Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập từ tam muội phóng sinh

26 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 17298)
Nhập từ tam muội phóng sinh
NHẬP TỪ TAM MUỘI PHÓNG SINH
Chân Hiền Tâm

Sông nước mênh mông…

Thả cá ở đây thật tuyệt! Tha hồ bơi lội sau khoảng ngột ngạt trong bao ny-lông. Giăng lưới bắt cá cũng tuyệt(1). Tha hồ rộng rãi… Bên thả. Bên giăng. Trước thả. Sau giăng. Nhìn hai cảnh ấy cũng thấy ngồ ngộ. Thế gian là thế. Ai thả thì thả. Ai bắt thì bắt. Gieo quả nào gặt quả đó. Rồi cứ theo nghiệp mà đi. Còn chúng sinh sống hay chết là do phước đức của chúng.

Tôi không chú tâm với việc phóng sinh. Là không chú tâm bỏ tiền mua cá mua chim về thả. Đủ duyên thì làm. Chú tâm và tập thành thói thì không. Có lẽ quá khứ không huân tập nhiều. Hiện đời, có những nghi ngại khiến mình không thấy hứng thú. Cá ếch ngoài chợ không có người thả, chúng vẫn bị bắt ăn thịt, mình thả còn thấy có chút lợi ích cho vật cho người. Nhưng mấy chú chim, không vì nhờ mình cầu phước cho mình, chắc không có chim bị bắt, cũng không có người tạo nghiệp bắt chim. Thả nhiều, bị bắt càng nhiều, người tạo nghiệp bắt chim càng mạnh? Đại sư Trí Giả ngày xưa làm đầm phóng sinh, thuyết pháp cứu vật, cứu luôn nghiệp sát cho người. Người nghe thuyết pháp, chuyển nghề chài lưới khá nhiều. Cho nên, tập trung cho việc chuyển tâm trước đã. Còn việc phóng sinh, khi nào có duyên mới làm. 

phongsinh2-chanhientamMấy chục năm trước, chị em chồng tôi bị bắt vì bán vàng chui. Thiên hạ bày mua chim thả. Ừ thì mua chim về thả. Trong cơn hoạn nạn bày gì làm đó, mong sự may mắn xảy ra. Niệm Phật mở lồng, chim bay hết còn lại hai con. Vỗ mấy cũng không ra. Phải cho tay vào bắt. Cái điềm khiến mình suy ngẫm nhân quả ở đời. Nhân gieo một khi đủ duyên thành quả, có phóng cũng chẳng chịu ra. Mà thiệt! Ở hết một năm.

Lần hai là vào tháng Bảy năm ngoái. Ngồi mua nấm mà con cá ở hàng bên cứ phóng vào mình. Quá ba bận, không thể không bận tâm. Mấy bà chung quanh không cho phóng sinh, nói chết. Nhảy dữ vậy mà chết? Nhảy vậy nhưng chết giờ.

Phóng sinh không phải là nghiệp của mình, lại nghe phóng rồi cũng chết không sinh, lại càng không thấy hứng thú. Niệm Phật và nhủ với nó vài lời rồi đi. Nhưng đi một đoạn lại thấy hối hận: “Chuyện sống hay chết chưa biết. Nhưng nó đã nhảy qua mình mấy bận... Dù gì, không do chặt đầu làm vẩy mà chết, đỡ đau đớn hơn”. Nghĩ rồi, trở lui mua cá, thả ở cái cầu gì đó không biết. Vừa đi vừa niệm. Tha thiết mà niệm cho chúng sống sót, cho chúng an bình. Có chết cũng được một câu niệm Phật hồi hướng gieo duyên.

Thiên hạ vẫn nói: “Dân thường tụng niệm phóng sinh không linh, phải có Tăng Ni mới linh”. Cũng biết, dân thường tụng niệm phóng sinh không linh, do tâm dân thường không tịnh. Là do thân tâm, không do đầu áo nhãn mác. Nhưng trong cái duyên lóp ngóp của chúng bấy giờ, mạng treo chỉ mành, gặp được Tăng chúng thanh tịnh, biết còn để hưởng phước không? Thôi thì dồn tâm tụng niệm cho chúng. Quan trọng ở chỗ hữu duyên, có duyên liền ứng. Quan trọng ở chỗ nhất tâm, có tâm liền cảm. Hết lòng niệm Phật nhất tâm hồi hướng cho chúng trước đã. Tôi tu thiền đâu có niệm Phật. Chỉ niệm khi cầu gia bị hồi hướng cho ai. Bởi nghĩ lực mình không đủ, phải cầu các Ngài gia bị cho chắc. Tôi thấy tha thiết và có lòng thành, niệm Phật sẽ được nhất tâm. Ít nhất là vào lúc đó. “Năng lễ, sở lễ tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”. Tôi tin như thế và đã làm như thế.

Tới đây, không biết có còn duyên nào khiến làm những việc đó không. Không thì chắc cũng không làm. Không làm, nhưng không phản đối khi thấy người làm. Nói “ít” thì chính xác hơn là “không”. Với những cái duyên mình thấy chỉ còn hình thức, trở thành tệ nạn cho chính người đó quá rõ, thì cũng lên tiếng ít nhiều. Còn nghe hay không là việc của người.

Nói không phản đối vì nhiều lý do:

1. Thế giới này rộng lớn và còn rất nhiều bí ẩn mà với cái trí hiện nay của tôi, tôi không dám chắc là đã thấy đúng bản chất của mọi hiện tượng để mà phản đối. Quá khứ bản thân lầm lẫn đã có. Người hiểu không đúng về mình cũng nhiều. Đâu thể y cứ một vài hiện tượng nào đó để mà thị phi. Cho nên, duyên nào thiện ác đã phân rõ rồi thì nói, không thì cũng tránh khởi tâm, khỏi tổn đức, mình cũng tránh hại người.

2. Chim cá thả rồi, có thể bị bắt lại liền sau đó, nhưng được một lần chú nguyện, cũng là duyên tốt về sau cho chúng.

3. Sáng nào tôi cũng đi chợ. Chợ đời lắm nỗi nhiêu khê. Ếch bị đập đầu vẫn còn chắp tay lại lạy, cá bị chà đất văng bọt tung tóe… Bao nhiêu oan khiên xảy ra trước mắt như chuyện thường ngày ở huyện. Khoanh một vùng nhỏ, đã thấy chúng sinh khổ nạn rất nhiều. Vật đau hiện tại. Người khổ tương lai. Phóng sinh để chúng thoát khỏi những cảnh đau đớn lầm than, thấy cũng nên làm. Với kẻ đồng lương ba đồng ba cọc lương thiện, dành dụm ít tiền phóng sinh, cho dù mục đích quy ngã vẫn là đáng quý. 

4. Chúng sinh cang cường, không phải dạy cho điều hay lẽ phải là đã chịu nghe. Hòa thượng ngày trước, vì lòng bi mẫn, khuyên người bạn tôi hãy thôi quyên tiền cúng chùa làm phước, để tâm cho việc tu hành. Vậy mà bực bội bỏ đi. Trong tâm còn sinh oán giận. Đi cho đủ hết Ta-bà khổ nạn, người đuổi, người chê, mới tỉnh quay về sám hối cạo đầu. Mới thấy, đâu phải nói đúng là đã chịu nghe. Cho nên, Đức Phật ngày trước, còn phải lập bày phương tiện, không thể chỉ thẳng con đường thẳng tắt. Huống thời mạt pháp, chúng sinh mê muội càng dữ, cố chấp tự mãn càng kinh, sơ tâm nếu không thuận theo tính dục của họ, khó mà gần gũi độ họ dài lâu. Cho nên, có khi thấy chim chưa thả đã chết, thấy cá thả rồi có cơ bắt lại tức thì… cũng không có ý phê bình các bậc tôn đức vì sao chú nguyện mà không khuyên người đừng thả? Phương tiện độ sinh không thể nghĩ bàn, kẻ ngoài làm sao biết được. 

5. Có khi thấy việc phóng sinh đi quá cái mức bình thường, không còn mang nghĩa phóng sinh, hoặc cầu hết bệnh, an lành, thoát nạn, tức vì tự ngã mà làm, không vì thương tưởng chúng sinh… đúng lý thì thấy không hay cho lắm, nhưng xét trên sự, với kẻ sơ tâm vẫn có mặt hơn. Điều đó cho thấy chư vị đã tin nhân quả, không còn nương tựa tháp miếu cô cậu, van lạy cầu xin mê tín dị đoan. Đã biết xả của, mở lòng… Đó là cái nhân tốt đẹp mở đường cho những suy nghĩ, hành động mang tính nhân quả, phước thiện sau này.

Nghĩ vậy, tôi ít khởi tâm phê bình, cản trở khi thấy người muốn phóng sinh. Nhưng làm thì tùy. Tôi chú tâm hơn với việc không giết sinh vật quanh mình. Con rết có cắn, không tâm sát hại đã đành, cũng không khởi tâm oán hận bực bội. Con chuột phá phách cũng không có tâm giết nó. Muỗi mòng các thứ… Tập không khởi tâm bực bội để rồi phải giết. Bạn nói bệnh tật? Tại mình có tâm giết hại mới sinh tai họa bệnh tật. Không tâm, duyên tụ vào đâu để sinh? Nếu sinh, là do nghiệp cũ đủ duyên. Phải trả thì trả, không thích tạo thêm nhân mới. Có khi nhờ vậy lại xóa nghiệp cũ cũng nên. Tôi tin như thế và tập làm dần những việc như thế. Cũng là một cách giải nghiệp cho mình. Nghiệp tịnh thanh rồi, ứng duyên, lợi vật sẽ có lợi ích thiết thực cho đời.

Hình thức cần có nội dung

phongsinh1-chanhientamNgười người thích việc phóng sinh là có nhân duyên. Có người do huân cái nghiệp phóng sinh từ đời quá khứ, giờ đã thành tập, cứ nghe phóng sinh là thích rồi làm, không cần lý do. Có người nghe nói phóng sinh có thể sống lâu, hết bệnh, thoát nạn… nên thích phóng sinh. Tính ra, không phải tu thân, tịnh tâm, giữ miệng mà được cái quả như thế còn gì khỏe bằng. Hiện đời lỡ gieo cái nhân bất thiện cũng thoát tù tội thì sao không làm? Có khi phóng sinh cả mấy trăm triệu cũng vì lý đó. 

Phóng sinh chỉ vì thương vật, không vì cầu phước, cầu lợi cho mình, chỉ có Thánh nhân làm được. Vì phần tự lợi tương đối hoàn chỉnh, thân tâm như hóa như huyễn cầu chi? Chỉ do bi tâm xuất hiện ở đời độ sinh, vì người vì vật là chính. Còn lại đa phần chúng ta, những việc vị tha đều có vị ngã ít nhiều trong đó. Thành nếu mua cá, thả chim để cầu phước lợi cho mình hay cho người thân là việc tự nhiên. Vẫn là đáng quý, vì mình đã tin nhân quả. Có điều, nên nhìn vấn đề đúng như những gì kinh dạy. Có vậy việc làm mới không hư vọng. Chỉ có hình thức, không đúng bản chất, đến khi cái quả nghịch ý xảy ra, lại trách Phật Tổ nói sai, dang dở niềm tin đối với Tam bảo, không còn hành thiện, đọa ba đường dữ nhanh chóng, uổng phí cho mình. Cho nên, cần hiểu cái lý cho đúng, trên sự làm được đến đâu thì làm. Có làm, dù chỉ chút ít cũng là rất quý. Không nên phương tiện đến nỗi chỉ còn hình thức, trở thành dối mình gạt người.

Tôi thấy một đoạn, không biết tác giả là ai, ghi vầy: “Dược Sư Lưu Ly Bổn Nguyện Công Đức dạy rằng cứu thả các sinh mạng, tiêu trừ được bệnh tật, thoát khỏi các nạn tai”. Nói vậy, chỉ cần hình thức phóng sinh, sẽ được cái quả tiêu trừ tật bệnh… Phật tử cũng truyền miệng nhau như vậy. Nhưng khi đọc vào bản kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Ðức,(2) những phần liên quan đến việc phóng sinh, thì thấy không hẳn như vậy. Kinh ghi: “Nếu có người muốn thoát bệnh khổ, nên vì người đó 7 ngày 7 đêm thọ trì 8 phần trai giới. Tùy lực làm được, sắm sửa đồ ăn, thức uống cùng các vật dụng cúng dường chư Tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng kinh này 49 biến…(3) cũng cần phóng đến 49 tạp loại chúng sinh, thì người bệnh có thể qua khỏi ách nạn, không bị các quỷ ngang ác nhiễu hại”. Hoặc “Nếu các quốc vương dòng Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnhgặp nạn tai, như dân chúng bị dịch, nước khác xâm lăng, nội loạn, quá thời chẳng mưa... thì lúc ấy các vị phải đem lòng từ thương xót tất cả hữu tình, ân xá tội nhân, y theo pháp cúng dường đã nói mà cúng dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Do thiện căn đó cộng với lực bản nguyện của Như Lai, trong nước liền được an ổn, mưa gió thuận thời, lúa thóc được mùa, tất cả chúng hữu tình đều vui vẻ, không bịnh hoạn, không bị thần Dược Xoa bạo ác não hại. Tất cả tướng ác đều ẩn. Các vị quốc vương sống lâu, không bịnh, tự tại, mọi việc đều thêm lợi ích”. Theo đó thì thấy, phóng sinh súc vật chỉ là duyên phụ giúp cho yên ổn, hết bệnh, thoát nạn. Duyên chính vẫn là giữ giới, trì tụng kinh điển, niệm danh chư Phật như lời thệ nguyện mà hàng Dược Xoa nói ở cuối kinh: “Nơi làng, xóm, thành, nước, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu có lưu bố kinh này hoặc lại có người thọ trì danh hiệu Dược Sư Lưu Ly, cung kính cúng dường, quyến thuộc chúng con nguyện đều hộ vệ thoát khỏi khổ nạn, các việc mong cầu khiến được thành tựu. Có ai bịnh hoạn khổ ách muốn cầu cho khỏi, cũng nên đọc tụng kinh này, lấy chỉ ngũ sắc kết tên chúng con, sau như ý rồi thì mở kết ra”. Cái chính của việc thoát khổ hết nạn là nhờ từ tâm, không chỉ nằm trên hình thức phóng sinh. Tuy nhờ từ tâm, nhưng sao lại phải trì tụng kinh điển…? Từ tâm là thứ có sẵn trong mỗi chúng sinh, vì bị cái tôi chất đầy phân biệt, ái dục che đậy mà ẩn. Giữ giới, niệm Phật, ngồi thiền, trì chú, hồi hướng tất cả chúng sinh đều được an vui, đều thành Phật đạo, chính là phương tiện giúp xóa cái tôi, hiển phát lòng từ.

Ngày xưa, khi Phật ở nước Câu-viêm-di. Vua nước ấy tên Ưu-dà-diên. Đệ nhất phu nhân tên là Xá-ma, là một tín nữ trung thành của Phật và hàng Thánh chúng. Bà thường thân cận cúng dường Như Lai, ca ngợi công đức của Ngài hết mực. Đệ nhị phu nhân thì không. Một lần bà tâu với vua: “Như Lai và hàng đệ tử có chỗ không chánh đối với phu nhân Xá-ma”. Nhà vua nghe xong, nổi giận, lấy cung bắn vào Xá-ma. Vì thương xót vua, Xá-ma nhập Từ tam muội. Mũi tên bắn ra, quay lại dừng trước trán vua. Tên ấy cháy đỏ như một khối lửa trong rất đáng sợ. Vua bắn ba phát, thảy đều như vậy(4). Nói “Từ tam muội” là nói tâm từ bình đẳng. Mong muốn người thân cũng như người oán đều được an vui, vui rồi càng vui thêm nữa. Chính nhờ phát được tâm Từ tam muội nói đó mà mọi nạn tai thoát hết, ngục tù cũng không. Không phải chỉ có hình thức phóng sinhthành tựu được. Kinh Phạm Võng nói: “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm phóng sinh…”. Đại sư Phật Ấn cũng nói: “Giới sát, niệm Phật kiêm phóng sinh…”. Mọi việc đều cần “từ tâm”. Không với từ tâm, cái quả nhận được chưa hẳn như kinh đã nói. Nếu có từ tâm không cần phóng sinh, bệnh tật, tai ương, hoạn nạn cũng tiêu. Song, có từ tâm cũng không từ chối làm việc phóng sinh. Phóng sinh với một tâm từ, mọi thứ sẽ được chăm chút, sẽ vì sự sống muôn loài phóng sinh đàng hoàng, cũng không sinh tâm ngã mạn thấy mình hơn người…

Phóng sinh, phương tiện giúp ta hiển phát tâm từ, cũng là hệ quả tất yếu khi tâm từ hiển phát.

Phóng tâm bất thiện đừng để nó sinh

Từ tâm, thể hiện qua việc giữ gìn 5 giới của người tại gia.

1. Không vì một miếng ăn ngon mà giết mạng sống của vật. Chẳng qua vì nghiệp huân tập quá lâu, ừ thì chưa thể ăn chay, nhưng bỏ cái tâm sát hại muốn ăn cho tươi, cho bổ. Bỏ được là đã phóng sinh. Phóng đi cái tâm vì mình hại người hại vật. Bỏ rồi, từ từ hướng tới ăn chay. Tập tháng 2 bữa, 3 bữa… cứ thế dần lên. Một lúc nào đó chay tịnh thành nghiệp, thói quen ăn mặn liền lùi. Giữ được không giết dù với vật nhỏ là đang làm việc phóng sinh. Bỏ tiền phóng sinh thêm nữa càng quý. 

2. Không vì cái lợi của mình mà nói gian dối, nói lời đâm thọc, chia rẽ, nguyền rủa, phá nát gia cang nhà người. Giữ gìn khẩu nghiệp, không phạm những lỗi như vậy là đang phóng sinh. Phóng đi cái tâm nói dối, gian tham hại người, không để nó sinh.

3. Không vì lợi lộc cho mình mà sinh thu gom, trộm cắp, tham nhũng, nhiễu nhương, khiến người khổ sở vô vàn, rồi đi phóng sinh cầu phước cho mình thoát nạn thoát khổ. Phước vật không bằng phước người. “Cung dưỡng cho hàng súc sinh được phước trăm lần, cho người phạm giới được phước ngàn lần, cho người trì giới được phước vạn lần…”(5). Làm sao phóng sinh cứu vật với tâm vị ngã mà đủ phước đức trả được cái nghiệp mình đã gây khổ cho người? Cho nên, vì do vô minh từ đời quá khứ, không biết mới làm. Giờ đã biết rồi, phóng sinh với tâm hối lỗi vẫn là cái phước gỡ bớt oan khiên, nhưng nhớ chừng đó chưa đủ. Cần phải có tâm ngừa lỗi. Những gì vì tiền mà khiến người khổ, nhất định không làm. Bố thí, xây chùa cho chúng Tăng ở, phước vẫn không bằng chính mình quy y, giữ giới đầy đủ(6). Đừng bán cái đức mà mua cái phước. Vất vả vô ngần! Cố gắng phát huy thiện nghiệp, hồi hướng ác nghiệp tiêu bớt. Đó là phóng đi cái tâm trộm cắp, là giới mà người Phật tử tại gia phải giữ.

4. Không vì tham ái của mình mà làm khổ người. Cái chuyện một vợ một chồng mà vẫn duyên thừa duyên thiếu là chuyện thường tình. Trôi lăn sinh tử bao đời, kết ân, kết oán cũng nhiều, duyên thừa sao mà tránh khỏi. Nhưng có lòng từ, không vì vui riêng mà làm khổ chồng, khổ vợ, khổ con. Ngưng được là đang phóng sinh. Phóng đi cái tâm tham ái tà dâm không để nó sinh cái nhân đau khổ cho người hiện tại, cho mình tương lai. Cái chuyện tà dâm, trong kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phật nói: “Hai thứ khiến người tham đắm, đó là dâm ái rượu chè”. Vì thế cần tỉnh ngay từ lúc đầu. Đừng vì một chút lao xao, hồn xiêu phách tán mà bước chân vào, để phải dính chùm với nhau rồi dừng không được.

5. Phật nói: “Ta không thấy một pháp nào đã thực hành, thực hành nhiều mà chịu quả báo súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, còn nếu sinh trong loài người thì bị cuồng si, ngu hoặc, không biết chân ngụy… như là uống rượu. Tâm thích uống rượu thì chỗ sinh ra không có trí tuệ, thường chịu ngu si. Vì thế cẩn thận, chớ có uống rượu(7). Phật nêu cái nhân, nói luôn cái quả, và khuyên đừng có uống rượu. Uống rượu được… ngu. Ở đời không gì thê thảm bằng “được cái ngu”. Đầu mối của mọi khổ nạn. Cứ nhìn tình trạng uống rượu của toàn thế giới hiện nay, có thể kết luận tương lai thế giới sẽ như thế nào. Không tin nhân quả chính là hệ quả của ngu. Châm ngòi mở rộng kho tàng khổ nạn không dứt. Sống không nghiện rượu, không làm khổ mình khổ người là có từ tâm.

Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh. Nếu thêm niệm Phật, tham thiền, bố thí… thì không gì bằng. Làm rồi hồi hướng. Nguyện cho tất cả người thân kẻ oán đều được an vui, nghĩ thiện làm thiện để tránh khổ đau. Hồi hướng được vậy, từ tâm đang hiển, sở nguyện đều thành. Không kiếp này thì những kiếp sau cũng thành.

Cho nên, không tiền phóng sinh mà chịu giữ giới, niệm Phật, hành thiền, tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, lợi ích cho đời, rồi đem hồi hướng cho mình và người, sở nguyện sẽ thành, nghiệp cũ sẽ tiêu (dù là định nghiệp, tuy vẫn xảy ra, nhưng chuyển ít nhiều)(8). Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức cũng nói đến mặt lợi ích của việc thọ trì tụng niệm như sau: “Nếu có người nam người nữ với niềm tin thanh tịnh, nghe được danh hiệu Phật kia, chí tâm lễ kính, ân cần cúng dường, thọ trì, niệm, tụng … nghiệp chướng trừ diệt, được tâm Bồ-đề bất thối chuyển, đầy đủ trí túc mạng, chỗ sinh ra thường được thấy Phật, không bệnh, trường thọ, sau khi mạng chung sinh vào nước đó…(9). Cho nên, phương tiện chư Phật đưa ra có rất nhiều đường. Quan trọng là hợp với căn cơ mình. Hợp rồi, chịu hành, liền ứng. Nhưng nhớ, thế gian duyên khởi, tùy cơ ứng pháp. Có khi niệm Phật lợi ích cho mình, nhưng phải tham thiền, trì chú… mới lợi cho người. Không phải mình lợi thì người cũng lợi. Mọi thứ tùy duyên. Bố thí, phóng sinh… cũng vậy. Song dù ứng dụng pháp nào, nên tránh tình trạng chỉ có hình thức. Cần rõ nội dung chính xác. Đừng như nhân vật trong kinh Bách Dụ, khổ nhọc cất công đi tìm kho báu. Tìm ra, chỉ lấy tấm chăn phủ ngoài, kho tàng bỏ lại. Nhưng lại không biết, dương dương tự đắc, thỏa mãn cho đã đủ rồi. Chăn ngoài, có thể giúp ta ít nhiều qua cơn lạnh giá, nhưng không cứu nỗi những việc lớn hơn. Cái chính vẫn là làm sao khai phát kho báu trong mỗi chúng ta

 

 Chú thích

(1) Chỉ là một câu nói bông đùa. Nó không có giá trị nếu được tách ra khỏi bài viết này. 

(2) Đại Tạng Kinh, tập 14, kinh hiệu 450, Ngài Huyền Trang dịch sang Hán văn.

(3) Còn nhiều thứ khác.

(4) Kinh Đại Bảo Tích quyển 6, phẩm Pháp Hội Vua Ưu-đà-diên.

(5) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phẩm Địa Chủ.

(6) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển II, Phẩm Tứ Đế.

(7) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phẩm Ngũ Giới.

(8) Kinh Đại Bát Niết Bàn, hệ A-hàm cũng nói đến tu tâm, tu giới, tu thân, tu tuệ chuyển nghiệp.

(9) Đại Tạng Kinh, tập 14, kinh hiệu 451, Ngài Nghĩa Tịnh dịch sang Hán văn.

Chân Hiền Tâm

Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
11 Tháng Chín 201207:00
Khách
QUÁ HAY ! CẢM ƠN TÁC GIẢ XƯA NAY MAY MỜ CHE LẤP CHỈ LÀM CHO CÓ HÌNH THỨC NAY NHỜ KHAI THỊ LÀM TÔI THẬT SÁNG SUỐT . XIN CẢM ƠN
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1549)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1406)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1822)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1581)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1351)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1641)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2168)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1910)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1266)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1445)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1443)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1731)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1489)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1493)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1434)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1763)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1459)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1420)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1433)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1506)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1593)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1532)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1410)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1499)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1238)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1978)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1389)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1541)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2911)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1547)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1737)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1589)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2037)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1578)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1782)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1979)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2174)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1643)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2617)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1889)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1850)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1617)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2358)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1795)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1854)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1725)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2094)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant