Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thời mạt pháp, pháp có mạt?

15 Tháng Chín 201300:00(Xem: 6157)
Thời mạt pháp, pháp có mạt?

THỜI MẠT PHÁP, PHÁP CÓ MẠT?
Nhụy Nguyên

 

Trong sáu nẻo luân hồi, nếu không tinh tấn tu luyện hẳn nhiều người còn phải “ghé vào” ở các kiếp kế tiếp. Phật thấy được quá khứ vị lai, thấy được tương lai của Pháp mình đã giảng sẽ còn lại những gì. Phật thấy sự suy đồi nhân tâm. Thấy một bộ phận người (trong đó có tôi) sẽ dùng lý trí để phân tích, thậm chí thẩm định lời Phật, hiểu lệch và hiểu cạn. Phật Pháp vốn đại quang minh tạng; sáng hay tối tùy thuộc và sự hiểu và hành ở mức độ nào của mỗi sinh mệnh. Thời còn tại thế Phật dạy đệ tử: “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, Này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.” (Kinh Trường Bộ, bài Kinh Đại Niết Bàn). Đức Phật từng chia mốc thời gian của Pháp như sau: thời Chính Pháp (1.000 năm) - Tượng Pháp (1.000 năm) - Mạt Pháp (10.000 năm)... Theo lịch Đông phương, thời Mạt Pháp đã qua một ngàn năm đầu tiên.

Thực chất Pháp mạt là dosự vô minh thông qua thân, khẩu và ý nghiệp đã khiến lời Đức Thích Ca truyền giảng bị “sử dụng” lệch chuẩn. Kỳ thực dưới hào quang tỏa rạng của Pháp, vô lượng chúng sinh vẫn miệt mài trực chỉ nhân tâm, chân trần vững bước qua biển mê.

Nếu ánh quang minh của Phật qua gần 3 ngàn năm nay đã mờ, sao vẫn sản sinh ra rất nhiều những vị Sư đắc đạo. Thời Lý - Trần được xem là hưng thịnh nhất của Phật giáo Việt Nam. Dưới triều Lý có Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 - 1116); với minh chứng rõ ràng cho thấy vua Lý Thần Tông chính là hóa thân của ông. Thời Trần có Phật hoàng Trần Nhân Tông, con người thứ 2 sau Phật đưa ra một thông điệp ngàn đời: áo bào không thể cao quý hơn tấm cà sa; ngay cả vua, người ngồi trên đống vàng, trên thiên hạ, người ngồi trên mọi sự hưởng lạc, là người tiêu xài không thiếu thứ gì song khó thể… tiêu nghiệp. Chưa nói đến chuyện, vua, cũng là người có nguy cơ tạo nhiều nghiệp nhất. Viên mãn hơn là 2 sư đắc đạo để lại toàn thân xá lợi ở chùa Đậu. Rồi chúng ta còn có vị Bồ tát khiến nhân loại “quỳ gối” trước trái tim vĩ đại - đó là Thích Quảng Đức. Nhìn ra thế giới, Giáo sư Alexander Berzin (người từng là thông dịch viên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma) cho biết, có khoảng một nghìn dòng lạt ma hóa thân đã được xác định. Những vị hóa thân, một phần ra được ngoài Tam giới, tức họ đã nhập Niết Bàn và nay nguyện trở lại cứu vớt chúng sinh. Nói cách khác, họ là những đệ tử chân truyền xuất sắc của Phật, nối dài thêm vào danh sách một vạn hai ngàn năm trăm vị đắc quả La hán thời Phật còn tại thế. Kinh Hoa Nghiêm dạy rất rõ ràng về vô số những vị Bồ tát hóa thân làm “người thường” có mặt ở các ngành nghề trong xã hội thuộc mọi thời đại âm thầm và “tuyệt mật” độ cho những chúng sanhcơ duyên. Chính họ là những minh chứng xương thịt cho thấy: Phật Pháp vẫn nguyên xưa. Ngay đến thời Diệt Pháp, Phật cũng tiên liệu Pháp chỉ còn 4 chữ “A Di Đà Phật”. Nhưng 4 chữ ấy chính là sự “gói gọn” của Pháp giới. "Niệm A Di Đà Phật đến thuần thục thì những giáo lý chí cực của Tam Tạng mười hai bộ kinh cũng đều nằm trong ấy cả. Một ngàn bảy trăm công án, mấu chốt hướng thượng cũng nằm trong ấy cả. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, Tam Tụ Tịnh Giới đều nằm trong ấy cả" (Ngẫu Ích đại sư Pháp ngữ). Vậy nên,“Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình”; “đạo Phật là đạo đến để mà thấy, chứ không phải đạo đến để nhờ người thấy hộ, đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải đạo của người nhắm mắt, đạo của người thấy, của người biết (Passato Ajànato), không phải là đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato)”. (Chánh pháphạnh phúc - HT Thích Minh Châu). 

Phật Pháp thấm nhuần khắp vạn vật cỏ cây, không gì không bao hàm. Bất cứ con người làm gì, nghĩ gì đều nằm trong Pháp; nếu nằm ngoài chính là mê lầm đang dẫn lối. Con người đó dẫu tốt đến mấy, sâu sắc đến mấy, bất quá cũng chỉ là một công dân hạng bét trong quá trình “tiến hóa” thành Phật. Tiền tài danh vọng, tham dục là quả bóng vàng luôn bày sẵn trước nhục nhãn. Với người tu họ sẽ quán đến khi quả bóng ấy thành bóng bay, trương phình và nổ. Cái không. Bình lặng lần trở về chân Tâm. Người không tu sẽ kiễng chân tìm cách với tay nắm bằng được; ngay sau đó liền xuất hiện thêm quả bóng vàng khác to hơn nặng hơn, đặt cao hơn, tiếp tục mê dụ người đời.

Hãy thử nghĩ: có một người tốt chuyên giúp đỡ kẻ khác. Kẻ được giúp đỡ thoát nghèo, rồi kha khá, rồi giàu, trong suốt giai đoạn phát đạt tịnh tiến ấy hầu như tuần nào cũng đến xin xỏ, người tốt có bực mình? Đương nhiên. Người tốt sẽ, một là đuổi kẻ lợi dụng lòng tốt đó, hai là tự dời chỗ khác. Dõi vô chùa chiền. Không phải tất cả song phần lớn người cúng dường đều muốn xin một cái gì đó lớn hơn số vật chất họ cúng, xin thứ mà tiền không mua được (ví như nghiệp nạn họ phải gánh chịu do tự thân tạo tác). Hoặc giả người trắng tay, đến chùa chỉ để quỳ trước tượng Phật xin thoát cảnh bần hàn, xin được trúng số, vân vân. Thiết nghĩ, nếu khoa học chế tạo ra bộ máy đặt phía sau tượng Phật thâu âm những lời nguyện; số người xin có được mái nhà khỏi dột để an tâm học Phật, xin được khỏe mạnh để giúp người khác, nguyện cho kẻ thù bớt hại người, thuần tâm dưỡng tính, xin cho không có chiến tranh… sẽ chiếm tỉ lệ quá khiêm tốn so với người xin trăm nghìn thứ liên quan đến thụ hưởng - cái mà Phật không thể đáp ứng ngoại trừ chỉ ra con đường họ phải đi để thoát nghiệp. Thế nên nếu kẻ nguyện không chân thành, không hiểu đúng bản chất của Phật, thì “ông Phật” trong họ là giả. Nếu họ hiểu Phật, thay vì xin xỏ hãy làm đúng theo lời kinh răn dạy, nghĩ đến người khác trước lúc nghĩ đến lợi ích của mình thì tự khắc Phật tánh xuất hiện. Chúng ta biết, ngay đến đệ tử giỏi thần thông bậc nhất của Phật là ngài Mục Kiền Liên, khi thấy mẹ đội chậu máu đứng trên bàn chông cũng không thể phá rào nhân quả mang mẹ khỏi địa ngục. Mà ông phải quay về dương gian - theo lời Phật dạy: nương nhờ thánh lực của 10 phương tăng cộng trú vào ngày lễ Tự tứ đồng lòng cầu nguyện, mẹ ông mới được sanh lên cõi trời Đao Lợi.

Thời mạt quá trọng nghi lễ, khiến cho việc hành chuyên môn giảm xuống. Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người đạo lực cao, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên hương linh thêm phần chánh niệm. Đến là Phật nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, thì việc tụng kinh sám hối giùm ai với tâm vọng động ngã chấp không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hồi hướng nương theo Hương bát nhã, tịnh niệm Phật và được nhiều người cùng hộ niệm may ra Phật lực hút khỏi Ta bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Hợp vệ sinh môi trường và nhân văn hơn, trong Di chúc, Bác Hồ cũng mong muốn nước ta có nhiều lò thiêu thay vì địa táng. Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo đã khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộctrụ tâm niệm Phật cầu vãng sanh về Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Tại sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu. Trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện rồi nguyện dành cho người âm. Đó là điều có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta.

Cúng bái là "trò chơi" cuồng tín trong xã hội phong kiến Ấn Độ. Nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúng mà chỉ đến giảng pháp, thọ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng không hẳn sai. HT Thích Trí Quảng từng dạy: “Thầy cúng cũng có cái hay của họ, khi có người qua đời, hay có người bất an, tất nhiên cũng phải nhờ đến thầy cúng. Tôi quý trọng thầy cúng khi thấy họ chịu cực tụng kinh dẫn vong trong các tang lễ”. Cái sai ở người thực hiện. Để yên lòng người chết (hay yên lòng người sống), nếu là một gia đình nghèo, có khi không đủ kinh phí cúng cấp. Ngày xưa Đức Gô Ta Ma nhận đệ tử ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào. Bình đẳng tuyệt đối. Ăn không phân biệt thứ gì được cúng dường, ngủ bất cứ nơi đâu trong rừng hay trên núi. Đoàn giáo sĩ hàng ngàn người của đức Buddha xưa hoan hỷ an cư trong khu rừng của hoàng tử Jeta xứ Kosala trao tặng. Nay có chùa lớn lại chỉ an trú dăm người, ít mở Pháp hội, nên không tránh khỏi chùa ấy trở thành nơi “thờ Phật” chứ không phải “học Phật”. Việc này đặt lên vai những nhà chuyên tu trong chùa đó gánh nặng nghìn vạn cân, khi không những tu cho chính mình mà còn hồi đức cho các thí chủ. Lão Hòa thượng Quảng Khâm, người gần như chỉ ngủ ngồi; là một minh chứng sinh động cho việc liễu thoát sanh tử, một tấm gương ngọc bích không tì vết, là bậc thầy tâm linh vĩ đại của bất cứ người tu thuộc pháp môn nào, đã nói: “Phật pháp khôngmạt pháp, mà “người” thì có mạt pháp - Người không biết kính Phật trọng pháp. Người già thì đặt Phật pháp tại chỗ mạt nhứt của các sinh hoạt - đặt sau tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghê, lại đặt sau “trà dư tửu hậu”, đặt sau “nhân tình thù tạc”. Người mà đem tính trọng yếu của việc học Phật đặt vào chỗ tối mạt là người của thời đại mạt pháp. Nếu là người kính trọng Phật, trọng pháp thì mãi mãi là người của thời đại pháp!”

Đạo Phậthiển bày chân tướng vũ trụ nhân sinh. Trên không gian địa cầu có nhiều cảnh giới khác nhau cùng tồn tại. Đơn cử không gian của người âm. Con ngườitrung tâm. Vậy điều trọng yếu ta phải trang bị là gì nếu trước hết không phải triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh chính là phần nền tảng trong đạo Phật, nêu ra một cách chi tiếtsinh động về các tầng không gian tâm linh. Có xa vời chăng? Có hay không cõi âm? Đất nước chúng ta có hẳn một viện nghiên cứu về vấn đề này. Một nhà ngoại cảm uy tín, bằng khả năng có được “từ cõi chết trở về” đã nói chuyện với hơn mười nghìn liệt sĩ, những tưởng thừa lý do đục bỏ ba chữ “chết là hết” cùng một dấu chấm than chạm khắc trên tấm bia chấp thủ của bao người. Gần đây, nhà ngoại cảm qua sự tiếp xúc với người âm đã thấy sự nhiệm màu: sống không tu tập, chỉ có đạo Phật là bè cứu sinh. Trong một đại lễ cầu siêu, nhà ngoại cảm thấy Thượng Dương hoàng hậu do sân hận với Nguyên Phi Ỷ Lan nên sau ngàn năm vẫn chưa “siêu thoát”, còn chen lấn cùng chúng sinh bốc cháo cùng đồ vãi cúng.

Để người âm được siêu thoát, người trụ lễ cầu siêu nhất thiết phải là minh tu, là Hòa thượng, bậc đắc đạo chứng quả… Siêu thoát ở đây, thiết nghĩ phải bỏ trong ngoặc kép, bởi siêu thoát đúng nghĩa phải là thoát luân hồi ra ngoài Tam giới. Có thể ví sự siêu thoát trên như một cán bộ tại cơ quan nọ trước làm việc trong căn phòng tối tăm chật hẹp, ẩm mốc, nay được chuyển tới gian phòng thoáng đãng hơn; đó cũng có thể là tầng trời thấp! Mỗi cảnh giớithời gian khác nhau. Chúng ta biết các liệt sĩ được tiếp chuyện với nhà ngoại cảm, sau mấy chục năm họ vẫn ở “tuổi hai mươi”, vẫn không già. Biết đâu ở cõi ấy, một năm chỉ bằng một ngày ở cõi dương. Đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu một lần lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ, phải lòng liền cưới làm vợ. Nửa năm (ở cõi trời) chợt nhớ trần gian da diết nên quyết định xuống thăm bà con họ hàng, đâu ngờ chẳng còn ai. Ngẩn ngơ hỏi han mới biết người thân giờ thành thiên cổ bao đời. Thượng Dương hoàng hậu sau hàng ngàn năm, nhà ngoại cảm cũng thấy bà “như cũ”. Như vậy có thể người âm sau nhiều năm (ngồi chưa ấm chỗ) họ vẫn chưa đến thời điểm chịu nghiệp quả tạo tác ở đời hoặc họ đã nhận chịu sự thống khổ vô biên nhưng “bất khả lộ”, hay họ chưa phải đầu thai vào các nẻo trong lục đạo. Gần giáo lý Phật hơn, chính là do chấp nê thân mình; đó chỉ là sự tác động của thần thức, là “ảo”. Còn trong bổn tánh khônglinh hồn; thấp hơn thì chết rồi chúng ta sẽ bị thức/nghiệp dẫn đầu thai; lại chấp một thân mới, sống và chết đi; nếu (hồn) họ chịu tới chùa nghe kinh nghe pháp, chịu niệm Phật khắc sẽ thâm nhập vào một cõi nào đó không tệ, rút ngắn thời gian cập bờ Tịnh độ. Các nhà ngoại cảm nói chung chưa thể nhìn thấy cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, a tu la… (phải người chứng Đạo mới thấy). Họ chỉ mới thấy cảnh giới Thân trung ấm và “những vấn đề xung quanh”. Điều này cũng là hạn chế lớn khi soi vào định luật nhân quả, rộng hơn là không tránh khỏi khiến nhiều người hiểu sai chân Pháp; ngay cả người thân của Phật cũng không ngoại lệ. Vào thời điểm xảy ra chiến tranh, Ngài Mục Kiền Liên xuống trần gian hốt dòng họ Thích vào bát mang lên trời lánh nạn. Cuộc chiến chấm dứt, Ngài xuống lại trần gian đổ bát ra thì thấy… toàn máu!

Đạo Phật hàng ngày nhắc nhở nhân loại hãy thức tỉnh. Bộ óc con người thật vĩ đại, ai uyên bác không chừng nạp được hết thảy kiến thức liên mạng; chỉ trừ Phật pháp. Mức độ nghiêm trọng hơn, nhân loại gán cho đạo Phậttôn giáo. (Chữ giáo gắn sau Phật phải mang nghĩa giáo dục mới đúng, chứ không phải giáo thuyết. Đạo Phật không mang nghĩa giáo chủ thần quyền! Kinh Nền Tảng Đức Tin viết:(1) Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở; (2) Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết. Phật chỉ giảng ra những gì mình thấy lúc đại triệt đại ngộ. Ai nghe rồi hãy hành trìtự chứng xem có đúng không? Không đủ duyên thì tự bỏ Phật, không văn bản nào ràng buộc. Từ thời điểm 500 vị chứng quả A la hán đầu tiên do tổ Ca Diếp tập hợp làm chứng cho việc chép lời Phật thành Kinh, (hễ một trong 500 vị ấy bảo lời này không đúng của Phật lập tức phải bỏ ra) cho đến nay đã rất nhiều người “giấu mặt’ chứng Thánh quả, vẫn chưa ai “giải thiêng” một câu Kinh. “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” - câu nói của thầy giáo Thích Ca Mâu Ni nhẹ như mây khiến những người tu cúi lạy vạn lần còn mang ơn trọng.

Mỗi cảnh giới gần như là sự đặc định từ vũ trụ. Nếu cõi người không cần pháp luật trị ác nhân thì vũ trụ cũng đâu cần tạo ra các tầng cấp để ân sủng Phật. Phật thấy chúng sinh quằn quại trong địa ngục, nhớp nhúa quăng quật trong cõi bàng sanh, giằng xé nhau trong cõi ngạ quỷganh đua tham đắm trong cõi người nên đã cùng các Bồ tát xuống cứu vớt. Nếu thấy được công ơn vô lượng của các Ngài, sẽ không một ai lại kêu “sao cuộc đời lắm bất công oan trái!” Con người không chịu tu để vói tay “lên trời” nên cứ đinh ninh “nho còn xanh quá”. Một người nông dân nghèo họ thường ăn cơm vào buổi sáng lấy sức làm lụng, cơ may được lên phố nhận việc công sở lương bổng kha khá thì chuyển qua dùng bún cháo. Sau một thời gian dư dả họ lại tìm đến những quán ăn xa xỉ, dẫn đến tình trạng tìm kiếm “cảm hứng” cho vị giác. Một người tu, nhờ năng lượng từ thiền định thanh lọc tâm tịnh sáng, một thời gian họ thấy không còn nhu cầu điểm tâm sáng; chuyên tâm miên mật hơn người tu nhập thất hàng tháng hàng năm trời không ăn uống. Người nông dân (trở thành cán bộ) kia sẽ không hề chạm tay được vào niềm hạnh phúc vô bờ của người tu (trở thành thiền sư) khi gần như dứt cái sự ăn uống. Từ Thú tánh họ tập chuyển về sống với Pháp tánh, Phật tánh; niềm an lạc sanh từ dứt phiền não, ngũ dục lục trần - những thứ mà người phàm càng cố khoanh vùng hưởng thụ càng thấy bất lực khi thời gian dành cho sự tỉnh thức dần ráo cạn.

Con người - chủ nhân của trái đất lẽ nào lại phớt lờ căn cốt triết lý nhân sinh?! Không tin đời sau là không muốn biết căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nhân quả báo ứng là không muốn biết căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin luân hồi sinh tử là không muốn biết căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nếu tu tập đúng theo lời dạy của Phật sẽ trọn vẹn hết khổ đau là không muốn biết đến cốt tủy triết lý nhân sinh, v.v. Con người lẽ nào muốn trang bị tất cả những triết lý khác trước rồi mới trang bị triết lý nhân sinh? 

Con Người tin sâu triết lý nhân sinh nghĩa là tin sâu lời Phật, sẽ không còn nghĩ ác, không còn hành vi bất thiện, dẫu cho sự nghĩ và hành vi ấy không ai nào biết đến. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm mười hai có chép: “Đại hải Long Vương lúc làm mưa/ Có thể phân biệt đếm từng giọt/ Ở trong một niệm biết rõ ràng”. Hàng ngày ta vẫn giấu những việc xấu - gọi là nghiệp, và khoe khoang việc tốt, những việc liên quan đến từ thiện - gọi là đức. Mới chỉ Đại Hải Long Vương thôi trong một niệm đã thấu rõ bao giọt mưa trong trận mưa, huống hồ. Phật trong một niệm biết bao nhiêu lá rụng trong rừng. Tựa như lúc ta đóng ngoặc kép dòng tên một người nổi tiếng cho vào google rồi enter, trong một giây cho ra hàng triệu kết quả. Phật thấu suốt đức nghiệp của hết thảy chúng sinh. Những việc xấu ngay cả mới khởi ý niệm vi tế thôi đã có trung tâm xử lý nhân quả ghi lại.

Sau 7 ngày thiền định dưới cội Bồ đề, Phật chứng quả đầu tiên Túc mạng minh - thấu tỏ những đời quá khứ vị lai. Cuộc đời một sinh mệnh trong Tam giới như sợi dây giăng ngang trời với vô vàn nút thắt, mỗi nút đánh dấu một kiếp, quãng giữa các nút dài ngắn tùy thuộc vào số mạng. Con người nói chung phải bám vào quả địa cầu quay tít mù và luôn trong cảm giác lo sợ run tay mỏi gối văng vào các nẻo thấp thua. Đệ tử của Đức Phật, nhiều cư sĩ đều có một gia đình cần lo lắng, một số nợ cần trả, một sự nghiệp (đã lỡ mang vào) cần hoàn thành ở mức tương đối... Làm việc, âu cũng rất cần thiết cho sự khảo nghiệm tâm tính. Đời là trường tu. Xã hội loài người đang phát phì bởi tích quá nhiều nghiệp. Ta còn nhúng tay vào việc đời ắt còn có nguy cơ làm tổn hại đến nhiều người. Người tu chân chính, ít nhất họ sẽ không đụng chạm đến lợi ích của ai, đã là quý lắm rồi. Người ta làm việc có lương cao, lại chi cho bản năng hưởng thụ mất quá nửa. (Mà, hưởng thụ là tạo nghiệp). Một người tu lương tháng ít ỏi song bản thân cần chút ít đã sống tốt sống khỏe, dư dả giúp đỡ người khác mà bản thân lại ít tích nghiệp. Không ít người tu tại gia, khi đến con cháu chơi, mang nào chén bát xoong nồi; trong lúc nếu thật tâm đoạn cá thịt, chỉ cần chén bát rửa sạch cũng được. Người tu nên biết chấp vào cái gì dẫu là sở đắc, cái đó sẽ trở thành chướng ngại; và ở phương diện này đòi hỏi người không tu cũng nên có cái nhìn rộng lượng hơn. Một gia đình ăn chay trường, đã bị hàng xóm dè bỉu “giả bộ ăn chay để che đậy keo kiệt”; rồi là “chắc chúng gây tội quá nặng nên mới ăn chay trường”. Có người cứ gì ăn nấy không khen ngon cũng chả chê dở, liền bị rủa “đã ăn chay còn thèm mặn ngọt", kỳ thực người này đạt đến tâm không phân biệt, một trình độ tâm linh không tồi. Lại không chừng có những vị Bồ tát hóa thân trước mặt chúng ta lại chẳng biết, đem lòng khinh khi thật lỗi trùng trùng.

Tu là cốt giải thoát luân hồi sinh tử, đạt Niết Bàn. Người không học Phật cứ cứng nhắc Niết Bàn ở tít tận mây xanh. Niết Bàn - từ tia nhìn gần và thô là đạt đến Tâm Bình Lặng giữa xô bồ trần tục. Ai sinh ra, hữu ý hay vô tình đều đã nhờ vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật Pháp.


(CÙNG TÁC GIẢ)



_
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12895)
Những cơn sóng lăn tăn đủ kỳ cọ những vết sương gió trên da thịt con trôi đi và còn lại đứa con của mẹ dại khờ. Con thả lỏng và nằm nổi trên mặt nước xanh...
(Xem: 12305)
Có cái gì đó nơi nụ cười, cứ như ông Phật của 40 năm trước bằng cách nào đó đã quay lại với ông. Ông thấy thích pho tượng, thích như chưa bao giờ thích đến thế.
(Xem: 11566)
Cuộc sống này quý báu vô vàn, Đức Phật dạy thế cho nên tôi không bao giờ có ý nghĩ hủy hoại cuộc sống. Tôi yêu mến cuộc sống của tôi và của mọi người.
(Xem: 13938)
Việc du hành đến Ấn Độ tu tập đã giúp cho Job chuyển sang Phật Giáo. Thầy Kobun Chino, một nhà sư đã chủ trì hôn lễ của ông với bà Laurene Powell...
(Xem: 15801)
Lâu rồi mới thấy tâm hồn mình thanh thản đến thế. Đứng dưới cội cây vàng nhìn lá rơi ngập phố, chợt nghe mơ màng cả một khoảng trời...
(Xem: 14089)
Ngắm chiếc lá thu chín đang lìa cành rơi rụng ta hiểu được sự hoàn tất của một chu trình chuyển hóa để thăng hoa.
(Xem: 16147)
Thuốc giải thù hận ở trong trái tim, cội nguồn của bạo động, là bao dung. Bao dung là một đạo đức quan trọng của bồ tát [những anh hùng và anh thư giác ngộ]...
(Xem: 12386)
Sáng nay, Sư Cô định lên đỉnh núi tìm hái một ít lá cây đem về làm thuốc cho bà con trong làng.
(Xem: 13485)
Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhã dịu dàng mà lan tỏa.
(Xem: 11940)
Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện.
(Xem: 11025)
Một vùng đất bán sơn địa khô cằn sỏi đá, mùa nắng thường kéo dài. Cây cối gần như khô kiệt. Nhưng cây bồ đề vẫn xanh mát, gần như tách biệt hẳn với cảnh vật xung quanh.
(Xem: 11271)
Mới đầu hạ mà sen đã nở rộ. Nhìn những cánh sen trắng hồng tươi tắn vươn lên từ trong đầm nước, cũng làm dịu bớt cái nắng nóng mà tôi mang tận từ thành phố về đây.
(Xem: 11467)
Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.
(Xem: 12125)
Rong ruổi trên những nẻo đường quê tháng 8, chợt tiếng trống múa lân trong ngõ nhà ai rộn lên từng hồi làm lòng tôi chợt thấy xuyến xao bao nỗi niềm nhớ...
(Xem: 12265)
Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa. Ừ! ai cũng hay nhìn cuộc đời qua lăng kính của mình. Chuyện anh Cuội theo đó sinh nhiều ngõ ngách nhiêu khê...
(Xem: 11900)
Đây là một câu chuyện thật về sự hi sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàngNhật Bản. Sau khi trận động đất đã qua đi...
(Xem: 11494)
Mười năm hay bao nhiêu năm đi nữa, thì ánh đạo từ bi và niềm tin của em đối với chị vẫn nguyên vẹn như cái thuở chúng ta cùng hiện hữu trên cõi đời này.
(Xem: 11931)
Dư âm về người là đời sống thanh cao thoát tục, là hạnh nguyên vị tha, là quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Sư ra đi mang theo nhiều tâm nguyện còn dang dở.
(Xem: 12034)
Sáu mùa xuân trôi qua kể từ ngày chị rời xa trần thế, tôi vẫn không ngờ mình đã xa chị trong ngần ấy thời gian. Một người chị mà tôi luôn gắn bó trong suốt quãng đời tuổi thơ.
(Xem: 13441)
Từ cuối tháng 7 âm lịch, hoa ngô đồng bắt đầu rộ đỏ trên toàn đảo, làm cho Cù Lao Chàm thêm một vẻ đẹp vừa sinh động lại vườn huyền hoặc.
(Xem: 12325)
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhận yếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiến tu học, đó là những hạt giống thiện lành.
(Xem: 11787)
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
(Xem: 11490)
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
(Xem: 10838)
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
(Xem: 10148)
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
(Xem: 10611)
Dù gì thì đời sống tu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranh đơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dong tự tại với tháng ngày.
(Xem: 10919)
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
(Xem: 10375)
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
(Xem: 11382)
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
(Xem: 9970)
Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân.
(Xem: 10957)
Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật.
(Xem: 11219)
Mấy năm sau này mẹ chị thích lui về sống cuộc đời tu niệm tại gia. Thế là chị cho xây một am thất ngay trong khu vườn cây xanh tĩnh lặng ở ngoại ô...
(Xem: 12669)
Thầy luôn ở bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn con đầy tình thương ấm áp của người cha, miệng mỉm cười trao truyền sự an lạc từ tâm hồn tới tâm hồn.
(Xem: 13021)
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thế mà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 12005)
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụng thực hành giáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
(Xem: 11748)
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
(Xem: 11485)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ biểu hiện khi tâm ta bị màn vô minh che lấp, bị chi phối bởi sự điều động của bản ngã tham sân si.
(Xem: 10235)
Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính...
(Xem: 11949)
Hãy im lặng để nhìn thì tôi tin bạn sẽ “ngộ” ra nhiều thông điệp sống mà cuộc đời trao ban cho mình.
(Xem: 11003)
Trời ở đây đã bắt đầu vào thu. Mỗi sớm mai khi mở cửa tôi vẫn được nhìn thấy mặt trời dần lên sau những cụm mây hồng.
(Xem: 10980)
Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.
(Xem: 12719)
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
(Xem: 16424)
Chùa Thiện Minh, nơi tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ 5, do Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt là trưởng ban... Thích Nguyên Siêu
(Xem: 12220)
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh...
(Xem: 11961)
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
(Xem: 10514)
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học rộng rãi.
(Xem: 10642)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10573)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11777)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12329)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant