Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bên hồ sen trắng

19 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13766)
Bên hồ sen trắng



Xem hình

Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm. Hồi mới đến cư ngụ tại làng, bà Chín ba lăm tuổi. Nghe nói cũng có vài đám đánh tiếng mai mối, nhưng đám nào bà cũng lắc đầu. Riết rồi bà Chín héo hắt đi vì tuổi tác, chẳng ai nhòm nhỏ gì nữa.

Cái ao sen rộng khoảng một công đất. Cấp trước bà Chín cắt lá đem bán cùng với ngó sen, củ sen, gương sen. Nhưng tới giờ lá sen không bán được nữa, bà chỉ sống nhờ vào ngó sen, củ sen và gương sen. Ông từ chùa làng thỉnh thoảng có đến hỏi mua hoa sen về chưng trên điện thờ, nhưng bà Chín chỉ cho chứ không bán. Đổi lại, ông từ thường đem trái cây hái trong chùa biếu cho bà. Nhờ vậy, bà Chín với ông từ thành chỗ thân thiết. Có điều, bà Chín không mấy khi lên chùa; dường như bà không mấy mặn mà với Thần Phật. Cứ nhìn cái chòi lá của bà cũng biết, chẳng có bàn thờ, chẳng có tranh Phật, tượng Phật, chẳng có gì cả. Đến ông Địa, ông Thần tài bà cũng không có. Trống trếnh trong chòi chỉ có cái chõng tre, dùng để ngả lưng nằm ngủ và để ngồi ăn cơm mỗi bữa.

 

Không ai biết chút gì về lai lịch bà Chín, thành ra người ta thêu dệt về cuộc đời bí ẩn của bà đủ chuyện. Có lần tôi đem chuyện ấy nói với bà. Bà Chín nghe xong chỉ chép miệng nói: Mô Phật! Tôi lại hỏi: Bà sống mình ên vầy, lỡ đêm hôm ngã bịnh thì sao? Bà cũng lại mô Phật. Hình như với bà, bệnh tật ở đâu xa lăng lắc, không thể ghé thăm bà được. Nếu cứ như tôi biết, bà Chín từ hồi nào tới giờ, chưa bao giờ phải uống một viên thuốc. Hàng ngày, bà hay lụm cụm ngồi bên vệ đường đào rễ cây bông nổ để đem về nấu nước. Rễ cây bông nổ màu vàng nhạt, nấu lên rất thơm, có vị ngòn ngọt, dân quê tôi gọi là sâm Nam. Bất cứ lúc nào ghé thăm, bà cũng rót cho tôi một chén. Và bao giờ tôi cũng chỉ uống một chén, bởi tôi thấy cái ấm nhôm của bà không lớn lắm.

 

Hàng ngày bà Chín chỉ ăn cơm có một buổi. Buổi còn lại bà thường ăn một hai trái bắp, hoặc hai ba củ khoai lang, khoai mì. Hàng quà của bà là chè do bà nấu lấy. Lúc thì mươi hột sen nấu với đường, lúc thì lá nha đam nấu với đường. Bà nói: Con ạ, nhớ ăn rau sống thiệt nhiều vào! Nhất là chịu khó đâm lá nha đam uống với đường mà ngừa bịnh gan. Gan khỏe mạnh mới không bịnh tật. Qua hồi nào tới giờ vẫn xài các thứ thuốc Nam kiếm lòng vòng trong xóm, nhiều nhất là xài lá nha đam. Nhớ xài cả vỏ mới tốt. Hồi đó ông từ trên chùa bị bệnh xơ gan, mỗi ngày qua đâm cho ông một chén nước lá nha đam. Chỉ có vậy mà ông khỏe mạnh tới giờ.

 

Tôi nghe lời bà Chín, thường ngày vẫn kiếm đọt nhãn lồng luộc ăn, kiếm lá đinh lăng ăn sống cặp với cá kho. Ăn riết mắc ghiền, bữa cơm nào không có rau sống thì không biết ngon. Vợ con tôi cũng theo tôi mà thích ăn các thứ rau dại mọc hoang trong vườn, hay ngoài gò, ngoài bãi. Có lẽ nhờ vậy mà cả nhà tôi không thấy ai bệnh hoạn bao giờ.

 

Vợ tôi cũng rất quý bà Chín. Lâu lâu có thức gì ngon cũng đem qua biếu bà một ít. Mỗi lần qua chơi, vợ tôi lại học được bà Chín một điều gì đó. Còn như có chuyện gì hay, bao giờ vợ tôi cũng kể lại với tôi. Cứ như vậy, dần dà tôi cũng hiểu được ít nhiều về bà Chín. Là hiểu về tính cách của bà, chứ cũng không hiểu gì về quá khứ của bà. Bởi lẽ ngay cả với vợ tôi, được bà coi như con cái, bà cũng không bao giờ kể về cuộc đời của bà.

 

Một lần tôi đem cái máy đánh chữ ra ngồi gõ trước hàng hiên, bỗng cảm giác như có ai ở sau lưng. Ngoái lại, thấy có thằng bé lủn củn, đội trên đầu một xề bánh cam. Nó toét miệng cười với tôi, rồi hỏi: Chú viết truyện à? Tôi gật đầu. Nó lại nói: Hồi nẳm con cũng biết đọc, nhưng giờ quên rồi. Con học chưa hết lớp một, mà con học dốt lắm. Cô con chê hoài. Mẹ thì nói con là thằng tối dạ. Tôi hỏi nhà nó ở đâu. Nó toét miệng cười: Con làm gì có nhà. Ba mẹ con lật xuồng chết trong đồng. Năm đó nước lớn, làng con có mấy người cũng lật xuồng chết. Vậy là con bỏ làng đi. Giờ con sống với ông từ trong chùa. Bà Tám Quắn thương, biểu con tới lấy bánh cam đem bán. Lúc nào đủ tiền đóng học phí, con xin ông từ đi học. Con cũng thích viết truyện như chú. Con biết nhiều chuyện hay lắm, nhưng con không biết viết.

 

Nghe nó nói, tôi giật mình nghĩ: Ừ nhỉ, cái thằng lủn củn này, nó đến làng lúc nào mà mình không biết. Khi tôi kể chuyện này cho bà Chín nghe, bà Chín ngồi trầm ngâm, rồi nói: Con xin cho nó vô học được không? Tiền trường để qua đóng cho. Qua chắt mót bi nhiêu năm, giờ cũng được một mớ. Chỗ quen biết với ông hiệu trưởng trường làng, tôi xin được cho thằng nhỏ đi học.

 

Nó học được gần hai tháng thì tới ở luôn với bà Chín. Nhìn hai bà cháu ngồi ăn cơm trên cái chõng tre, thấy cái chòi cũng ấm cúng được phần nào. Do chuyện này mà bà Chín kê thêm trong chòi một cái giường, mua thêm một cái bàn, một cái tủ gỗ, và cái ra-dô nhỏ cho thằng bé nghe đài.

 

Té ra thằng bé không tối dạ như nó nói. Cô giáo nó nói với tôi, thằng bé học khá lắm, chữ viết rất đẹp; hơn nữa nó lại rất ngoan, giao việc gì cũng làm đến nơi đến chốn. Tôi cũng cảm thấy như vậy. Bởi lẽ từ khi về ở với bà Chín, thằng bé thường thay bà đi cắt gương sen, ngồi bó lại thành từng chục một. Thấy sau nhà còn vạt đất trống, nó biết đi xin cây chuối con về trồng. Biết bà Chín hay ăn các thứ cây cỏ có vị thuốc, nó biết đi tìm cây con về trồng cặp theo mép hồ sen. Thỉnh thoảng nó vẫn ra đồng mò cua bắt ốc. Có khi bắt được nhiều, hai bà cháu ăn không hết, nó vẫn đem sang cho vợ tôi. Vợ tôi quý nó như con trong nhà.

 

Từ khi có thằng bé đến sống chung, bà Chín đổi sang ăn ngày hai buổi. Trước đây bà chỉ ăn cá kho với rau sống, giờ thỉnh thoảng bà cũng mua thịt về nhà. Trước đây bà chỉ ăn chè, giờ thỉnh thoảng bà cũng cặm cụi ngồi đổ bánh xèo, ngồi gói bánh ú, bánh ít. Ở tuổi tám mươi mà bà vẫn lẹ chân lẹ tay, làm việc gì cũng gọn bân đâu vào đó. Nhờ vậy, thằng bé từ khi đến ở với bà Chín, cứ mỗi ngày mỗi mởn ra; trông có da có thịt như con nhà khá giả. Những lúc đi học, nhìn nó mặc đồng phục, coi cũng sáng sủa, bắt con mắt.

 

Vào một buổi chiều, lúc trời đang mưa tầm tã, có chiếc xe ôm chạy vào sân nhà tôi. Rồi một ông già quắc thước bước vào. Ông hỏi tôi, bên kia hồ sen có phải nhà bà Chín không? Nghe tôi nói phải, ông lão nói: "Tui từ Bảy Núi xuống, muốn ở nhờ nhà chú vài ngày được không?". Nhà tôi tuy là nhà tre lá, nhưng rộng rinh, nên tôi gật đầu đồng ý.

 

Khi đã cất bọc đồ vào góc giường, ông lão cho tôi biết, ông xuống đây để tìm bà Chín. Có người làng ông từ đây về, cho ông biết bà Chín sống ở làng này. Bà Chín bỏ xứ ra đi đã hơn ba chục năm. Trong ba chục năm ấy, ông đã dọ hỏi khắp nơi mà không thể nào tìm ra tung tích. Tưởng bà đã mất, nào dè bà còn sống tới giờ. Ông muốn nhờ tôi chuyển giúp cho bà Chín một ít tiền để đỡ đần bà khi tuổi tác. Nghe ông lão nói, tôi giật mình nghĩ, có lẽ ông lão là chồng bà Chín, vì lý do nào đó mà họ chia tay. Tôi tỏ ý sẽ dẫn ông lão qua nhà bà Chín, nhưng ông lão lắc đầu nói: Gượm gượm vài hôm rồi tính. Ông cần dò hỏi coi tánh ý bà Chín ra sao đã, xa nhau suốt ba chục năm, nay đường đột xuất hiện, e không được tiện cho lắm. Ngay cả chuyện gởi tiền, ông cũng sợ bị bà từ chối, nên mới có ý nhờ tôi.

 

Đêm đó vợ tôi nấu nồi cháo cá đãi khách. Tôi nướng thêm mấy con khô bống kèo, mời ông lão uống rượu. Khi đêm đã khuya, ông lão mới cho tôi biết, ông là em ruột của chồng chưa cưới của bà Chín. Chồng chưa cưới của bà Chín mất cách nay đã bốn năm. Những ngày cuối đời, ông thường nằm sảng nhắc tên bà Chín. Khi gần khuất núi, ông biểu người nhà lôi trong hộc tủ thờ ra cái hộp gỗ, bên trong có cái bọc ni-lông. Mở ra thấy có hai tấm hình chụp bà Chín lúc còn trẻ. Ông cho gọi người nhà đến, rồi nói: Hai tấm hình này, một tấm chôn xuống mộ theo ông, một tấm đem truyền thần, rồi chưng lên bàn thờ cùng với tấm hình của ông.

 

Ông lão lôi trong giỏ xách ra tấm hình bà Chín. Đó là tấm hình chụp trên giấy lụa, đã ngả màu nâu vàng theo năm tháng, nhưng coi vẫn còn rõ nét. Trong ảnh, bà Chín rất đẹp, rất tươi, tóc chải bồng ra phía sau, hệt như hình tài tử. Cứ như tấm hình ấy, thì con gái làng tôi không ai đẹp được như vậy.

 

Thế rồi ông lão kể cho tôi nghe chuyện quá khứ của một đời người.

 

Thuở ấy bà Chín là đào chính của một gánh hát. Gánh hát ấy có lần lên hát tại Lương Phi Bảy Núi. Ngay đêm hát đầu tiên, Tấn Hưng, con trai ông Hội đồng, đã bết cô đào Chín mê mết. Rồi thì từ đó, đêm nào Tấn Hưng cũng đeo dính theo gánh hát, cũng mua cho bằng được chỗ ngồi tốt nhất ở hàng ghế đầu. Gánh hát rong ruổi lưu diễn cả tháng ở Bảy Núi. Ròng rã cả tháng Tấn Hưng đeo theo gánh hát. Ông bầu gánh hát biết tình ý của Tấn Hưng, đem chuyện kể lại cho đào Chín. Đào Chín lúc đó có tên là Quế Hường. Quế Hường là cô đào bốc lửa cả dưới ánh đèn, cả dưới ánh mặt trời. Khi biết chuyện, Quế Hường lại càng bốc lửa, khiến con trai ông Hội đồng càng thêm ngơ ngẩn, lúc nào cũng như người mất hồn.

 

Càng mất hồn, Tấn Hưng càng đeo dính theo Quế Hường từng bước. Đeo riết rồi cũng dính. Quế Hường đã một vài lần nhận lời ra ngồi chơi bên gốc cây còng dưới bến sông với Tấn Hưng. Ánh trăng rưới sữa lồng lộng, Quế Hường càng trở nên bốc lửa ngùn ngụt, thiêu đốt Tấn Hưng tới mụ mẫm. Nhưng họ cũng chỉ ngồi với nhau vậy thôi. Bởi vì mỗi lúc Tấn Hưng muốn tấn tới, bao giờ cũng bị Quế Hường khôn khéo tìm cách chặn lại. Và càng bị chặn lại, Tấn Hưng càng trở nên mụ mẩm.

 

Tấn Hưng mụ mẫm tới mức, một lần bắt gặp người bạn trai của Quế Hường tại phòng trọ của cô, anh đã không kìm được mình, đã kiếm cớ gây sự với người ta. Trong cơn nóng giận vì say rượu, Tấn Hưng đã chụp lấy con dao mà Quế Hường vẫn thường dùng để gọt cam, đâm liên tiếp mấy nhát, khiến bạn trai của Quế Hường gục xuống bất tỉnh.

 

Khi biết chuyện, Quế Hường dùng cả hai tay nắm chặt hai vai Tấn Hưng, vừa lắc như điên như dại, vừa hét lên: Anh khùng rồi! Anh điên rồi! Làm sao em cấm được người ta đến thăm mình! Tại sao anh lại giết người? Tại sao anh lại tồi như vậy? Anh khùng rồi! Nói xong cô vụt chạy ra ngoài. Và cô chạy luôn từ đó, không bao giờ còn trở lại vùng Bảy Núi.

 

Ra tù nhờ chạy tội bằng tiền, Tấn Hưng nhớ người yêu, lang thang đi tìm hết tháng này tháng khác. Nhưng biển khơi tăm cá, biết đâu mà tìm. Nỗi nhớ quay quắt nhấn chìm Tấn Hưng vào rượu trắng. Rượu đốt gan ruột Tấn Hưng tới cháy mủn ra, tới phải đi mổ vì xơ gan. Năm này sang năm khác, Tấn Hưng sống vất vưởng trong nỗi nhớ như người chán đời. Và bởi ám ảnh về tội lỗi, càng lúc Tấn Hưng càng héo hắt, càng vất vưởng như người tâm thần. Ông Hội đồng Hà thương con, nhờ người mai mối cho Tấn Hưng một người vợ. Nhưng có vợ cũng như không, Tấn Hưng không bao giờ ngủ chung cùng buồng, cùng giường với vợ. Vò võ hai năm trời, vợ ông chán nản bỏ chồng về với mẹ. Rồi bà đâm đơn ra tòa xin ly dị để đi bước nữa với người khác. Tấn Hưng sống thui thủi như vậy cho đến già, cho đến chết.

 

Khi tôi kể chuyện này cho bà Chín nghe, bà chắp tay nói: Mô Phật! Nhưng từ đó, bà càng trở nên trầm lặng hơn hẳn. Chìm trong nỗi trầm lặng u uẩn của cuộc đời, bà héo hắt dần như chiếc bóng bên hồ sen trắng. Thường cứ vào lúc chiều buông lãng đãng, bao giờ bà cũng bắc ghế ra ngồi trầm ngâm sát bên hồ sen. Thằng bé tên Tuấn cũng ra ngồi với bà. Hai bà cháu đều im lặng như hai cái dấu chấm, chấm vào trời chiều bầm đỏ.

 

Một hôm bà Chín cho thằng Tuấn qua mời tôi tới nhà. Khi đã sai thằng bé đi mua dầu hôi, bà Chín nói với tôi: Nếu muốn cất cái nhà gạch bằng khung sắt tiền chế, rộng chừng năm chục mét vuông thì hết bao nhiêu tiền. Nghe tôi nói khoảng hai lăm triệu, bà Chín nói: Qua nhờ con kêu thợ cất giùm qua cái nhà.

 

Ngôi nhà cất xong thì bà Chín ngã bệnh. Bà nhờ tôi nhắn tin lên Bảy Núi cho em ruột ông Tấn Hưng. Khi hai vợ chồng em ông Tấn Hưng xuống, bà mới chỉ chỗ cho tôi đào xuống góc nhà, lấy lên cái thùng sắt đựng đạn đại liên của Mỹ. Không hiểu vì sao cái thùng sắt vẫn còn rất mới. Mở ra thì thấy một bọc ni lông màu đen, bên trong có sợi dây chuyền mặt ngọc, hai cái lắc vàng, một chuỗi cườm ngọc trai, một cái nhẫn cầu hôn. Đó là tất cả những gì bà Chín dành dụm được trong quãng đời đi hát. Bà Chín cầm cái nhẫn lên, nói: Cái nhẫn này là của Tấn Hưng gởi cho bà, nay bà xin đeo nó để tỏ lời hứa hôn với ông lúc trước. Khi nào bà mất thì tháo ra, giữ lại với tất cả những gì bà có cho thằng Tuấn. Trời đã đem thằng Tuấn đến cho bà, bà nhờ tôi trông nom giúp đỡ để thằng Tuấn nên người.

 

Tối đó, vào lúc nửa đêm, trời nổi giông rất mạnh, nhưng lại không mưa. Phía vườn chùa, không hiểu sao cò nổi lên kêu quà quà suốt cả tiếng đồng hồ. Tôi thấy chờn chợn như linh tính đang mách bảo một điều gì, liền chạy qua nhà bà Chín. Thằng Tuấn thức dậy mở cửa cho tôi. Nó nói: Bà cháu ngủ trong buồng từ chập tối. Bán tin bán nghi, tôi biểu thằng Tuấn vào buồng xem bà nó có còn nóng sốt không. Thằng Tuấn vào buồng chưa đầy một phút đã thốt lên khóc hù hụ. Bà ơi! Bà đừng bỏ cháu mà đi bà ơi! Thức dậy đi bà ơi!

 

Tôi chạy vào buồng, thấy thằng Tuấn đang gục đầu trên ngực bà Chín, khóc nấc lên tức tưởi. Tôi vừa dợm chân tính chạy về nhà gọi vợ, đã thấy vợ tôi cùng vợ chồng em ông Tấn Hưng qua tới. Tôi chạy đi nhờ hàng xóm kéo điện từ nhà tôi sang nhà bà Chín để thắp mấy ngọn đèn điện. Không biết từ đâu, khi mấy bóng đèn bật sáng, thì nhiều bà con lòng vòng lối xóm cũng lần lần kéo đến. Cả ông từ giữ chùa cũng đến.

 

Sáng ngày, khi tôi đã lo xong cỗ hậu sự cho bà Chín, em ông Tấn Hưng đến gặp ông chủ tịch xã, xin phép cho vợ chồng ông đưa bà Chín về Bảy Núi chôn cất. Mới đầu ông chủ tịch xã còn lưỡng lự, nhưng khi nghe tôi kể lại chuyện ông Tấn Hưng, ông chủ tịch đã bàn lại với ông bí thư xã, và cả hai đều đồng ý. Em ông Tấn Hưng nói với tôi: Qua cũng đoán trước có chuyện, nên có đem theo ít tiền, nhờ vợ chồng chú kéo điện về nhà cho thằng Tuấn.

 

Chúng tôi mướn trọn gói một chiếc xe lam để đưa bà Chín về Bảy Núi. Do con đường từ lộ xã vào ngôi nhà của bà Chín quá nhỏ, chúng tôi phải khiêng chiếc quan tài đi vòng qua ao sen. Nắng đổ rười rượi, mượt như lụa. Cả hồ sen hoa nở trắng tới không tưởng nổi. Hương sen thơm ngào ngạt, quyện cùng hương khói nhang đèn, đưa bảng lảng đến nao cả lòng dạ.

 

Trời trong vắt, không vẩn một gợn mây. Phía vườn chùa, những cánh cò cứ liên tục bay lên bay xuống, chớp nắng lấp lánh lấp lánh.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22121)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15942)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18938)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
(Xem: 17188)
Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố… khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt...
(Xem: 18286)
Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc.
(Xem: 17770)
Bình thức giấc, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ trong nhà thằng Phi. Chưa kịp nghĩ gì thì mùi thức ăn xộc thẳng vào mũi làm nó nghe dạ dày nhói lên quặn thắt.
(Xem: 17786)
Vậy là sau bốn năm lăn lộn ở chốn phố thị phồn hoa này, cuối cùng thì Hải cũng đã trở về quê, một chuyến về ngoài dự kiến.
(Xem: 17623)
Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng.
(Xem: 17589)
Niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời tôi chính là giây phút đầu tiên tôi đặt chân vào tòa nhà chánh Pháp. Một luồng rung cảm lâng lâng niềm hỷ lạc...
(Xem: 16793)
Trên đường trở về nhà, con gái cứ luôn ngọng ngọng nghịu nghịu hỏi tôi: “Bố ơi, mấy con cá bị người ta bắt đi thật là tội nghiệp!”...
(Xem: 16120)
Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết. Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng...
(Xem: 18433)
Từ lâu, tình thương là chất liệu ngọt ngào không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chất liệu đó đã là nhịp cầu nối tâm linh...
(Xem: 15494)
Trời bắt đầu vào thu với những ngày mưa thường xuyên hơn. Không gian se lạnh về theo những ngày nhiều mây và len sang cả những ngày có nắng.
(Xem: 16464)
Ái dụcyếu tố quan trọng đưa đến luân hồi sanh tử trong cõi Dục này. Chúng sanh đã đầu thai vào cõi Dục nghĩa là nghiệp ái dục rất nặng.
(Xem: 16889)
Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi.
(Xem: 16341)
Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh xá Trúc Lâm.
(Xem: 17870)
Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào.
(Xem: 15265)
Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích.
(Xem: 16720)
Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh.
(Xem: 21227)
Hãy niệm câu “thần chú” ấy mỗi ngày đi, rồi bạn sẽ thấy “đời rất đẹp”. Đời không phải là rác rưởi, đáng chán, là muộn phiền, âu lo đầy dẫy như bạn từng mặc định.
(Xem: 29857)
Vở Cải Lương Phật giáo đấu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy ,đó là vở “THÁI TỬ A-XÀ-THẾ”. Soạn giả Dương Kinh Thành
(Xem: 22162)
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay xa, Nơi này chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, Hoàng hạc bay xa không trở lại...
(Xem: 17077)
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trước mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại.
(Xem: 17009)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. - Dương Kinh Thành
(Xem: 16463)
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp.
(Xem: 15088)
Mất cũng phải hết một ngày đêm suy nghĩ đến nhức đầu mệt óc, cắn trụi móng của ngón tay cái, thằng Thạch mới tìm ra được cách giải cho bài toán hóc búa...
(Xem: 16452)
Không giống cô giáo cũ, khi còn nằm trên giường biết mình đã thức dậy – Tôi luôn có niềm vui đầu tiên là “nhận biết mình còn sống! Tôi còn có mặt trên cõi đời này.
(Xem: 15530)
chúng ta có một cuộc sống may mắn hay rủi ro thì điều ấy đã được quyết định bởi tâm thứchành nghiệp của chính chúng ta. Điều này được biết đến như là định luật nhân quả.
(Xem: 17046)
Chủ quanlạc quan đều là hai thái độ dẫn đến việc người ta sống vô tư, nhưng xét về bản chất thì một bên là không lường trước mọi việc còn một bên thì biết rõ mọi việc và chấp nhận…
(Xem: 16048)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày...
(Xem: 18285)
Con thật may mắn đã đến được với Đạo Pháp bằng tâm chí thành. Tinh hoa của Đạo Pháp được gói trọn trong hai Bồ- Đề Tâm.
(Xem: 16182)
Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”... Huệ Trân
(Xem: 15279)
Ngày tôi nhận ra con đường đích thực của cuộc đời mình, em đã khóc rất nhiều. Em muốn tôi vẫn là tôi của những ngày mới quen nhau.
(Xem: 14463)
Bản chất của mùa xuânchuyển hóa. Nó có khả năng chuyển hóa đối với những gì đang có mặt nơi nó để nó trở thành mùa xuân cho chính nó...
(Xem: 15458)
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạchmở rộng...
(Xem: 17862)
Thử tắt điện thoại một ngày… Một cuộc “biến mất” không dự báo trước, đối với nhiều người. Đó là một cách biểu hiện của vô thường, dành tặng cho những người thân-thương.
(Xem: 18018)
Mỗi lần đi qua những cánh đồng đang mùa gặt, tôi lại nhớ về những ngày thơ ấu êm đềm ở làng quê. Cái hương quê ngai ngái mùi lúa mới ấy như cứ mãi vấn vít lòng tôi...
(Xem: 15333)
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
(Xem: 14868)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả).
(Xem: 15542)
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió,...
(Xem: 13526)
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ.
(Xem: 13371)
Gió thổi làm những chiếc lá lay động, làm nhánh cây, cành cây bâng khuâng, làm rừng xanh, đìu hiu xao xuyến. Con chim đang ngủ trong tổ giật mình thức giấc...
(Xem: 15653)
Em mới mười một tuổi, mẹ bỏ em lại bên chân núi. Ruộng dưa mênh mông, em ngơ ngác như con bù nhìn rơm giữa nắng và gió.
(Xem: 16857)
Về quê vào những ngày cuối năm mới thấy sao yêu đến vậy cái đồng đất quê mình, thương biết mấy những chị, những mẹ một nắng hai sương trên ruộng đồng.
(Xem: 12078)
Sau giờ thiền toạ sáng nay, lắng nghe lại lòng, hình như có dòng sông nào đó tuôn chảy qua đời, bắt được tiếng hơi thở thánh thót của vũ trụ...
(Xem: 13525)
Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm...
(Xem: 18123)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
(Xem: 16412)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 14338)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 12842)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant