Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chiếc Đũa Thần Chánh Niệm

13 Tháng Chín 201518:00(Xem: 10269)
Chiếc Đũa Thần Chánh Niệm
Chiếc đũa thần chánh niệm

HT Thích Nhất Hạnh

Chiếc Đũa Thần Chánh Niệm

Khổ đau là chất liệu của hạnh phúc

Trong bài thuyết pháp đầu tiên của Bụt tại Vườn Nai có nói tới Tứ ĐếBát Chánh Đạo. Tứ ĐếBát Chánh Đạogiáo lý căn bản. Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu được giáo lý Bốn Sự Thật và Tám Phép Hành Trì Chân Chính, nhưng càng hành trì thì cái hiểu của chúng ta càng sâu hơn. Mình đừng bao giờ cho rằng mình đã hiểu đầy đủ.

Mình có thể hiểu giáo lý Bốn Sự Thật (khổ, tập, diệt, đạo) một cách sâu hơn. Đức Thế Tôn bắt đầu bằng sự thật về khổ đau vì Ngài muốn bàn tới những chuyện rất thực tế: Có những khổ đau ở trong mình và chung quanh. Khổ là ngược lại với vui, mình nhận ra khổ đau vì mình so sánh nó với hạnh phúc. Sự thật thứ ba (diệt) là sự vắng mặt của khổ tức khổ diệt, sự vắng mặt của khổ là sự có mặt của hạnh phúc.

Khi giảng về Tứ Đế, Bụt không chỉ nói tới khổ mà còn nói tới lạc. Mình nhận ra lạc là nhờ so sánh nó với khổ cũng như bên trái và bên phải, không có bên trái thì không có bên phải. Có lạc là có khổ, công nhận có khổ thì đồng thời mình cũng công nhận có lạc, chỉ có khổ mà không có lạc là chuyện không hợp lý. Nếu công nhận có tay trái thì đồng thời mình cũng công nhận có tay phải. Công nhận sự có mặt của khổ thì đồng thời cũng công nhận sự có mặt của lạc.

Chúng ta thường rất ngây thơ, muốn đi tìm chỗ chỉ có lạc mà không có khổ. Tìm chỗ chỉ có tay phải mà không có tay trái, chỉ có trên mà không có dưới thì làm sao có? Vậy mà hầu hết chúng ta đều mơ ước tìm tới chỗ chỉ có hạnh phúc mà không có khổ đau.

Ngày xưa có em bé nói: Con muốn tới ở chỗ nào mà buổi sáng có hạnh phúc, buổi trưa có hạnh phúc, buổi chiều cũng có hạnh phúc. Em bé đó về sau xuất giatrở thành Sư cô Nho Nghiêm. Những người theo đạo Chúa nghĩ rằng Thiên quốc là chỗ hoàn toàn không có khổ, chỉ có lạc. Những người cầu sinh Tịnh độ nghĩ rằng cõi của Đức Phật A-di-đà không có khổ vì có câu kinh chứng minh điều đó: “Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy vì sao có tên là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết khổ là gì, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc”. Tưởng tượng rằng có một cõi mà nơi đó chỉ có hạnh phúc không có khổ đau là tri giác sai lầm gọi là tà kiến. Sự thật hễ có trái là có phải, không có trái thì không có phải. Mình được nghe nhiều lần rằng chính với chất liệu của khổ đau mà mình làm ra an lạc. Nhờ có bùn mà nuôi lớn hoa sen. Mình biết đau khổ đóng vai trò nào đó trong sự tạo dựng hạnh phúc.

Đau khổ là chất liệu cần thiết để tạo dựng hạnh phúc cũng như bùn là chất liệu cần thiết để làm ra hoa sen. Trong một bài giảng tôi có nói tôi không muốn gửi con cháu, đệ tử của tôi tới chỗ không có khổ đau. Tôi không tin có cõi như vậy, nhưng giả dụ có cõi đó đi nữa thì tôi cũng không muốn gửi con cháu, đệ tử của tôi tới đó vì tôi biết ở đó các đệ tử và con cháu của tôi sẽ không có cơ hội lớn lên.

Sống trong khổ đau người ta mới tìm hiểu khổ đau, có hiểu rồi mới có thương. Không có hiểu, không có thương thì không có hạnh phúc. Vì vậy tôi biết nơi đó không phải là cõi hạnh phúc dù cho đó là Thiên quốc cũng như tôi biết chỗ nào không có bùn thì chắc chắn nơi đó không có sen. Tư tưởng Thiên quốc hay Cực lạc là một chỗ không có khổ đau, chỉ có toàn hạnh phúc, trong đạo Bụt gọi đó là tà kiến.

Chế tác hạnh phúc

Là những người thực tập mình phải có khả năng đối diện với khổ, phải chuyển hóa khổ đau và chế tác hạnh phúc. Mình đừng nên nghĩ là mình giỏi đến độ có thể làm cho khổ đau hoàn toàn vắng mặt chỉ còn lại hạnh phúc đứng một mình. Chỉ có hạnh phúc đứng một mình là chuyện không thể có. Trong sự sống phải có khổ đau, bất cứ ở đâu hễ có sự sống là có khổ đau, ở Thiên quốc hay Cực lạc cũng vậy. Người tu thì không sợ hãi khổ đau, biết xử lý khổ đau và tạo dựng hạnh phúc từ những khổ đau. Người tu không có vọng tưởng lấy hết khổ đau đi để còn lại chỉ toàn hạnh phúc. Mình phải có chánh kiến đối với vấn đề khổ đau và hạnh phúc, chính khổ đau làm ra hạnh phúc. Nếu không biết cách duy trì thì hạnh phúc sẽ biến thành khổ đau giống như hoa và rác.

Tu là nghệ thuật giúp mình chuyển khổ đau thành hạnh phúc, khi hạnh phúc trở thành khổ đau thì mình có thể chuyển nó thành hạnh phúc trở lại. Mình sử dụng những chất liệu khổ đau để tạo dựng hạnh phúc. Hạnh phúc cũng vô thường như khổ đau. Người tu không mong ước chỉ có hạnh phúc mà không có khổ đau. Người tu mong ước mình có đủ khả năng để có thể chuyển hóa khổ đau khi hạnh phúc trở thành khổ đau.

Trong năm uẩncảm thọ: Khổ thọ (苦受), lạc thọ (樂受) và xả thọ (捨受). Xả thọcảm thọ không khó chịu cũng không dễ chịu. Trong quá trình tu tập mình khám phá ra xả thọ là một cảm thọ rất ngộ nghĩnh. Xả thọcảm giác trung tính, nhưng bằng kinh nghiệm mình tìm ra nếu mình chạm vào xả thọ với chánh niệm thì xả thọ có thể trở thành lạc thọ. Ví dụ mình đang ngồi dưới gốc cây cổ thụ, không có tin vui cũng không có tin buồn. Người bạn hỏi:

- Anh làm gì đó?

- Tôi không làm gì cả.

- Có gì đặc biệt không?

-Thường thôi, không vui cũng không buồn.

Người bạn nói:

- Anh có biết không, gốc cây anh đang ngồi rất mát. Ngồi đó nhìn lên, anh thấy trời xanh mây trắng. Hiện bây giờ bên Nga đang rất nóng, có nhiều người chết ở đó. Anh đang ngồi dưới gốc cây tận hưởng không khí mát mẻ.

Đó là điều rất mầu nhiệm!

Đó là ý thức, là chánh niệm mà người bạn đem tới và tự nhiên mình thấy cảm thọ trung tính kia trở thành lạc thọ. Ngón tay của chánh niệm giống như chiếc đũa thần của nàng tiên chấm vào, biến áo quần xơ mướp của cô Tấm thành xiêm y lộng lẫy. Đũa chánh niệm có phép thần thông, người tu dùng đũa chánh niệm điểm vào, biến xả thọ trở thành lạc thọ. Làng Mai nói chánh niệm là nguồn suối của hạnh phúc. Chuyện này không khó, ai cũng có thể làm được và lúc nào cũng có thể làm được. Ngồi trên bờ sông cảm thọquán sát chúng ta thấy thường là ta có chừng 10% khổ thọ, 5% lạc thọ và 85% xả thọ. Với chiếc đũa chánh niệm mình biến 85% xả thọ trở thành lạc thọ.

Chúng ta ai cũng đã từng làm được việc đó, có điều chúng ta không tiếp tục, không được khuyến khích, nâng đỡ để làm việc đó. Ai cũng có khả năng nhận diện được điều kiện hạnh phúc hiện đang có mặt, không cần đi tìm trong tương lai. Trong dòng sông cảm thọ của ta, đa sốcảm thọ trung tính, nếu biết dùng chiếc đũa thần mình sẽ biến cảm thọ trung tính thành lạc thọ nuôi dưỡngtrị liệu cho mình.

Sống trong Tăng thân, người nào cũng nên có chiếc đũa thần. Mình lấy đũa thần chạm vào người kia cho họ có hạnh phúc. Kỹ thuật sử dụng là sự đối chiếu, mình thấy rất rõ khi đem cảm thọ đó đối chiếu với cảm thọ khác. Ví dụ sáng hôm nay mình đang đi thiền hành trong thiền đường Hội Ngàn Sao và đột nhiên mình nhớ tới thiền đường Cánh Đại Bàng. Cánh Đại Bàng bây giờ không còn nữa, mình đã bao lần mong ước được trở về đi trên sàn của thiền đường Cánh Đại Bàng. Nhưng hiện giờ mình đang đi trên sàn của thiền đường Hội Ngàn Sao.

Sàn này cũng rất mầu nhiệm, mỗi bước chân đặt lên sàn cũng có thể đem lại cho mình hỷ lạc cũng như ngày xưa mình đã từng cảm thấy hỷ lạc khi bước lên sàn của thiền đường Cánh Đại Bàng. Tùy theo cách Sư cô bước mà bước chân đó có hỷ lạc hay không. Đem bối cảnh của Bát Nhã tới để so sánh, mình nhận ra rằng được an tịnh, cùng chị em bước đi trong thiền đường mà không có sự đe dọa, truy bức, đập phá của những người quá khíchhạnh phúc rất lớn, nghĩ như vậy thì tự nhiên mỗi bước chân có hỷ lạc liền. Cũng bước chân đó, cũng sàn gỗ đó nhưng có chiếc đũa chánh niệm chạm vào thì có hỷ và lạc. Chánh niệm là nhớ lại những lúc mình không có tự do, không có thanh thản, hạnh phúc để trân quý sự thanh thản, hạnh phúc hiện giờ mình đang có.

Trong Lá thư Làng Mai số 33, thầy Pháp Hữu có viết một bài về quá trình xây dựng thiền đường Nước Tĩnh ở Xóm Thượng. Lúc đang xây cất tôi cũng có mặt chứng kiến các Thầy, các Sư chú và lâu lâu cũng có các Sư cô tới làm việc chung. Tôi nhớ rất rõ, mỗi ngày diện tích sàn thiền đường được lát gỗ tăng lên, cho tới hôm được ngồi nghe pháp thoại trong thiền đường lần đầu tiên thì hạnh phúc của đại chúng lớn vô cùng, nhất là mình biết rằng cả thiền đường là do các anh chị em mình làm ra.

Sáng nay đi trên con đường lát gạch từ thiền đường về Cốc Ngồi Yên, tôi thấy rất rõ những viên gạch đó do các Thầy, các Sư chú, các Sư cô lót chung. Không ai biết viên gạch nào là của Thầy nào hay Sư chú, Sư cô nào lót. Nhưng mình biết trong đó có tình anh chị em, có niềm vui khi ngồi làm việc với nhau. Nếu có chánh niệm mình nhớ lại lúc mình chưa có con đường đó thì tự nhiên hạnh phúc trào dâng lên. Hỷ và lạc là cái mình có thể chế tác rất dễ. Con đường còn đó và sẽ còn lâu dài cho mình đi những bước chân chậm rãi, những bước chân chế tác được hỷ và lạc.

Mình cần được nuôi dưỡng bằng hỷ và lạc để có đủ sức giúp đời, giúp người.

Tôi đề nghị Xóm Hạ và Xóm Mới cũng nên làm những con đường gạch và mời các xóm khác tới làm chung. Khi bước đi trên con đường đó mình biết đây là do Sư anh, Sư chị, Sư em của mình lót gạch. Những bước chân sẽ làm cho trái tim mình ngập tràn tình thương.

Hàng ngày, mỗi sớm mai hay mỗi chiều hôm mình đều đi từ Tăng xá tới thiền đường để ngồi thiền, mình đã có biết bao cơ hội bước đi trên con đường đó. Buổi sáng, trưa, tối mình bước những bước chân thảnh thơi, ý thứcnuôi dưỡng. Mình có rất nhiều cơ hội để chế tác hạnh phúc, niềm vui, chế tác tình anh chị em. Đó chính là chánh niệm. Chánh niệm là trái tim của sự thực tập. Có niệm là có định, có hạnh phúc. Niệm và định đưa tới tuệ và có tuệ thì hạnh phúc càng lớn hơn nữa.

Chữ niệm trước tiên có nghĩa là nhớ lại, đem tâm trở về giây phút hiện tại để tiếp xúc được với giây phút hiện tạiđồng thời cũng tiếp xúc được với giây phút hiện tại trong bối cảnh của quá khứ. Nhiều khi hạnh phúc có đó nhưng mình không nhận diện được. Cái khổ và cái vui chỉ được nhận diện khi có sự so sánh với nhau. Trong bối cảnh của khổ đau, mình nhận diện được hạnh phúc dễ dàng. Dù có nhiều điều kiện hạnh phúc mà không có niệm thì cũng như không có. Sự thật thứ nhất (khổ) và sự thật thứ ba (lạc) có liên hệ với nhau rất mật thiết. Không có khổ thì không có lạc, vì vậy mình đừng nên có tư tưởng sai lầm là phải xóa hết dấu vết của khổ đau thì mới có hạnh phúc. Đó là nhận thức sai lầm gọi là tà kiến. Mình phải học lại Tứ Diệu Đế, đừng nghĩ rằng phải đá cái khổ đi ngàn dặm và chỉ giữ lại cái lạc. Không có cái khổ thì đố anh có cái lạc! Người tu là người khéo léo sử dụng cái khổ để làm thành cái lạc. Với đau khổ, các anh, các chị có thể chế tác ra hỷ và lạc để nuôi mình và giúp cho thế giới. Đó là cái nhìn bất nhị của đạo Bụt về khổ (duhkha) và lạc (sukha).

Mình nên pháp đàm, chiêm nghiệm để viết bài về sự thực tập: Tôi chế tác hỷ lạc như thế nào? Là người tu có nghệ thuật, tôi có thể chế tác hỷ lạc trong đời sống hàng ngày và giúp cho bạn tu cũng chế tác được hỷ lạc như tôi. Hạnh phúc và khổ đau tùy ở tâm mình chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Nếu có pháp môn, có phương pháp thực tập thì trong bất cứ hoàn cảnh nào mình cũng có thể chuyển hóa khổ đau và chế tác hạnh phúc.

Nếu có hứng, quý vị có thể viết cho tôi một bài ngắn “Con đã chế tác hỷ lạc như thế nào.” Quí vị chắc chắn dùng chánh niệm, nhưng cũng phải dùng phương pháp tương phản: Đem khổ đau lên nhận diện để thấy rõ hạnh phúc mình đang có. Khổ đau rất cần thiết cho sự thực tập của chúng ta.

(Giảng tại thiền đường Hội Ngàn Sao, Làng Mai ngày 09 tháng 01 năm 2011)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16675)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20571)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18270)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19846)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14843)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13953)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13146)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14006)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17635)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15397)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14455)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17851)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21895)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16877)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14710)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18978)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25279)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15769)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20723)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17010)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18632)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20017)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39305)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31509)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36013)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23864)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant