Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những bất cập trong bài viết “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ”

08 Tháng Chín 201100:00(Xem: 11779)
Những bất cập trong bài viết “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ”

NHỮNG BẤT CẬP TRONG BÀI VIẾT
“PHẬN NHỮNG NÔ LỆ TÌNH DỤC TRÊN CHÙA ẤN ĐỘ”

Minh Nguyên


blankVừa qua, trên trang báo điện tử Vietnamnet có đăng bài viết của tác giả Sầm Hoa với tựa đề “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ” đã gây xôn xao dư luận trong cộng đồng Phật giáotổn hại đến hình ảnh, uy tín của Phật giáo. Nguồn gốc bài lược dịch này lấy từ đâu? Tính xác thực của nó như thế nào? Và những chủ ý nhào nặn ngôn ngữ cũng như sự yếu kém của tác giả Sầm Hoa thể hiện ở đâu mà gây ra bất bình như thế? Trong bài viết này chúng tôi sẽ lần lượt trình bày những vấn đề đó để mọi người cùng nhìn nhận và phán xét. 

Trước hết là vấn đề nguồn tài liệutác giả Sầm Hoa đã sử dụng để viết bài. Thực ra một bài lược dịch có nguồn gốc từ một bài viết bằng tiếng Hoa. Như tác giả ghi chú là “Theo Huanqiu”. Huanqiu là trang web Hoàn Cầu, có tên miền là www.huanqiu.com. Dựa vào nguồn tác giả Sầm Hoa đã đưa ra và dựa vào bài viết, chung tôi thử dùng từ khóa “印度聖女的性奴” (Ấn Độ Thánh nữ đích tính nô - tạm hiểu: Thánh nữ làm nô lệ tình dụcẤn Độ) để tìm kiếm trên chính trang web Hoàn Cầu thì thấy có bài viết với tiêu đề là “印高僧享用的性奴圣女” (Ấn cao tăng hưởng dụng đích tính nô thánh nữ - đây là đường dẫn của nó: http://society.huanqiu.com/gallery/2011-08/1922956.html), bài này được đăng vào ngày 18/8/2011. So sánh nội dụng bài viết này với nội dung bài lược dịch của Sầm Hoa thì thấy có sự giống nhau. Ngay những hình ảnh dùng để minh họa cho bài viết của Sầm Hoa ở trên Vietnamnet cũng giống với những hình ảnh đã được dùng để mình họa cho bài viết “Ấn cao tăng hưởng dụng đích tính nô thánh nữ” ở trên Hoàn Cầu. Cho nên chúng tôi mạnh dạn khẳng định là Sầm Hoa đã lược dịch từ bài “Ấn cao tăng hưởng dụng đích tính nô thánh nữ”.

Bây giờ chúng tôi xin bàn về nội dung mà tác giả Sầm Hoa đã lược dịch. Ngay ở tiêu đề, tác giả Sầm Hoa tự đặt lại một tiêu đề mới chứ không phải dịch từ tiêu đề của bài viết bằng tiếng Hoa. Đúng là ở trong tiêu đề bài viết gốc có dùng chữ 高僧 (cao tăng), nhưng nếu đọc vào nội dung của bài viết, ngày ở đoạn đầu tiên, chúng ta thấy người ta viết rất rõ ràng rằng: “印度有一種與其歷史一樣古老的傳統――來自賤民家庭的女孩子年紀輕輕便開始為寺院服務,成為印度教高級僧侶和婆羅門長老的性奴隸. 她們被稱為聖女” (Âm Hán Việt: Ấn Độ hữu nhất chủng dữ kỳ lịch sử nhất dạng cổ lão đích truyền thống nhất nhất lai tự tiện dân gia đình đích nữ hài tử niên kỷ khinh khinh tiện khai thủy vị tự viện phục vụ, thành vị Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ hòa Bà la môn trưởng lão đích tính nô lệ. Tha môn bị xưng vi thánh nữ. Tạm dịch:Ấn Độ có một truyền thống từ xa xưa, gắn liền với lịch sử rằng, con gái của các gia đình tiện dân phải phục vụ cho các đền thờ ngay từ khi còn nhỏ, và trở thành những nô lệ tình dục cho các vị tu sĩ cao cấp của Ấn Độ giáo và các vị trưởng lão Bà la môn. Những người nữ ấy được gọi là thánh nữ). Như vậy, việc các thánh nữ phục vụ cho các ngôi đền là một truyền thống, một hủ tục của Ấn Độ, và nó liên quan đến Ấn Độ giáo. Các “thánh nữ” ấy trở thành những nô lệ tình dục cho các tu sĩ của Ấn Độ giáo và các vị trưởng lão Bà la môn trong xã hội Ấn Độ chứ không hề dính dáng gì đến Phật giáo, không hề làm nô lệ tình dục cho các vị tu sĩ của Phật giáo. Còn chữ “cao tăng” ở tiêu đề của bài viết tiếng Hoa và ở phần dưới của nội dung hay là chữ “tăng lữ” ở trong bài viết là do người ta đã lược giản từ chữ “cao cấp tăng lữ” mà ra. Việc đặt tiêu đề như ở trong bản gốc tiếng Hoa là một cách để thu hút người đọc, tạo tính tò mò. Làm như thế đã là khó chấp nhận. Nhưng ngay từ đoạn đầu của bài viết, người ta đã ghi rất rõ là “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ”, nên người ta có tỉnh lược thành “cao tăng” hay “tăng lữ” ở phần sau vẫn tạm chấp nhận được, vì không gây hiểu nhầm. Thế nhưng, khi chuyển dịch cụm từ “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ hòa Bà la môn trưởng lão”, tác giả Sầm Hoa lại dịch là “cao tăng và các trưởng lão Bà la môn”. Tác giả đã lược bỏ một ý hết sức quan trọng của cụm từ đó. Chính điều này và từ “chùa” mà Sầm Hoa đã dịch từ hai chữ “tự viện” ở phần trước đó đã gây hiểu nhầm cho người đọc, khiến người ta hiểu đấy là các vị cao tăng của Phật giáo. Đây là sự lược bỏ có chủ ý, là một sai lầm nghiêm trọng của Sầm Hoa. Còn về từ “tự viện” có các nghĩa là: chùa, đền, hay tu viện của các tôn giáo. Khi dùng chữ “chùa” có nghĩa là đang nói đến chùa Phật giáo, là nơi thờ Phậttu tập của tín đồ Phật giáo. Theo trong mạch văn của bản gốc thì “tự viện” phải dịch là “đền” mới hợp, vì các vị tu sĩ cao cấp của Ấn Độ giáo không thể ở trong chùa.

Riêng về từ “Thánh nữ”, trong tiếng Hindi (ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ) gọi là “Devadasi”. Theo trong bài nghiên cứu “Devadasi system in Indian Temples” (Hệ thống thánh nữ trong các đền thờ ở Ấn Độ) của tiến sĩ Zoya Zaidi, người Ấn Độ, thì từ “Devadasi” có nghĩa đen là “God’s female servant” (tỳ nữ của Thần linh). Việc chọn ra những người con gái để làm “Devadasi” là một tập tục của Ấn Độ giáo. Trước tuổi dậy thì, một số người con gái (trinh nữ) thuộc giai cấp tiện dân ở trong xã hội sẽ được gia đìnhcộng đồng chọn để làm phẩm vật hiến dâng cho Thần linh thờ tại ngôi đền ở địa phương. Những cô gái ấy không được phép lập gia đình, vì họ được xem như là đã kết hôn với vị thần ở trong đền rồi. Các cô gái ấy sẽ “phục vụ” cho các vị tu sĩ sống trong đền, và “phục vụ” cho cả những người có chức quyền ở trong làng, xã và cả những người địa chủ, họ phục vụ vì những người đàn ông ấy trả tiền hoặc là dùng quyền lực ép buộc. Việc các “thánh nữ” phải phục vụ, phải quan hệ tình dục với những người đàn ông ấy được xem như là giống như đang phục vụ cho thần linh. Các cô gái ấy phải phục vụ cho thần linh suốt đời, không được trốn thoát. Nếu như có cô nào trốn thoát thì cộng đồng xã hội sẽ tẩy chay họ. Đây là một hủ tục, cưỡng bứchành hạ người phụ nữ, gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, cho nên vào năm 1934 nhà nước đã ban hành lệnh cấm hủ tục này. Rồi đến thập niên 1980, nhà chức trách lại tăng cường lệnh cấm, thế nhưng đến nay nhiều nơi vẫn vi phạm, hủ tục vẫn diễn ra.

Trở lại với bài viết của tác giả Sầm Hoa, cũng ở tiêu đề, tác giả viết là “Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ”, tiêu đề này đã bộc lộ rõ sự yếu kém về trình độ tiếng Việt của tác giả. Sao lại là “trên chùa”? Có chùa nào có tên là “chùa Ấn Độ” hả? Với cách viết của Sầm Hoa như thế thì người đọc có thể hiều là có một ngôi chùa Ấn Độ và ngôi chùa ấy luôn nằm phía trên khu dân cư, hoặc nằm trên núi. Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng. Một dịch giả bình thường thì không thể nào lại lược dịch như thế được. Nhưng việc làm này của Sầm Hoa khá trẻ con. Bởi vì, với những người có chút ít kiến thức về xã hội, về lịch sử thì sẽ dễ dàng nhập thấy sự sai lạc trong nội của bài viết. Tại vì, trong Phật giáo không hề có khái niệm thần linh, không bao giờ thờ cúng thần linh, càng không có tục chọn “thánh nữ” để dâng cúng cho thần linh. Hơn nữa, kể từ thế kỷ thứ 12, Phật giáo đã bị suy tànẤn Độ, suốt nhiều thế kỷ không hề có bóng dáng tu sĩ Phật giáoẤn Độ, rất hiếm người Ấn Độ biết về Phật giáo. Mãi cho đến cuối thế kỷ 19, Phật giáo mới bắt đầu hồi sinh trở lại, nhưng rất chậm. Cho đến nay, theo thống kê Xã hội học của Ấn Độ, tín đồ Phật giáo chỉ có 0,5% trong tổng số hơn 1 tỷ người dân Ấn Độ. Đấy là con số nói chung về tín đồ Phật giáo. Còn riêng số lượng chư Tăng người Ấn thì rất hiếm hoi. Họ chủ yếu sống tập trung tại các di tích, thánh tích của Phật giáo. Vậy thì lấy đâu ra nhiều chùa để cho các “thánh nữ” đến phục vụ, như tác giả viết: “...con gái của những gia đình địa vị thấp ở Ấn Độ đều phải lên chùa để làm Thánh nữ”“Những bé gái xuất thân trong gia đìnhđịa vị thấp trong xã hộiẤn Độ đều không thể thoát khỏi... Khi trở thành thiếu nữ, họ sẽ chính thức làm lễ kết hôn trên chùa, sau đó sẽ phải trải qua đêm tân hôn với các cao tăng, trưởng lão tại đây”. Và đã không có nhiều chùa thì lấy đâu ra nhiều “cao tăng”, “trưởng lão” nhiều “thầy tu háo sắc” (chữ của Sầm Hoa) để cho các “thánh nữ” phục vụ? Bạn dịch như vậy không thấy quá sai lệch với lịch sử sao?

Nếu xét về lỗi dịch thuật, văn phong thì trong bài lược dịch của Sầm Hoa còn có nhiều điểm khác cần phải bàn. Nhưng chúng tôi không có chủ ý phân tích bài viết của Sầm Hoa, mà chỉ muốn trình bày những điểm chính mà Sấm Hoa đã dịch sai, đã nhào nặm ngôn ngữ, khiến cho bạn đọc hiểu sai bản chất của vấn đề, của một hủ tục trong truyền thống xã hội Ấn Độ, và gây tổn hại đến uy tín, thanh danh của Phật giáo, của chư Tăng mà thôi.

Mong là Sầm Hoa rút kinh nghiệm và làm việc có lương tâm của một người cầm bút hơn. Và mong báo Vietnamnet phải cẩn trọng hơn khi biên tập và duyệt đăng bài vở, nhất là những bài liên quan các vấn đề nhạy cảm.

Minh Nguyên

 

Nguyên văn nội dung bài viết của tác giả Sầm Hoa đăng trên Vietnamnet:

Phận những nô lệ tình dục trên chùa Ấn Độ

Khi đến tuổi cập kê, con gái của những gia đình địa vị thấp ở Ấn Độ đều phải lên chùa để làm "Thánh nữ" nhưng thực tếtrở thành nô lệ tình dục của những cao tăng và các trưởng lão Bà la môn.

Những bé gái xuất thân trong gia đìnhđịa vị thấp trong xã hộiẤn Độ đều không thể thoát khỏi những cuộc hôn nhân theo truyền thống khi mới 10 tuổi đó là trở thành "lễ vật" trong lễ cầu nguyện cho cả dân làng và được hứa hẹn gả cho "thần thánh" địa phương. Khi trở thành thiếu nữ, họ sẽ chính thức làm lễ kết hôn trên chùa, sau đó sẽ phải trải qua đêm tân hôn với các cao tăng, trưởng lão tại đây.

Chức danh "Thánh nữ Ấn Độ" không phải chỉ Nữ hoàng cũng không phải nữ minh tinh mà ngược lại đó lại là những cô gái có số phận bi thảm nhất trong xã hội.

Bình thường các "Thánh nữ" vẫn sống chung cùng gia đình, trước khi trở nên già cỗi, họ phải phục vụ trên chùa suốt những năm tháng thanh xuân của mình. Sau đó, giống như những kỹ nữ ở nhà thổ châu Âu, trước khi chuẩn bị "về hưu", họ lại lên kế hoạch cho một thế hệ "Thánh nữ" tiếp theo.

Tại Ấn Độ, "Thánh nữ" không uy nghiêm như tên gọi của nó, ai cũng biết rõ rằng những cô gái có địa vị cao như vậy có vai trò thực sự như thế nào. Chức danh "Thánh nữ Ấn Độ" không phải chỉ Nữ hoàng cũng không phải nữ minh tinh mà ngược lại đó lại là những cô gái có số phận bi thảm nhất trong xã hội.

Theo truyền thống, "Thánh nữ Ấn Độ" đều là con nhà nghèo. Khi các cô gái mới bước vào tuổi thanh xuân căng tràn sức sống, họ đã bị bán lên chùa để trở thành vật hiến tế cho thần linh, cả tuổi xuân phải sống trên chùa để làm nô lệ tình dục và không có cuộc sống hôn nhân bình thường như những người khác.

Tổ chức từ thiện Christian Aid phát hiện mặc dù nghi lễ biến trẻ em thành "Thánh nữ" để lên chùa phục vụ các nhà sư đã bị cấm từ năm 1986 tại Ấn Độ nhưng khi tiến hành kiểm tra 42.000 "Thánh nữ" ở khu vực Andhra Dees, có tới 40% cô gái bị HIV dương tính.

Phong tục tập quán cổ hủ thâm căn cố đế tại Ấn Độ đã hủy hoại sức khỏe của những thiếu nữ bất hạnh cũng như khiến virus HIV lây nhiễm trong cộng động với tốc độ nhanh hơn.

Rõ ràng, những "Thánh nữ" bị biến tướng vai trò đều là những người ở dưới đáy xã hội, không ai thèm đếm xỉaquan tâm. Ngoài làm công cụ tình dục cho các thầy tu, họ còn là "trạm lưu thông hoạt động" của virus HIV.

Hiện nay, tại Ấn Độ đã có hơn 5 triệu người bị lây nhiễm HIV, nếu như khôngbiện pháp khống chế hiệu quả, thì cứ 10 năm, sẽ có thêm 3 triệu người bị nhiễm loại virus gây ra căn bệnh thế kỷ AIDS này.

Mặc dù biết tử thần đang đứng trước mặt nhưng hủ tục "Thánh nữ" của người dân Ấn Độ vẫn không thay đổi. Để có được miếng cơm no bụng, những "Thánh nữ" vẫn chấp nhận đi lên chùa, hy sinh tuổi thanh xuân cho "thần thánh" và xà mình vào vòng tay của những thầy tu háo sắc. Cách gọi "Thánh nữ" dường như chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài, hằng ngày họ vẫn sống chung với gia đình, chỉ khi nào nhà chùa cần thì họ mới phải báo đápđiều kiện.

Ngoài việc mua vui miễn phí cho các thầy tu, hầu như các "Thánh nữ" không phải làm gì khác. Khi còn trẻ, họ luôn được các thầy tu sùng ái nhưng khi hết thời, họ chỉ như những cây mía bị ép hết nước. Khi đó, các thầy tu sẽ nói rằng nhiệm vụ của họ đã hoàn thành và họ không còn là "Thánh nữ" nữa.

Hầu hết những "Thánh nữ già" lưu lại ở chùa phải sống những tháng ngày còn lại trong đau khổ, họ trở thành quân sư bất đắc dĩ cho những lớp "Thánh nữ" mới. Thực tế, cho dù là Thánh nữ mới hay cũ thì những cô gái này đều không thoát khỏi số mệnh bi đát luân hồi.

Sầm Hoa (Theo Huanqiu)

Link: http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/36361/phan-nhung-no-le-tinh-duc-tren-chua-an-do.html

 

Nguyên văn bài viết tiếng Hoa:

 

印度聖女命運悲慘 賣身高僧成性奴

 

印度有一種與其歷史一樣古老的傳統――來自賤民家庭的女孩子年紀輕輕便開始為寺院服務,成為印度教高級僧侶和婆羅門長老的性奴隸。她們被稱為聖女。

這些地位低下的鄉村女孩10歲時便不得不放棄傳統的婚姻模式,將自己一生幸福都獻給了當地的神,為本村的村民進行宗教儀式和做祈禱。

剛剛進入青春期,她們便在儀式和慶典上嫁給寺院,然後與寺院僧侶或長老共度洞房花燭夜。

聖女一般與家人生活在一起,在衰老之前一直為寺院服務。然後,就如同歐洲妓院老鴇的命運一樣,年老的聖女開始退居幕後,為下一代聖女出謀劃策。

在印度,“聖女”可不是個體面的稱呼。儘管人們對她們恭敬畏懼,磕頭碰地;但是,誰都清楚,那些高高在上的姑娘,究竟在 充當什麼角色。所謂“印度聖 女”,既不是女王,也不是女明星;反倒是命運最為凄慘的苦孩子。但凡家裡有條件,誰肯把親閨女送出去,受人淩辱呢?這話聽起來別扭,說到底,還是印度古老 的文化傳統使然。

遵照傳統,“印度聖女”全部來自賤民家庭,她們剛剛進入青春期,就被迫賣身於寺院。人前,有個光鮮的名字遮羞——聖女; 背後,不過是印度教高級僧侶和婆羅 門長老們免費的“性奴隸”。這種醜事兒瞞不了人,所以,走進寺院,向神靈獻身的少女,注定要出賣青春和肉體,也注定要過一輩子沒有婚姻的奇特生活。

慈善機構基督教援助慈善會發現,儘管印度小女孩成為聖女為寺院工作的做法已在1986年被正式宣布為非法,但安德拉普拉德什地區的4.2萬聖女當中仍有約40%HIV檢查呈陽性。

 印度古老的習俗,葬送了無辜少女的身心健康,也為艾滋病傳播,埋下了禍根。很顯然,“聖女”這種畸形角色,完全處於社會底層,既沒人關心,也沒人管理。除了充當僧侶的洩欲工具之外,她們還是艾滋病毒的活動流通站。印度社會將為此付出高昂的代價。

目前,印度的艾滋病病毒感染者已超過500萬人,如果未加有效控制,那麼,每十年,將新增300萬新患者。早在2003年,艾滋病就成為印度人口死亡最多的疾病。

雖說死神在前邊呲牙,印度風俗依然是要色不要命,各種各樣的“聖女”為了吃一口飽飯,不得不走上了通向寺院的道路,她們必須把青春獻給冥冥之中的神,將肉體投入那些僧侶們貪婪的懷抱。“聖女”似乎不穿僧袍,日常生活也在自己家裡。只有寺院需要時,她們才無條件地報到。

除了免費的性服務,其他根本就用不著,“聖女”們招之即來,揮之即去,酷似廟裡的“應召女郎”。她們紅顔尚在時,定然是長老們的香餑餑,一旦年老色衰,便淪為榨幹汁水的甘蔗渣子。寺院裡宣稱:你的任務完成了,從“聖女”隊伍中退役吧。


留給這個“老聖女”的,只有殘燈破廟,痛苦的餘生。她們往往成為新一代“聖女”業餘參謀。其實,無論新老聖女如何算計,也跳不出命運的輪回。(來源:環球網)

Link: http://big5.xinhuanet.com/gate/big5/news.xinhuanet.com/life/2011-08/18/c_121876443.htm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1951)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2068)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2255)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2524)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2556)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2090)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2543)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1881)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1979)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2261)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2783)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1703)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1613)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1808)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1641)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2216)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2378)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2089)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1875)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1792)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1972)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1707)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2694)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1856)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2185)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2149)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2498)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1813)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2000)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1868)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2045)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2615)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3684)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2290)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2294)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1678)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1983)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2317)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2321)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2157)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3122)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2141)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2535)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2051)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1981)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2191)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2492)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2058)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2451)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2415)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant