Tâm lýnhân loạixưa nay do sợ hãi các thế lựcu minh, huyền bí, sợ bệnh tật ốm đau, sợ tai trời ách nước, sợ nghịch cảnhéo le, sợ tai ươnghoạn nạn; hoặc do cơ khổ nghèo nàn, do làm ăn lụn bại thất bát, do tội tù nguy khốn, do sự nghiệp bấp bênh, do danh vọngđịa vị lung lay; hay do rủi robất hạnh, do thất vọng tình đời... mà phát sanh tin cuồng, tin bậy. Tức là từ những lòng tinmù quáng để gởi gắm cuộc đời, số phận của mình. Họ nương tựa bất cứ ở đâu có thể nương tựa. Họ cầu khẩn, van xin đủ mọi ước mơhão huyền, ngây thơ hoặc không tưởng... trên cuộc đời nầy!
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biếtđúng đắn và sáng suốt.
Đức tin chơn chánh ấy là:
- Không tin vào một vị Thượng đế, một vị Chủ Tể, một đấng Sáng Tạo Chủ, Hóa Sanh Chủ nào sáng tạo ra muôn vật, muôn loài.
- Không tin vào bất cứ một quyền lựcsiêu nhiên nào có quyền ban thưởng, phạt ác, chi phối định mạng, số phận con người.
- Không nhẹ dạ tin vào những quyền lực thuộc tín ngưỡng nhất thần, đa thần, vật tổ hoặc các thánh thần do thế gian tôn xưng, ngụy tạo (Thờ tổ tiên, cha mẹ là tín ngưỡng thuộc về đạo hiếu; thờ các vị khai quốc, công thần, anh hùng dân tộc, Thành hoàng, chiến sĩ trận vong... thuộc về pháp tri ân, đều có trong giáo lýđức Phật, nhưng không nằm trong lãnh vựcĐức tin chơn chánh của bài này).
- Không mê tín thờ gốc đa, ông táo, thổ địa, thần tài, đốt vàng mã, xin xăm, bói quẻ, cúng sao, giải hạn để cầu lộc, cầu tài...
Ngoài ra, trong bài kinh dạy người dân xứ Kālāma, đức Phật còn có lời khuyên đầy minh triết về Đức tin chơn chánh cho người Phật tử, tóm tắt như sau:
- Không nên tin và chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy do tập tục cổ truyền từ xưa để lại.
- Đừng nên dễ dãitin theo những lời do thiên hạđồn đãi.
- Không tin, cả tin, nghe theo những điều đã được người ta nói lại từ trong kinh điểncổ thưtruyền thống nào đó.
- Đừng nên tin vào những điều do chính mình ước đoán, ức đoán, suy luận...
- Không nên chấp nhận điều gì có vẻ hợp lý, có vẻ đúng đắn ở bề ngoài.
- Đừng nên tin vào những điều có vẻ phù hợp với nhận thức, định kiến hoặc thành kiến của mình.
- Đừng nên tin tưởng điều gì - vì điều ấy hình như có vẻ chấp nhận được.
- Không nên tin và chấp nhận dễ dàng chỉ vì điều ấy được thốt ra từ cửa miệng một giáo chủ, một đạo sư, một tu sĩuy tín mà ta vốn đã kính trọng từ trước.
Rồi đức Phật xác lập về Đức tin chơn chánh như sau:
"- Này các con! Khi các con tự hiểu rõ rằng, những điều này không hợp với đạo đức và luân lýthế gian; những điều này là tội lỗi đáng bị khiển trách, những điều này bị các bậc thiện trí coi khinh, những điều này nếu thực hiện sẽ đưa đến sự phá sảntinh thần, đưa đến đau khổ và phiền muộn thì các con phải biết từ bỏ, không tin, không làm điều ấy.
Trái lại, khi các con đã hiểu rõ rằng, những điều này phù hợp với đạo đức, luân lýthế gian; những điều này là những việc lành, tốt, thường được ngợi khen; những điều này thường được các bậc thiện trítán thán, ca ngợi; những điều này nếu thực hiện sẽ đưa đến sự thăng hoa tinh thần, được hạnh phúc và an vui thì các con nên tin theo, nên thực hành điều ấy".
Phật ngôn ấy đã được nói ra cách đây gần ba ngàn năm nhưng giá trị minh triết của nó còn soi rọi đến tận thế kỷ văn minh ngày nay, dẫn đường cho con người biết đặt đức tin đúng chỗ, rất khoa học, hợp với chánh trí. Chỉ có đức tin ấy mới giúp ta đi tìm chân lý, tìm sự thật vậy.
Đức tin ấy được gọi là Chánh Tín - tức là tin vào những điều sau đây:
1. Tin Phật
Tin vào sự có mặt của chư Phật ba đời, các Ngài đã đang và sẽ xuất trần để cứu độchúng sanh đang đắm chìm trong sông mê, biển khổ (sông ái dục, biển sinh tử).
Tin rằng cách đây gần ba ngàn năm có Đấng Toàn Giác là vị Phật lịch sử, có sử liệu bi ký chứng minh, ra đời tại Ấn Độ; Ngài đã chiến thắng vô lượngma chướngngoại giới và nội tâm, đoạn trừ vô minh, phiền não, chứng đắcVô Thượng Chánh Đẳng Giác. Sau đó, suốt 45 năm ròng rã, Ngài đã không mệt mỏigiáo hóachúng sanh, đem hạnh phúc và an vui cho vô lượng chư thiên và nhân loại.
Đức Phật ấy dạy rằng: "Tất cả chúng sanh, ai cũng có khả năng thành Phật". Bởi vậy, chúng tatin tưởng rằng, nếu biết bỏ ác làm lành, biết phục thiện và hướng thượng, biết nỗ lựckiên trìtu tập theo con đường Giới, Định, Tuệ thì trong một vị lai nào đó, chúng ta cũng sẽ thành Phật như Ngài.
2.Tin Pháp
Tin rằng, những lời dạy vàng ngọc, đầy trí tuệ và từ bi của Ngài còn được trân trọng bảo lưu, gìn giữ đầy đủ ở trong Tam TạngThánh Điển: Kinh, Luật và Abhidhamma. Đây là những lời dạy khôn ngoan, minh triết, như chân như thật, cụ thể, thiết thực... là Chân LýTối Thượng, đã vượt qua, vượt trên tất cả mọi tư tưởngtôn giáo, triết học, các học thuyết của các triết gia, hiền triết, giáo chủnhân loại từ xưa đến nay.
Tin rằng, Pháp, Chân Lý, Sự Thật đã được đức Phật khéo thuyết có giá trịthiết thựchiện tại, vượt thời gian... mà những người có trí có thể chứng nghiệm trong lòng mình.
3. Tin Tăng
Tin rằng, tập thể Tăng-già quá khứhiện tại, vị lai đã, đang và sẽ tu tập theo con đường Giới, Định, Tuệ và đắc các quả Thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
Tin rằng những đức tính cao cả của Tăng-già như thiện hạnh (diệu hạnh), trực hạnh, ưng lý hạnh (như lý hạnh), và chánh hạnh (pháp hạnh) - chúng ta cũng có thể thành tựu được bằng cách rèn luyện thân, khẩu, ý cho đến chỗ trong lành, hoàn hảo.
4. Tin nhân quảnghiệp báo
Tin rằng, trồng cam được cam, gieo ớt được ớt, nhân nào quả nấy. Những bất đồng sai khác trên cuộc đời như giàu nghèo, sang hèn, trí ngu, vui khổ, rủi may, thọ yểu, xấu đẹp, phước tội... là đều do những nhân gieo sai khác từ rất nhiều đời trước mà ra cả.
Chính ý nghĩ, hành động và nói năng của ta từ quá khứ tạo tác, nó sinh ra đời sống và hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Và chính ý nghĩ, hành động nói năng của ta trong hiện tại chúng sẽ tạo thành nghiệp để tạo tác, quyết địnhđời sống và hoàn cảnh cho chúng ta trong vị lai. Hiểu nhân quảnghiệp báo như thế thì ta chính là thượng đế của ta, tự ta sinh ra ta chứ không phải là ai khác.
Tuy nhiên một hạt thóc không thể trở thành cây lúa nếu không có đất, nước, phân, ánh sáng, thời gian... Các yếu tốphụ tùy hỗ trợ cho cái nhân ấy chính là duyên. Nếu là duyên lành, tức thuận duyên, trợ duyêntác động lên nhân thì quả mới thành, mới toàn hảo. Nếu là duyên xấu ác, là nghịch duyên hay chướng duyên tác động lên nhân thì quả sẽ không thành, sẽ bị diệt vong, tiêu hoại.
Là người con Phật, ta phải biết tin vào định luậtnhân quảnghiệp báo đương nhiên này. Ta phải biết tạo nghiệp tốt từ ba cửa thân, khẩu, ý rồi luôn tạo thêm duyên lành hỗ trợ cho tam nghiệp ấy thì những kết quả tốt đẹp trong mai hậu, tuy chẳng mong cầu, nó vẫn tự đến với ta vậy.
5. Tin luân hồi tử sanh
Tin rằng, tất cả chúng sanhtừ vô lượng kiếp đến nay, do nghiệp thiện ácquyết định mà sinh tới sinh lui mãi trong 6 nẻo luân hồi. Các cảnh giới trong 3 cõi 6 đường kia chính do ta tạo ra chứ không phải là ai khác. Chính do tâm xấu, ác, lành, tốt sai khác mà tạo nên các cảnh giới sai khác sau đây:
- Khi độc ác, bạo tàn, hung dữ... xem chừng là ta đang mở cảnh giớiđịa ngục.
- Khi xan tham, khao khát quá độ, tham vọngquá độ, khát dục, khát áivô độ... xem chừngchúng ta đang tạo cảnh giớingạ quỷ.
- Khi si mê, đắm trước, trơ lì, đần độn, bản năng, thú tính... thì ta đã tự biến mình thành súc sanh!
- Khi sợ hãi, ngã mạn, cậy quyền, cậy thế, hung hăng, hiếu chiến, hiếu thắng... đưa đến việc sử dụng binh khí miệng lưỡi, binh khí đao, gậy, gươm, súng... để tranh chiến tranh thắng... thì ta đang sống trong cảnh giới a-tu-la.
- Khi xử sự có lý, có tình; sống có nhân có nghĩa, lành tốt nhiều hơn xấu ác thì ta được sanh làm người (hoặc có Tam qui, Ngũ giới, thập thiện).
- Khi có nhiều thiện tâm, khinh an, mát mẻ, hoan hỷ, biết tu hành, có bố thí, trì giới (Ngũ giới; bát giới), thập thiện, tham thiền... thì ta mở cửa bước vào 6 cảnh trời Dục giới.
- Khi tu thiền định đắc tứ thiềnHữu sắc, đắc tứ thiềnVô sắc thì ta vào trú xứ các cảnh trời Sắc giới, Vô sắc giới tương đương.
- Nếu ta tu tập Giới, Định, Tuệ đắc quả A-la-hán là ta giải thoát khỏi sự ràng buộc của 3 cõi. Và như vậy là ta sẽ không còn luân hồitái sanh nữa.
6. Tin Tứ Diệu Đế
Tin vào lộ trình thoát khổ là trọng tâm, là cốt lõigiáo lý mà đức Phật đã thuyết giảng; đó là sự thật về khổ, sự thật về nguyên nhân khổ, sự thật về diệt khổ, và sự thật về con đườngdiệt khổ. Con đườngdiệt khổ ấy là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo, là con đườngduy nhấtthoát ly mọi đau khổ trần gian, đem lại nguồn hạnh phúc đích thực cho tất cả chúng sanh.
Nói tóm lại, Đức tin chơn chánh này rất quan trọng mà thiếu nó là thiếu tất cả. Tuy nhiên, đức tin này không phải có được một cách dễ dàng; nó có được phải qua quá trình nghiên cứu, học hỏi, suy tư, chiêm nghiệm, tìm kiếm... và nhất là phải có sẵn duyên lành từ nhiều đời kiếp.
Một người Phật tử có đức tin - với 6 loại đức tin kể trên - không những xứng đáng là người có trí, xứng đáng là một người Phật tử mà còn tin chắc, biết chắc mình đã dần dần bỏ xa những hành vi xấu ác.
Nếu đức tin này được huân trưởng, củng cố mãi, đến lúc sẽ trở thành“đức tin kiên cố bất động”, chẳng bao giờ dời đổi, chẳng thể nào bị lay động bởi bất cứ thế lực, hoàn cảnh nào, đức Phật còn gọi người Phật tử ấy là bậc đã đi vào dòng Thánh, mãi mãi bước trên con đườngtiến hóa, không bao giờ còn sợ phải thối đọa hoặc rơi vào các cảnh giớiđau khổ nữa.
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quantiềm ẩn trong một tinh thần.
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dânViệt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhậnPhật giáo một cách tự nhiên.
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụcon người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiệntrao đổi không thể thiếu trong xã hộihiện tại.
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệuđơn giản dễ sử dụng.
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
Người hộ trìchánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnhnội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
Tuổi trẻ học Phật không có mục đíchtrở thành nhà nghiên cứuPhật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
Trong vô vàn tác phẩmâm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩmâm nhạcPhật giáo, ca khúcPhật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lậpbản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quantrái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợi và lợi tha Ôn vẫn bước đi...
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiếtthiêng liêng có vị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóaPhật giáo.
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
Mở đầu là chuyện thiền sưKhương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền báPhật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắcPhật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứngbản thểgiải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ănđi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tậpchúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dáng và sở thíchhoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhânhoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.