục này. Chúng sanh đã đầu thai vào cõi Dục nghĩa là nghiệp ái dục rất nặng.
(Xem: 16890)
Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi.
(Xem: 16343)
Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh xá Trúc Lâm.
(Xem: 17872)
Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào.
(Xem: 15267)
Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích.
(Xem: 16726)
Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh.
(Xem: 21228)
Hãy niệm câu “thần chú” ấy mỗi ngày đi, rồi bạn sẽ thấy “đời rất đẹp”. Đời không phải là rác rưởi, đáng chán, là muộn phiền, âu lo đầy dẫy như bạn từng mặc định.
(Xem: 29860)
Vở Cải Lương Phật giáo đấu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy ,đó là vở “THÁI TỬ A-XÀ-THẾ”. Soạn giả Dương Kinh Thành
(Xem: 22165)
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay xa, Nơi này chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, Hoàng hạc bay xa không trở lại...
(Xem: 17082)
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trước mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại.
(Xem: 17011)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. - Dương Kinh Thành
(Xem: 16465)
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp.
(Xem: 15093)
Mất cũng phải hết một ngày đêm suy nghĩ đến nhức đầu mệt óc, cắn trụi móng của ngón tay cái, thằng Thạch mới tìm ra được cách giải cho bài toán hóc búa...
(Xem: 16455)
Không giống cô giáo cũ, khi còn nằm trên giường biết mình đã thức dậy – Tôi luôn có niềm vui đầu tiên là “nhận biết mình còn sống! Tôi còn có mặt trên cõi đời này.
(Xem: 15537)
chúng ta có một cuộc sống may mắn hay rủi ro thì điều ấy đã được quyết định bởi tâm thứchành nghiệp của chính chúng ta. Điều này được biết đến như là định luật nhân quả.
(Xem: 17049)
Chủ quanlạc quan đều là hai thái độ dẫn đến việc người ta sống vô tư, nhưng xét về bản chất thì một bên là không lường trước mọi việc còn một bên thì biết rõ mọi việc và chấp nhận…
(Xem: 16050)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày...
(Xem: 18294)
Con thật may mắn đã đến được với Đạo Pháp bằng tâm chí thành. Tinh hoa của Đạo Pháp được gói trọn trong hai Bồ- Đề Tâm.
(Xem: 16183)
Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”... Huệ Trân
(Xem: 15282)
Ngày tôi nhận ra con đường đích thực của cuộc đời mình, em đã khóc rất nhiều. Em muốn tôi vẫn là tôi của những ngày mới quen nhau.
(Xem: 14463)
Bản chất của mùa xuânchuyển hóa. Nó có khả năng chuyển hóa đối với những gì đang có mặt nơi nó để nó trở thành mùa xuân cho chính nó...
(Xem: 15460)
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạchmở rộng...
(Xem: 17862)
Thử tắt điện thoại một ngày… Một cuộc “biến mất” không dự báo trước, đối với nhiều người. Đó là một cách biểu hiện của vô thường, dành tặng cho những người thân-thương.
(Xem: 18020)
Mỗi lần đi qua những cánh đồng đang mùa gặt, tôi lại nhớ về những ngày thơ ấu êm đềm ở làng quê. Cái hương quê ngai ngái mùi lúa mới ấy như cứ mãi vấn vít lòng tôi...
(Xem: 15337)
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
(Xem: 14869)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả).
(Xem: 15543)
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió,...
(Xem: 13531)
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ.
(Xem: 13373)
Gió thổi làm những chiếc lá lay động, làm nhánh cây, cành cây bâng khuâng, làm rừng xanh, đìu hiu xao xuyến. Con chim đang ngủ trong tổ giật mình thức giấc...
(Xem: 15654)
Em mới mười một tuổi, mẹ bỏ em lại bên chân núi. Ruộng dưa mênh mông, em ngơ ngác như con bù nhìn rơm giữa nắng và gió.
(Xem: 16858)
Về quê vào những ngày cuối năm mới thấy sao yêu đến vậy cái đồng đất quê mình, thương biết mấy những chị, những mẹ một nắng hai sương trên ruộng đồng.
(Xem: 12078)
Sau giờ thiền toạ sáng nay, lắng nghe lại lòng, hình như có dòng sông nào đó tuôn chảy qua đời, bắt được tiếng hơi thở thánh thót của vũ trụ...
(Xem: 13526)
Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm...
(Xem: 18124)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
(Xem: 16414)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 14348)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 12846)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant