Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

HT Thích Đức Thắng: Tam tam-muội

03 Tháng Tư 202311:44(Xem: 1983)
HT Thích Đức Thắng: Tam tam-muội
HT Thích Đức Thắng: Tam tam-muội

Duc-Phat-780x470


Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ. Ba định này còn gọi là Tam ma-địa, tam tam Đẳng trì; đối với quán lý thì gọi là tam không, đối với ý nghĩa đoạn trừ chướng ngại thì gọi là tam trị. Tam tam-muội (trayaḥ samādhayaḥ), Tam ma-địa, tam tam đẳng, hay Tam tam định, là chỉ cho ba định, ba chánh định, đó là: Không môn (śūnyatā), tức là lúc hành giả vào định, quán tất cả các pháp đều không, không có ngã cùng ngã sở, các hành đều vô thường, không chân thật. Vô tướng môn (animitta), còn gọi là vô tưởng, vì nhờ quán nhân không nên hành giả không khởi lên ý niệm chấp thủ vào tướng các pháp. Vô nguyện môn (apraṇihita), còn gọi là vô tác, vô dục, vì nhờ quán vô tướng đối với các pháp nên đối với sự tương tục sinh tử đời vị lai không khởi lên mong cầu ái nhiễm nữa.

Ở đây, samādhyaḥ, cựu dịch là tam-muội, là định, còn tân dịch là tam-ma-địa, là đẳng trì; nhưng trayaḥ samādhyaḥ, tức là tam tam-muội được gọi là ba định này chúng câu hữu chung cho cả hữu lậuvô lậu, nên còn gọi là tam giải thoát môn (ba cửa giải thoát), vì ba cửa giải thoát này là con đường đưa đến Niết-bàn, cho nên gọi là ba cửa giải thoát.

Nếu chúng ta đem ba cửa giải thoát này làm nguyên lý thực tiễn chính là ba phương pháp quán khi hành giả đi vào Thiền định; ba cửa giải thoát này tuy chúng câu hữu với giải thoát đối với pháp vô lậu, nhưng chúng cũng là nguyên lý thực tiễn chung cho các hành giả Tiểu thừa lẫn Đại thừa trong việc thực hành giải thoát khổ đau đưa đến Niết-bàn an vui tịch diệt, vì tự thân của ba định giải thoát này tuy dành cho các pháp vô lậu là chính, trên mặt tuyệt đối, nhưng trên mặt tương đối chúng vẫn được dành cho các bậc học pháp hữu lậu cả thế gianxuất thế gian, cho nên trong Câu-xá luận 28 (Đ. 29, tr. 149c) viết: “Ba pháp này, mỗi pháp có hai loại, đó là tịnh và vô lậu. Vì định của thế gianxuất thế gian khác biệt nên thế gian dành chung cho mười một địa, còn xuất thế gian chỉ dành chung cho chín địa (trong mười ba trụ địa, hay còn gọi là mười ba hành vị từ nhân đến quả của Bồ-tát). Ở đây vô lậu gọi là tam giải thoát môn, khế hợp với cửa vào Niết-bàn.” Và cũng cùng nghĩa này, theo Hiển Dương Thánh Giáo luận 2 (Đ. 31, tr.490b): “Nên biết, nếu theo nghĩa vô sai biệt thì gọi chung là không, vô tướng, vô nguyện. Ba cửa này thông với Văn-Tư-Tu nơi sinh ra trí tuệ thế gianxuất thế gian. Nếu gọi không, vô tướng, vô nguyện định thì chỉ có Tu mới sinh ra trí tuệ thế gianxuất thế gian.” Chính vì sự câu hữu của Ba định này chúng vừa câu hữu với pháp hữu lậu, vừa câu hữu với pháp vô lậu, nên đối với ba định này theo kinh luận đã có nhiều thuyết khác nhau.

Theo kinh Tăng nhất A-hàm 16, “Đối với Không tam-muội thì nhơn và pháp của vạn hữu, hành giả đều quán là không. Ở trong pháp quán mười sáu hành tướng của Tứ đế thì định này cùng với hai hành tướng không và vô ngã của khổ đế tương ưng với nó; tức là chúng ta quán ngã kiến cùng sở kiến của ngã đều không. Đối với Vô tướng tam-muội thì, vì chúng ta đã quán ngã-pháp đều không, nên tướng trạng của chúng không sai khác, chúng cùng với bốn hành tướng diệt, tịnh, diệu, ly của diệt đế tương ưng với định. Vì Niết-bàn lìa năm trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, hai tướng nam, nữ, cùng với ba tướng hữu vi sinh, dị, diệt cộng lại là mười tướng nên đều gọi là vô tướng; định này vì duyên vào diệt nên có tên gọi là vô tướng. Đối với vô nguyện tam-muội hay còn gọi là vô tác tam-muội, vô khởi tam-muội thì vì chúng ta đã quán tướng trạng của các pháp là không sai khác, nên chúng ta không có những điều gì mong cầu về nó, nên mới cùng với hai hành tướng khổ và vô thường của khổ đế; bốn hành tướng nhân, tập, sinh, duyên của tập đế; bốn hành tướng đạo, như, hành, xuất của đạo đế là mười hành tướng tương ưng với định. Khổ, vô thường cùng với bốn hành tướng của tập đế đều đáng nhờm tởm, lo sợ cho nên chúng ta không mong cầu giữ chúng, ngay đến đạo đế như chiếc thuyền mà cũng nên từ bỏ; định này chỉ là duyên nên nó được gọi là vô nguyện. Hơn nữa các pháp không có gì để cầu mong vui sướng, thì không có gì để tạo tác, nên gọi là vô tác hoặc gọi là vô khởi.”

Và Thành Thật luận 13 trong phẩm Tam tam-muội (Đ. 32, tr. 335b) lại giải thích: “Nếu hành giả không thấy chúng sanh, cũng không thấy pháp, đó gọi là không. Trong không như vậy không có tướng để giữ, không này tức là vô tướng. Và trong không, không chỗ để nguyện cầu, không này tức là vô nguyện. Vì vậy cho nên ba cái này cùng một nghĩa. Hỏi: “Nếu vậy, tại sao nói là ba?” Đáp: “Vì không này có khả năng, nên phải tu không, vì tu không được lợi nên không thấy tướng, vì không thấy tướng nên vô tướng, vì vô tướng nên chẳng nguyện, vì chẳng nguyện nên chẳng thọ thân, vì chẳng thọ thân nên thoát tất cả khổ, những lợi như vậy đều do từ tu không mà có được, cho nên nói là ba.” Và chỗ khác cũng trong luận Thành Thật 12, phẩm Tam tam-muội thì ba định này được chia ra cách tu như sau: (1) Nhất phần tu định, tu định không tu tuệ, hoặc tu tuệ không tu định. (2) Cộng phần tu định, vừa tu định, vừa tu tuệ, là chỉ cho định thế gian, ở trong phá noãn vị (là một trong bốn vị của Gia hành vị trong năm vị của Tiểu cũng như Đại thừa). (3) Thánh chánh định, khi nhập vào pháp vị thì có khả năng chứng định Diệt đế. Hành giả dùng định tu hàng phục tâm, nhờ tuệ để ngăn chận phiền não; dùng định để hàng phục tâm, nhờ định để ngăn chận phiền não; và nhờ định tuệ để hàng phục tâm, nhân tánh được giải thoát, tánh ở đây tức là đoạn tánh, ly tánh, diệt tánh. Hơn nữa, lúc này cùng lúc đầy đủ định tuệ nên gọi là Thánh chánh.

Trong khi đó cũng theo một số kinh luận Tiểu thừaĐại thừa thì chủ trương lại khác. Theo Trung A-hàm 17, luận Câu-xá 28 cùng kinh Đại phẩm Bát-nhã I thì ba định này chỉ cho: (1) Hữu tầm, hữu tứ tam-ma-địa, là cùng với tầm và tứ tương ưng với định, vì định này là nơi nhiếp của vị đáo định cùng sơ thiền của sắc giới. (2) Vô tầm, hữu tứ tam-ma-địa, chỉ cùng với tứ tương ưng với định mà thôi, vì định này là nơi nhiếp trung gian của tịnh lự. (3) Vô tầm, vô tứ tam-ma-địa, vì định này là nơi nhiếp từ đệ nhị tịnh lự trở lên cho đến phi tưởng phi phi tưởng nên không tương ưng với tầm và tứ. Ở đây, tâm thô gọi là tầm, tâm tế gọi là tứ. Hữu tầm, hữu tứ là theo cách dịch của các nhà tân dịch, còn các nhà cựu dịch thì dịch là hữu giác, hữu quán tam-muội, vô giác hữu quán tam-muội, vô giác vô quán tam-muội. Theo phần trên Pháp giới thứ đệ quyển trung (Đ. 46, 679b) thì, (1) Hữu giác hữu quán tam- muội, nếu dùng tâm tương ưng với không, vô tướng, vô tác mà nhập vào các định, vì trong lúc quán sơ thiền cùng phương tiện thì tất cả giác quán đều câu hữu với thiền nên tất cả đều chánh trực, cho nên gọi là hữu giác hữu quán tam-muội. (2) Vô giác hữu quán tam-muội, nếu dùng tâm tương ưng với không, vô tướng, vô tác mà nhập vào các định, vì quán thiền trung gian thì tất cả không có giác mà có quán câu hữu với thiền, tất cả đều chánh trực, cho nên gọi là vô giác hữu quán tam-muội. (3) Vô giác vô quán tam-muội, nếu dùng tâm tương ưng với không, vô tướng, vô tác mà vào các định, vì trong lúc quán vô giác vô quán câu hữu với thiền, thì từ nhị thiền cho đến diệt thọ tưởng định tất cả các thiền, vì quán vô giác vô quán đều là chánh trực, nên gọi là vô giác vô quán tam-muội.

Và theo Pháp Hoa Huyền nghĩa IV thượng thì ba định này có tên gọi lại khác nữa, có lẽ đây cũng là một cách để tiếp cận căn cơ thuộc tính của hành giả mà đức Đạo sư dùng một tên khác để gọi tên, đây là giáo lý theo chủ trương của các nhà Viên giáo, nhất tâm quán ba đế viên dung, ba hoặc đồng thời được đoạn tận: (1) Chân đế tam-muội, đạt được quán lý không chân đế, nhờ phá kiến, tư hoặcthành tựu. (2) Tục đế tam-muội, đạt được định quán nghĩa tục đế giả, nhờ phá trần sa hoặcthành tựu. (3) Trung đạo vương tam-muội, ngăn chận hai biên không và giả, mà đạt được định quán lý trung đạo, nhờ phá vô minh hoặcthành tựu.

Trong sự sắp xếp ba định này theo thứ tự của chúng cũng không thống nhất: Hoặc theo thứ tự không, vô tướng, vô nguyện, hoặc không, vô nguyện, vô tướng. Theo Đại thừa nghĩa chương 2 thì tùy thuộc vào ý nghĩaphân biệt trước sau không giống nhau có ba cách sắp xếp theo thứ tự như sau: (1) căn cứ vào sự tu nhập mà có thứ tự: Trước tiên nói đến vô nguyện khiến cho hành giả nhờm tởm sinh tử, kế đến nói vô tướng khiến cho hành giả cầu mong Niết-bàn, cuối cùng nói đến không môn khiến cho hành giả khế chứng vào chúng. (2) Y cứ vào sự thành tựu chung cuộc theo thứ tự gốc ngọn: Không là gốc của các đức, Bồ-tát trước phải quán nó, nên trước phải rõ không; do thấy được không, nên không thấy sinh tử để tham cầu cho nên nói vô nguyện; vì do chứng được nghĩa không, không thấy sinh tử, nên liền cùng với Niết- bàn vô tướng tương ưng, cho nên lần thứ ba tuyên nói vô tướng. (3) Y cứ vào thể tướng dụng của chỗ không mà là rõ thứ tự của chúng: Trước hết nói không môn, không thể của các pháp; kế đến nói vô tướng, không là tướng của các pháp; nói về vô tác, không là dụng của các pháp.

Ngoài những kinh luận Tiểu-Đại thừa thuộc hiển giáo chúng tôi đã trích dẫn ra còn có ba định theo quan điểm của các nhà Mật giáo được kiến lập dựa vào ý nghĩa thâm sâu mà thiết trí Mạn-trà-la để biểu trưng đức lý mà nói thì, hoặc dùng không, vô tướng để ngăn ngừa tình, vô nguyện để lộ cái đức lý. Nếu tất cả theo nghĩa đức mà nói thì, không là nghĩa của tất cả các pháp vô ngại để bước vào, vô tướng là nghĩa muôn đức tròn đầy vô tận, vô nguyện là đức của hai bộ mạn trà-la đầy đủ xưa nay của hành giả, nên gọi là vô sở nguyện cầu.

Qua những trích dẫn từ kinh luận Đại Tiểu thừa cho hành giả chúng ta nhận thức rằng ba định (tam tam-muội) về mặt hữu lậu tương đối thì chúng lệ thuộccâu hữu vào lý nhân quả được gọi là tam tam-muội; nhưng đứng về mặt vô lậu tuyệt đối thì chúng lệ thuộccâu hữu với duyên khởi được gọi là tam giải thoát môn, đó là ba định tùy thuộc vào đặc tính của căn cơ của hành giảnhận thứcthực hành. Và cũng tùy những pháp tùy duyên thuộc tính của từng đối tượng tu tập mà theo đó ba định cũng xứng hợp với chức năng để đối trị bệnh khổ phiền não của chúng sanh trong quán pháp của minh để đưa đến giải thoát hoàn toàn. Vì vậy vấn đề sắp xếp theo thứ tự trước sau cũng tùy thuộc vào căn cơnhận thức của hành giả mà có sự sắp xếp trước sau của ba quán pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện hay ngược lại cùng những tên gọi khác nhau nhưng cũng cùng đưa đến kết quả như nhau như các kinh luận đức Đạo sư đã dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1534)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1566)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1415)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1832)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1588)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1358)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1656)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2192)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1917)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1270)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1452)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1450)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1736)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1498)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1359)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1503)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1451)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1768)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1474)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1432)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1443)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1524)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1707)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1598)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1538)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1429)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1517)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1278)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1391)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1547)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2928)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1554)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1743)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1603)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2047)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1586)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1790)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 2001)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2184)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1653)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2623)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1720)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1895)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1861)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1632)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2363)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1802)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1869)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1737)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2103)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant